Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Vận dụng khái niệm trường nghĩa để phát triển vốn từ ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.83 KB, 60 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

HOÀNG THỊ TUYẾT

VẬN DỤNG KHÁI NIỆM TRƢỜNG NGHĨA
ĐỂ PHÁT TRIỂN VỐN TỪ NGỮ
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp phát triển ngôn ngữ

Ngƣời hƣớng dẫn

ThS. Lê Bá Miên

HÀ NỘI 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới ThS. Lê Bá Miên người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và động viên tôi tận tình trong suốt quá
trình học tập và thực hiện khóa luận. Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn tới Ban
Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo trong khoa Giáo
dục Mầm non, các thầy cô trong tổ ngôn ngữ, các thầy cô và trẻ ở trường Mầm
non Trưng Nhị- Phúc Yên đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế,
kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô giáo và bạn đọc để khóa
luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 03, tháng 05, năm 2017



Sinh viên

Hoàng Thị Tuyết


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi với sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo ThS. Lê Bá Miên. Đề tài chưa được công bố
trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.

Hà nội, ngày 03 tháng 05 năm

Sinh viên

Hoàng Thị Tuyết


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................ 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................. 7
3. Mục đích yêu cầu ............................................................................ 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................. 9
6. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu ...................................................... 10
7. Cấu trúc đề tài ................................................................................. 10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1.1. Quan niệm về vốn từ ................................................................ 11
1.1.2. Lí luận về trường nghĩa của trường nghĩa tiếng Việt ................ 12
1.1.2.1. Khái niệm về trường nghĩa ...................................................... 12
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu vật ............................................................. 13
1.1.2.3. Trường nghĩa biểu niệm .......................................................... 15
1.1.3. Cơ sở tâm lí học .......................................................................... 17
1.1.4. Cơ sở sinh lí học ......................................................................... 20
1.1.5. Cơ sở giáo dục học ..................................................................... 22
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Nội dung kiến thức phát triển vốn từ ngữ ở trường mầm non ... 23
1.2.2. Thực trạng việc dạy và học phát triển vớn từ ngữ theo trường nghĩa
.............................................................................................................. 25
Chƣơng II: PHÁT TRIỂN VỐN TỪ NGỮ CHO TRẺ THÔNG QUA
CÁC TRƢỜNG TỪ NGỮ
2.1. Nội dung phát triển vốn từ


2.1.1. Từ ngữ biểu đạt cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
2.1.1.1. Từ ngữ về những đồ dùng sinh hoạt trong lớp ............................... 29
2.1.1.2. Từ ngữ về trường mầm non ............................................................. 32
2.1.1.3. Từ ngữ về cuộc sống gia đình .......................................................... 33
2.1.1.4. Từ ngữ chỉ Thời gian, không gian ................................................... 37
2.1.2. Từ ngữ biểu đạt cuộc sống xã hội
2.1.2.1. Từ ngữ biểu đạt những ngày lễ lớn trong năm ................................ 38
2.1.2.2.Từ ngữ biểu đạt về người có công với đất nước ............................... 38
2.1.2.3. Từ ngữ biểu đạt về cuộc sống nhân dân .......................................... 39
2.1.2.4. Từ ngữ biểu đạt về Bác Hồ .............................................................. 40
2.1.2.5. Từ ngữ biểu đạt về Tổ quốc ............................................................. 41
2.1.2.6. Từ ngữ về các phương tiện giao thông ............................................ 42
2.1.3. Từ ngữ biểu đạt về thế giới tự nhiên

2.1.3.1. Từ ngữ biểu đạt về thế giới thực vật ................................................ 42
2.1.3.2. Từ ngữ biểu đạt về thế giới động vật ............................................... 45
2.1.3.3. Từ ngữ biểu đạt về các hiện tượng tự nhiên .................................... 46
2.2. Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ
2.2.1. Thông qua lĩnh vực khám phá khoa học ............................................ 47
2.2.2. Thông qua lĩnh vực phát triển ngôn ngữ ..................................................... 49
2.2..3. Thông qua hoạt động sinh hoạt hàng ngày................................................. 50
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận ............................................................................................................ 54
2. Kiến nghị ........................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................


1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hệ thống từ vựng của ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
nhận thức, tư duy, là phương tiện để giao tiếp giữa con người với con người. Nó có
thể diễn tả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy được từ vật thể từ nhỏ bé cho đến
thế giới rộng lớn, từ những nhận thức vật chất có thể cảm giác đến những giá trị tinh
thần trừu tượng mà các giác quan của con người không vươn tới được. Trong hệ
thống ngôn ngữ từ là đơn vị trung tâm có vai trò đặc biệt quan trọng. Nói như
Nguyễn Kim Thản thì: “ Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách khỏi những
đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về
ngữ âm, ý nghĩa” đây là vật liệu để tạo ra ý, tạo câu. Con người nếu như không có
vốn từ đầy đủ thì không thể sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Vì vậy
việc phát triển vốn từ cho trẻ rất quan trọng, nó giúp trẻ nắm vững tiếng mẹ đẻ, tạo
điều kiện cho các em học tốt ở cấp tiếp theo.

Trường nghĩa là tập hợp các từ đồng nhất với nhau về một ý nghĩa nào đó. Nói
cách khác một tập hợp theo tiêu trí về nghĩa. Do vốn từ ngữ của trẻ đã hạn hẹp và trẻ
chưa sử dụng đúng theo tình huống giao tiếp, việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp
và các tính chất của ngôn ngữ ở trẻ phụ thuộc vào phần lớn việc hướng dẫn, làm mẫu
về lời nói của người lớn. Trẻ nói được nhờ nghe người lớn và bắt chước người lớn.
Việc phát triển vốn từ cho trẻ là việc tổ chức có kế hoạch, có khoa học nhằm cung
cấp làm giàu vốn từ cho trẻ, nâng cao khẳ năng hiểu nghĩa của từ, củng cố và tích
cực hóa vốn từ cho trẻ, giúp trẻ biết vận dụng phù hợp vốn từ đó trong hoạt động
giao tiếp. Giai đoạn 5 – 6 tuổi đây là giai đoạn then chốt để trẻ chuẩn bị vào trường
phổ thông, là bước ngoạt trong cuộc đời trẻ. Vì thế, cần chuẩn bị tốt hành trang tâm lí
để trẻ sãn sàng đi học trong đó ngôn ngữ là thành phần cốt yếu. Khi sử dụng ngôn
ngữ, các từ chỉ có giá trị khi nó có chứa đựng nội dung, bởi vậy việc cung cấp cho trẻ
hiểu nội dung của từ là điều cần thiết. Việc dạy từ ngữ cho trẻ nhằm làm tăng số
lượng từ trong các trường nghĩa để có điều kiện lựa chọn là việc là hết sức cần thiết.
Nếu vốn từ ít thì khả năng lựa chọn sẽ bị hạn hẹp và hiệu quả cũng sẽ giảm, số lượng
từ đó cũng chưa đủ để trẻ thể hiện được chính xác những nội dung phức tạp, tinh tế
1


mà cuộc sống đòi hỏi. Chính vì vậy, trẻ cần có kế hoạch để vừa làm vừa tăng chất
lượng sử dụng từ vừa mở rộng vốn từ cho trẻ.
Trẻ ở giai đoạn 5- 6 tuổi là giai đoạn trẻ đã sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ nắm
vững ngữ âm và ngữ điệu, trẻ biết đọc diễn cảm, biết dùng cử chỉ điệu bộ bổ sung
cho ngôn ngữ nói, vốn từ và cơ cấu ngữ pháp đã phát triển. Ngôn ngữ giải thích, trẻ
có nhu cầu nhận sự giải thích và cũng giải thích cho các bạn. Ngôn ngữ tình huống
do giao tiếp với người xung quanh bằng những thông tin mà trẻ trực tiếp tri giác
được trong khung cảnh. Trẻ ở độ tuổi này cũng là một giai đoạn hoàn thiện cơ cấu từ
loại trong vốn từ của trẻ. Nhờ có đặc điểm trực quan hành động và trực quan hình
tượng của tư duy nên trước hết trẻ sẽ nắm được tên gọi các sự vật, hiện tượng, thuộc
tính quan hệ, mang tính chất biểu tượng trực quan phù hợp với hoạt động của chúng.

Sự lĩnh hội ý nghĩa của từ diễn ra dần dần, thoạt đầu trẻ chỉ đối chiếu từ với với sự
vật cụ thể, sự xâm nhập của trẻ vào hiện thực, khám phá dấu hiệu bản chất,…Dần
dần cùng với sự phát triển tư duy trẻ mới năm được nôi dung khái niệm trong từ.
Vốn từ của trẻ mẫu giáo có khối lượng nhỏ hơn rất nhiều so với số lượng vốn từ của
người lớn. Vì vậy, khối lượng vốn từ của trẻ phải dựa vào sự mở rộng nhận thức của
trẻ và được xác lập theo các trường nghĩa, cần kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động nhận
thức tích cực của trẻ, các nội dung phát triển vốn từ cho trẻ cần phải đưa vào tất cả
hoạt động của trẻ( học tập, vui chơi, sinh hoạt) để trẻ phát triển từ ngữ một cách có
hệ thống và trẻ tiếp thu nhanh.
Việc tổ chức hoạt động ngôn ngữ ở các trường mầm non đã được quan tâm, đặc
biệt là nội dung phát triển vốn từ, cung cấp từ ngữ cho trẻ. Chương trình giáo dục ở
mầm non ở hầu hết các tỉnh đã áp dụng chương trình đổi mới, việc phát triển ngôn
ngữ trong đó có việc phát triển vốn từ đã được quan tâm nhưng chưa thực sự hiệu
quả. Trẻ sử dụng từ ngữ một cách thụ động, không có hệ thống và lượng từ ít các từ
chỉ thuộc tính, và các câu ghép, câu mở rộng,… Việc phát triển từ ngữ thông qua các
hoạt động hàng ngày của trẻ còn mang tính rập khuôn máy móc chưa có định hướng
phát triển theo các hệ thống, còn sao chép chưa giúp trẻ phát triển lượng từ ngữ và
cách sử dụng từ ngữ cho trẻ. Chính vì vậy, cần phải vận dụng khái niệm trường nghĩa
cho trẻ để xác lập nội dung phát triển từ ngữ cho trẻ. Qua thời gian học tập và tìm
hiểu thực tế ở trường mầm non Trưng Nhị, thị Xã Phúc Yên, chúng tôi thấy trường
2


mầm non Trưng Nhị là trường đã có cách tổ chức cho trẻ đã hợp lí nhưng vẫn còn
một hạn chế gặp nhiều khó khăn, trong đó có hoạt động phát triển từ ngữ cho trẻ.
Xuất phát từ những vấn đề trên, đồng thời để góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục nói chung và chất lượng giảng dạy trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho
trẻ nói riêng trong đó có nội dung phát triển từ ngữ cho trẻ, chúng tôi chọn “ Vận
dụng khái niệm trường nghĩa để phát triển vốn từ ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn ” nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và phục vụ cho quá trình

học tập khi bước vào lớp 1 sau này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là phát triển vốn từ cho trẻ 5 – 6 tuổi
thông qua việc vận dụng khái niệm trường nghĩa là một việc làm quan trọng đòi hỏi
càng sớm càng tốt. Ngày càng có nhiều tác giả đã nghiên cứu về ngôn ngữ trẻ em
Việt Nam như là công trình nghiên cứu Giáo dục mầm non thuộc Viện khoa học giáo
dục, các đề tài khóa luận, luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viện cao trong
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, viện nghiên cứu…Phát triển ngôn ngữ cho trẻ em
không phải là đề tài mới mẻ nữa, đã từ lâu có rất nhiều chương trình nghiên cứu vấn
đề này. Cuốn “ Dạy nói cho trẻ trước tuổi lớp 1” của Phan Thiều và cuốn “ Dạy
phát âm và làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo” của Tạ Thị Ngọc Thanh( 1980) là
những công trình nghiên cứu về nội dung phương pháp dạy Tiếng Việt ở nhà trường.
Tuy nhiên nội dung chỉ dừng lại ở sự giải thích, vận dụng các tri thức ngôn ngữ học,
các thành tựu ngôn ngữ tiếng Việt vào nhà trường.
Giáo trình “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” của Nguyễn
Xuân Khoa( 1979), tác phẩm trên đề cập đến nội dung và các phương pháp nhằm
phát triển ngôn ngữ cho trẻ rất chi tiết, tỉ mỉ và cụ thể. Trên cơ sở đánh giá chung về
đặc điểm sinh lí của trẻ ở lứa tuổi này, dựa trên quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học
với những mối quan hệ của bộ môn khác , tác giả đã đưa ra một số phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển vốn từ cho
trẻ. Ngoài ra, ông cũng đưa ra các cách sửa lỗi phát âm và một số trò chơi nhằm phát
triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo. Đây chính là cơ sở tiền đề cho các nhà khoa học sau
này nghiên cứu tìm tòi, khám phá về vấn đề ngôn ngữ cho trẻ.
3


Giáo trình “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi”, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, các tác giả Hoàng Thị Oanh – Phạm Thị Việt –
Nguyễn Kim Đức đã nói lên tầm quan trọng của ngôn ngữ trong việc giáo dục cho
trẻ toàn diện cho trẻ nêu lên sơ lược nội dung, phương pháp, biện pháp, để luyện phát

âm, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ trong cuốn sách “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2005.
Giáo trình “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non” , NXB Đại học
Sư phạm, 2007, của đồng tác giả Đinh Hồng Thái và Trần Thị Mai, giáo trình cũng
chú trọng đến dạy nói cho trẻ, phát triển ngôn ngữ thông qua các thành phần của ngữ
pháp tiếng Việt đó là giáo dục chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, hình thành và phát triển
vốn từ, dạy trẻ các mẫu câu tiếng Việt, phát triển lời nói mạch lạc. Ngoài ra, trẻ cũng
được chuẩn bị một số kĩ năng tiền đọc, viết cần thiết để học tiếng Việt lớp 1.
Trong cuốn “ Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non” ( 2005), tác giả Nguyễn
Ánh Tuyết cũng đã trình bày sự phát triển vốn từ ở từng giai đoạn lứa tuổi.
Bài “ Một số khuynh hướng nghiên cứu về mối liên hệ giữa giới và sự phát triển
ngôn ngữ ở trẻ em” của tác giả Nguyễn Thanh Bình đăng trong tạp trí ngôn ngữ số 1
năm 2003 cũng đề cập vốn từ về mặt số lượng cũng như cơ cấu từ loại.
Như vậy, hầu như các tác giả đã nghiên cứu rất sâu sắc vốn từ vựng của tiếng
Việt và nêu lên những quan điểm của mình trong đó, nhằm phát triển vốn từ ngữ cho
trẻ. Các tác giả đã đều khẳng định được ý nghĩa quan trọng của việc phát triển vốn
từ, góp phần không nhỏ trong việc dạy và tiếp thu vốn từ của cô và trẻ. Tuy nhiên, ở
các cuốn sách trên các tác giả mới dừng lại ở việc đưa ra nội dung phát triển vốn từ
cho trẻ mà chưa đi sâu vào các chủ đề và hệ thống các từ ngữ cho để cung cấp cho
trẻ. Nhìn chung, dù mục đích nghiên cứu khác nhau nhưng hầu hết các tác giả đều
khẳng định được sự cần thiết phát triển vốn từ cho trẻ nhằm nâng cao hiệu quả trong
quá trình giáo dục. Song chưa có tác giả nào đi sâu tìm hiểu “ Vận dựng khái niệm
trường nghĩa để phát triển vốn từ ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn”. Đặc biệt, việc đi vào nội
dung cụ thể của từng trường theo một cách có hệ thống. Chính vì vậy, đây là nhiệm

4


vụ khóa luận cần giải quyết. Các tài liệu nêu trên là cở sở quan trọng để giúp tôi hoàn

thiện đề tài.

3. Mục đích yêu cầu
Đề tài của tôi nhắm hai mục đích sau:
Làm tăng trưởng vốn từ cho trẻ một cách hệ thống
Góp phần làm tư liệu giảng dạy của ngành học này
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu lí luận chúng tôi cần thực hiện các
nhiệm vụ sau:
- Khảo sát quá trình vận dụng khái niệm trường nghĩa để xác lập nội dung
phát triển từ ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn.
- Phân tích hệ thống hóa một số vấn đề lí luận của trường từ vựng ngữ để
xây dựng nội dung phát triển từ ngữ cho trẻ.
- Đề xuất biện pháp phát triển vốn từ ngữ cho trẻ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng các phương pháp sưu tầm, chọn lọc tài liệu, phương pháp
logic.
- Các phương pháp nghiên cứu trong khoa học giáo dục:
+ Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu, đọc, phân tích tổng hợp và
hệ thống hóa các tài liệu về cơ sở phương pháp luận, những tài liệu giáo trình
tâm lí học, ngôn ngữ học, giáo dục học, sinh lí học và một số các công trình
nghiên cứu đã công bố… nhằm làm sáng tỏ cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
+ Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động học, các hoạt động sinh
hoạt hàng ngày của trẻ và qua việc quan sát các hoạt động chăm sóc và giáo dục
của giáo viên theo các tiêu trí đưa ra. Đồng thời thu thập một số thông tin liên
5


quan đến việc giả quyết nhiệm vụ nghiên cứu, những thông tin thu được sẽ bổ

sung cho các phương pháp khác giúp làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu.
6. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung kiến thức phát triển từ ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn
6.2. Phạm vi nghiên cứu
Trường mầm non Trưng Nhị, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Cấu trúc đề tài
Cấu trúc đề tài gồm ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục, đề tài gồm hai chương:
Chương I: Cở sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương II: Vận dụng khái niệm trường nghĩa để phát triển vốn từ cho trẻ
mẫu giáo lớn

NỘI DUNG
6


CHƢƠNG I: CỞ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
`1.1.1. Quan niệm vốn từ ngữ
Vốn từ là khối từ ngữ cụ thể, hoàn chỉnh( có đầy đủ hình thức, chữ và nội
dung ngữ pháp) mà mỗi cá nhân tích lũy được trong kí ức của mình. Vốn từ
của từng người thì cụ thể không ai giống ai. Vốn từ nhiều hay ít, phong phú
hay đơn giản phụ thuộc vào kinh nghiệm sống và trình độ học vấn, sự giao tiếp
giao lưu văn hóa của mỗi người. Mỗi ngôn ngữ phát triển có một khối lượng từ
hết sức phong phú, có thể lên tới hàng chục vạn, hàng triệu từ. Vốn từ là nền
móng phát triển ngôn ngữ mà ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển trí tuệ và tư duy, vốn từ phát triển thì ngôn ngữ cũng phát triển từ đó là
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất mà xã hội loài người tồn tại và phát
triển. Phát triển vốn từ là một trong những quá trình lâu dài của việc lĩnh hội

vốn từ mà con người đã tích lũy trong lịch sử và trong cuộc sống. Các nhà
nghiên cứu giáo dục cũng đều khẳng định phát triển vốn từ là nền tảng quan
trọng để phát triển ngôn ngữ, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển các
mặt sau này của trẻ. Ngôn ngữ chỉ có ở con người, cũng chính ở lao động con
người mới tiến hóa từ vượn người và phát triển. Vì thế, trong xã hội con người
thì luôn sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt với mọi người xung quanh.
Theo tinh thần đổi mới đã được đã được nêu trong nghi quyết của Bộ
chính trị về cải cách giáo dục lần thứ III( năm 1979) để nâng cao chất lượng
nuôi dạy trẻ cần phải phát triển vốn từ, đặt nền móng đầu tiên hình thành phát
triển ngôn ngữ tạo tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào những lớp cao hơn.
Đặc điểm vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi:
Vốn từ xét về mặt số lượng: Số lượng từ tăng theo thời gian, phụ thuộc
rất nhiều vào yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng nhất là tác động của môi
trường như: Sự tiếp xúc ngôn ngữ thường xuyên của những người xung quanh,
7


trình độ của cha mẹ,… Sự tăng tốc độ không đồng đều, năm thứ ba tốc độ
nhanh nhất, từ 3 – 6 tuổi tốc độ tăng vốn từ giảm dần.
Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại: Trẻ 5 tuổi có thể sử dụng được 2500
đến 2600 từ, còn trẻ 6 tuổi có khoảng 3000 từ đến 4000 từ. Trong đó tính từ và
các loại từ khác nhau chiếm tỉ lệ cao hơn [5, Tr. 136]
Các loại từ trong lời nói của trẻ 5 tuổi
Số lượng

Số lượng

Tỉ lệ

Tỉ lệ(so với vốn

từ) đã thống kê

Từ loại
Thực từ

Hư từ

Danh từ

291

40%

Động từ

230

30%

Tính từ

58

7,3%

Đại từ

25

2,7%


Số từ

17

1,8%

Phó từ

62

7,5%

Ngữ thái từ

38

4,6%

Quan hệ từ

16

1,5%

1.1.2. Lí luận về trƣờng nghĩa của từ
1.1.2.1. Khái niệm trường nghĩa
Trường nghĩa là tập hợp của các từ đồng nhất với nhau về một ý nghĩa
nào đó. Nói cách khác, một tập hợp từ theo tiêu trí về nghĩa.


8


Đỗ Hữu Châu trong “ Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” đã nhận định: “ Tính
hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa
trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan
hệ giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa của chúng.” [3, Tr.127]
Một tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Với các trường
nghĩa, chúng ta có thể phân định một cách tổng quát những quan hệ ngữ nghĩa
trong lòng một trường.
Ví dụ:
- Tập hợp các từ có chung nghĩa chỉ hoạt động di chuyển dời chỗ của
người: đi, chạy, nhảy, bò,…
- Tập hợp các từ có nghĩa chỉ hoạt động làm cho dời ra: cắt, chặt, bóc,
xẻo,…
“Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” của F. Desaussure đã chỉ ra hai
dạng quan hệ lớn và quan hệ ngang và quan hệ dọc. Quan hệ ngang( quan hệ
hình tuyến, quan hệ tuyến tính) và quan hệ dọc( quan hệ trực tuyến, quan hệ
hình). Với hai loại quan hệ này, trong hệ thống từ vựng hình thành trường
nghĩa ngang( trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc( trường nghĩa trực
tuyến). Trường nghĩa dọc gồm có trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu
niệm. Phối hợp hai trường nghĩa này cho ra trường nghĩa liên tưởng.
Chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu hai trường nghĩa dọc là trường nghĩa biểu
vật và trường nghĩa biểu niệm.
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu vật
Tập hợp các từ biểu thị một ý nghĩa chung về sự vật, hiện tượng gọi là
trường biểu vật. Nói cách khác, đó là tập hợp những từ đồng nhất với nhau về
ý nghĩa biểu vật. Người ta có thể phân chia tiếp thành nhiều hệ thống trường
nghĩa khác nhau.


9


Tiêu trí để xác lập trường nghĩa biểu vật với ý nghĩa biểu vật là ta nên chọn
danh từ( người, động vật, thực vật,…) có ý nghĩa biểu vật khái quát làm nên
gốc để tập hợp các từ.
Ví dụ: Vũ trụ, thiên nhiên, con người, nông nghiệp, công nghiệp, nhà
trường, học tập,… là các danh từ làm gốc cho trường biểu vật. Các danh từ
quyết định trường rộng hay hẹp. Nếu danh từ có tính khái quát cao( ý nghĩa
biểu vật lớn) thì trường càng rộng, số lượng trong trường càng nhiều. Ngược
lại, danh từ nào có tính khái quát không cao( ý nghĩa biểu vật hẹp) thì trường
có càng ít từ.
Trường “con người” và trường “ thiên nhiên” nhỏ hơn trường “ vũ trụ”.
Trường “con người” rọng hơn trường “ nhà trường”, “ lao động”, “ nông
nghiệp”.
Thông thường những từ có phạm vi biểu vật rộng thì sẽ đi vào nhiều
trường, những từ có ý nghĩa biểu vật hẹp sẽ đi vào ít trường.
Ví dụ: Các từ tốt, đẹp, xấu,… đi vào tất cả các trường.
Các từ: Đảng viên, đoàn viên, học sinh, đàn ông ,đàn bà,…chỉ đi vào
trường “ con người”.
Vì có nhiều từ đi vào trường biểu vật khác nhau nên từ ngữ trong các
trường hợp này có hiện tượng thẩm thấu hoặc giao thoa.
Ví dụ: Bàn ghế, máy móc,… có chung nết nghĩa chỉ “ sự vật nhân tạo”
nhưng nói đến sự vật nhân tạo là nói đến người. Do đó, ta có thể đưa các từ
này vào trường chỉ người thành một trường nhỏ.
Trong một trường biểu vật, quan hệ của các từ ngữ đối vơi nhà trường là
không giống nhau, có những từ gắn chặt với trường tạo thành những từ điển
hình của trường, những từ quan hệ lỏng lẻo với trường thì tạo thành những
ngoại vi. Những từ tạo thành lõi trung tâm thì ít sảy ra hiện tượng chuyển
trường.

10


Ví dụ: Tốt, đẹp, xấu,… là những từ biên, có thể đi vào nhiều trường.
Những từ trung tâm của con người đảng viên, đoàn viên, thầy cô, công
nhân,… chỉ trường con người.
Việc lập các trường biểu vật, các lớp, các nhóm nằm trong trường nhóm
chính là biểu hiện của tính hệ thống. Chính tính hệ thống của từ ngữ tạo nên
các trường và mỗi trường là tập hợp các từ ngữ có chung ý nghĩa biểu vật, tạo
thuận lợi cho người sử dụng.
1.1.2.3. Trường nghĩa biểu niệm
Trường nghĩa biểu niệm là tập hợp các đơn vị từ vựng có chung một
cấu trúc biểu niệm. Với cấu trúc biểu niệm sau: ( tính chất) ( kích thước) ( độ
đo) ( có chiều dài song song với mặt đất) ta sẽ có các từ thuộc trường nghĩa
biểu niệm là dài lê thê, dài dòng, dài dằng dặc; ngắn: ngắn ngủi, ngắn cũn,
ngắn cũn cỡn,…
Các từ trong một trường biểu niệm thì sẽ đồng nhất với nhau về ý nghĩa
biểu niệm. Vì thế, có thể chúng rất xa nhau về ý nghĩa biểu vật nhưng có nét
chung về ý nghĩa thì vẫn đưa vào cùng một trường biểu niệm: giày, dép, bàn,
ghế,… khác xa nhau về ý nghĩa biểu vật nhưng lại nằm trong cấu trức biểu
niệm thì phải lập cấu trúc biểu niệm.
Cũng như các trường biểu vật khác, các trường biểu niệm lớn có thể
phân chia thành các trường nhỏ, các nhóm nhỏ, các miền với mật độ khác nhau
dựa vào quan hệ ngữ nghĩa( đòng nhất và đối lập) giữa các từ ( nét nghĩa).
Ví dụ: một trường nghĩa biểu niệm( sự vật tập hợp) được phân ra thành các
miền:
- Miền chỉ người đội, đoàn, lớp, tổ, nhóm,…
- Miền chỉ động vật bầy, đàn lũ,…
- Miền chỉ thực vật nhóm, khóm, cụm, mớ…
11



Cơ sở để lập trường nghĩa biểu niệm là ý nghĩa biểu niệm chứ không
phải là từ. Vì thế, có nhiều từ có thể nằm ở các trường nghĩa khác nhau. Ngược
lại, có những từ nằm ở ít trường. Thông thường, những từ có nhiều nghĩa biểu
niệm thì có thể đi sâu vào nhiều trường. Ngược lại, những từ ít nghĩa biểu niệm
sẽ đi vào ít trường.
Chính do hiện tượng một từ đi vào nhiều trường biểu niệm khác nhau
nên từ ngữ trong các trường này có hiện tượng thẩm thấu và giao thoa nhau.
Ví dụ như từ “ sập”( cái sập) có thể đi vào hai trường biểu niệm sau:
Trường 1: có cấu trúc biểu niệm( sự vật) ( đồ dùng) ( để chứa đựng) tủ,
hòm, va li, sập,…
Trường 2: có cấu trúc biểu niệm( sự vật) ( đồ dùng) ( để đỡ con người tư
thế nghỉ ngơi) giường, chõng,ghế, phản, sập,…
* Mối quan hệ giữa trường nghĩa biểu vật vầ trường nghĩa biểu niệm
Ta thấy rằng ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm là góc độ nhìn khác nhau
khi nghiên cứu, xem xét một từ ( nằm trong hệ thống từ vựng). Vì thế, khi tập
hợp các trường nghĩa biểu vật thì dựa vào ý nghĩa biểu vật, khi chia nhỏ trường
nghĩa biểu niệm thì dựa vào nét nghĩa biểu niệm.
Ngược lại, khi ta lập trường nghĩa biểu niệm thì dựa vào cấu trúc biểu
niệm, nhưng khi chia nhỏ trường nghĩa biểu niệm thì dựa trên nét nghĩa của
trường biểu vật.
Ví dụ: Trường có các nét nghĩa biểu niệm( sự vật nhân tạo) ( phục vụ
sinh hoạt) khi chia nhỏ dựa vào ý nghĩa biểu vật:
- Đồ dùng để sách vở bàn, giá, gác,…
- Đồ dừng để đặt máy móc giá, bục, bàn,…
- Đồ dùng để che thân: vải vóc quần, áo, váy, mũ,...;nhựa, da giày, dép,
găng,…
12



- Đồ dùng để đựng: thóc, gạo bồ, thúng, mẹt,…
Như vậy hai trường nghĩa biểu vật và biểu niệm có quan hệ chặt chẽ với
nhau không tách biệt nhau “ dựa vào ý nghĩa mà chúng ta phân lập được các
trường, nhờ sự định vị được dùng trong trường thích hợp mà chúng ta hiểu
thêm sâu sắc ý nghĩa của từ” [3, Tr.185]
1.1.3. Cơ sở tâm lí học
Độ tuổi mẫu giáo lớn là độ tuổi cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi mầm
non. Trẻ ở giai đoạn mẫu giáo bé thì cấu tạo tâm lí đặc trưng của con người đã
được hình thành, đặc biệt trong độ tuổi mẫu giáo lớn vẫn tiếp tục phát triển ở
mức độ cao hơn. Với sự giáo dục của người lớn, những chức năng tâm lí đó
được hoàn thiện hơn về mọi phương diện để hoàn thành những cơ sở xây
dựng, cở sở đầu tiên của tính cách con người. Nhân cách con người thì được
hình thành trong suốt thời kì thơ ấu và niên thiếu, với điều kiện phát triển bình
thường thì bước vào năm tuổi thứ ba ý thức bản ngã bắt đầu nảy sinh và đến
tuổi thanh niên thì nhân cách của trẻ tiếp tục được hình thành. Ở độ tuổi mẫu
giáo lớn, nhân cách của trẻ tiếp tục được hình thành và phát triển mạnh mẽ với
đặc điểm sau: Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng để giúp trẻ điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực quy tắc xã hội. Đồng thời, ý
thức bản ngã còn cho phép trẻ thực hiện các hoạt động một cách chủ quan, nhờ
đó, quá trình tâm lí mang tính chủ động rõ rệt. Cuối tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ
của trẻ có tốc độ phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, ngôn ngữ phát
triển giúp trẻ biết tự giác hướng sự chú ý của mình vào đối tượng nhất định.
Cho nên, mỗi đối tượng tiếp nhận trong thời kì này đều có tác động sâu sắc đối
với sự phát triển nhân cách và trí tuệ của trẻ. Sức tưởng tượng, khẳ năng ghi
nhớ của trẻ mẫu giáo lớn ngày càng có tính chủ đích hơn so với trẻ ở lứa tuổi
nhỏ hơn. Trong sự phát triển các hoạt động ý trí của trẻ mẫu giáo lớn có thể
thấy được các liên kết chặt chẽ giữa ba mặt: Thứ nhất là sự phát triển tính mục
đích của các hành động, thứ hai là sự xác lập mối quan hệ giữa hành động và
13



động cơ, thứ ba là tăng vai trò điều chỉnh ngôn ngữ trong việc thực hiện hành
động.
Lứa tuổi mẫu giáo là lứa tuổi mà trẻ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất với
các hiện tượng ngôn ngữ. Điều đó, khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
khá nhanh và đến cuối tuổi mẫu giáo thì trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách khá
thành thục trong sinh hoạt hàng ngày. Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn, tích lũy khá
phong phú không chỉ về cả danh từ mà cả động từ, tính từ, liên từ…Trẻ nắm
vững vốn từ trong tiếng mẹ đẻ đủ để diễn đặt trong đời sống hàng ngày. Tất
nhiên, là việc tăng các thành phần từ ngữ sẽ không có ý nghĩa to lớn nếu như
đứa trẻ đồng thời nắm được các kĩ năng kết hợp các từ trong câu theo các quy
tắc ngữ pháp. Điều đó có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào trực
tiếp điều kiện sống và giáo dục. Sự lĩnh hội ngôn ngữ còn được quyết định bởi
tính tích cực của bản thân trẻ em đối với ngôn ngữ. Những trẻ em mà năng
giao tiếp, năng tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ thì không những hiểu được
từ ngữ và nắm vững ngữ pháp một cách vững vàng mà còn sáng tạo, những
cách nói chưa hề có trong ngôn ngữ của người lớn. Chúng ta đều biết mỗi từ
mang ý nghĩa khái quát, nhưng đối với trẻ em thì mỗi từ vẫn chỉ là một từ đại
diện cho một sự vật cụ thể, riêng lẻ mà thôi. Từ ở trẻ em chỉ chứa đựng biểu
tượng còn từ ở người lớn chỉ chứa đựng khái niệm. Do đó từ ở trẻ em khác xa
ý nghĩa của từ đó với người lớn. Các biểu tượng phản ánh hiện thực sinh động
hơn, rõ ràng các khái niệm nhưng lại không có tính chất khái quát và tính
chính xác và tính hệ thống đặc trưng của khái niệm. Những khái niệm chỉ có
thể được hình thành lĩnh hội những tri thức khoa học thực sự và việc nắm hệ
thống các khái niệm được bắt đầu trong quá trình học tập ở trường phổ thông.
Nhưng các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng trẻ mẫu giáo lớn cũng có thể lĩnh
hội một số khái niệm đơn giản trong điều kiện được dạy dỗ đặc biệt phù hợp
với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo lớn.


14


Trẻ ở giai đoạn mẫu giáo lớn “ Học mà chơi, chơi mà học”. Bởi vì nội
dung học của trẻ vừa nhẹ nhằng vừa hấp dẫn, đối tượng “ tiết học” là những
kiến thức rất trực quan sinh động. Các trình tự học tập giống như giống như
tiết học nhưng vẫn đủ các bước; tổ chức lớp; tiến hành tiết dạy( vào bài, nêu
câu hỏi đặt vấn đề, giảng giải khái niệm), kết thúc tiết dạy bằng cách cho trẻ
nhắc lại khái niệm.Tâm lí của trẻ ở độ tuổi này giống như học sinh tiểu học
phải chú ý nghe cô hướng dẫn giảng giải, sử dụng các hình thức ghi nhớ, các
thao tác tư duy diễn ra theo yêu cầu của tiết học, ý thức được tối đa và hiểu bài.
Sự phát triển chú ý của trẻ: Trẻ có khả năng chú ý có chủ định từ 37 51 phút, đối tượng chú ý hấp dẫn nhiều thay đổi sẽ kích thích sự tò mò ham
hiểu biết. Trẻ phân phối tập trung vào 2 - 3 đối tượng cùng một lúc, tuy nhiên
thời gian dễ thay đổi phân phối chưa vững bền, dễ dao động. Di chuyển hướng
dẫn trẻ nhanh nên sự hướng dẫn di chuyển tốt, sự phân tán di chuyển mạnh
nhiều khi trẻ không tự chủ được do suy lực bản năng tri phối.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ: Nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử
dụng tiếng mẹ đẻ; biết đọc diễn cảm, biết dùng điệu bộ bổ sung cho ngôn ngữ
nói, vốn từ và cơ cấu ngữ pháp phát triển.
Sự phát triển nhận thức của trẻ: Các hiện tượng về tâm lí như tri giác,
cảm giác, tưởng tượng về cơ bản là sự phát triển như ở độ tuổi 4 - 5 tuổi nhưng
chất lượng mới hơn như: Mức độ phong phú về từ loại; mức độ các quá trình
tâm lí rõ ràng, có ý thức hơn; tính mục đích được hình thành và phát triển ở
mức độ cao hơn; độ nhạy cảm của giáo quan được tinh nhạy hơn; khả năng
kiềm chế phản ứng tâm lí được phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ nhất là về tư
duy phát triển mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác thiết lập nhanh chóng, các
mối quan hệ sự vật hiện tượng, thông tin giữa cái mới và cái cũ, cái gần và xa.
Trẻ đã biết phân tích tổng hợp không chỉ dừng lại ở tên gọi đồ vật, hình ảnh,
mà ngay cả từ ngữ về đặc điểm thuộc tính, công dụng của chúng. Quá trình
phát triển của tâm lí trẻ em là quá trình nảy sinh và giải quyết các mâu thuẫn,

15


mâu thuẫn cái biết và cái chưa biết cái làm được và cái chưa làm được,nếu giải
quyết được mâu thuẫn này trẻ sẽ bước lên trình độ phát triển mới, kết quả tích
lũy từ những kinh nghiệm trong hoạt động và giao tiếp của trẻ. Nhờ có đặc
điểm trực quan hành động và trực quan hình tượng của tư duy trước hết, trẻ
nắm được tên gọi các sự vật hiện tượng, thuộc tính, quan hệ mang tính chất
biểu tượng trực quan phù hợp với hoạt động của chúng. Sự lĩnh hội nghĩa của
từ diễn ra dần dần, thoạt đầu trẻ chỉ đối chiếu từ với sự vật cụ thể( không có ý
nghĩa khái quát). Sự xâm nhập của trẻ và hiện thực dần dần trẻ cùng với sự
phát triển tư duy trẻ mới nắm được nội dung khái niệm trong từ của trẻ còn
được biến đổi trong suốt gia đoạn mẫu giáo. Đến giai đoạn mẫu giáo lớn, khi
ngôn ngữ trở thành phương tiện tư duy cho phép trẻ giải những bài toán trí tuệ
mà không cần sử dụng trực tiếp hành động và biểu tượng, cũng là lúc mà trẻ
lĩnh hội khái niệm loài người đã xây dựng lên, tức là những tri thức về dấu
hiệu chung và bản chất của các sự vật hiện tượng trong hiện thực đã được cũng
cố bằng các từ. Trẻ biểu hiện năng lực trí tuệ qua hoạt động tổng hợp của lời
nói, qua quan sát, chú ý và suy nghĩ bằng năng lực ghi nhớ liên tưởng và khả
năng giải quyết các nhiệm vụ thông qua vui chơi sáng tạo. Tư duy trực quan
giải thích việc trẻ mẫu giáo bé và đầu mẫu giáo nhỡ có vốn từ biểu danh là chủ
yếu. Tư duy trừu tượng và tư duy logic xuất hiện ở tuổi thứ năm cho phép trẻ
em lĩnh hội những cái khái niệm đầu tiên - đó là những khái niệm về sự vật,
hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ.
Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn có khối lượng nhỏ hơn rất nhiều so với số
lượng từ của người lớn. Vì khối lượng tri thức của trẻ còn quá hạn hẹp. Vì thế,
mở rộng vốn từ cho trẻ phải dựa vào sự mở rộng nhận thức cho trẻ.
1.1.4. Cơ sở sinh lí trẻ em
Cho đến lúc ra đời não bộ của trẻ chua phát triển đầy đủ, mạc dù hình
thái giãi phẫu không khác người lớn là mấy. Ở não trẻ sơ sinh: não bộ có kích

thước nhỏ, khoảng 370 – 392g( 1/8 - 1/9 trọng lượng cơ thể). Trong 9 năm
16


đầu, trọng lượng của não trẻ tăng lên mạnh. Chẳng hạn, trẻ được 6 tháng tuổi
trọng lượng của não bộ tăng lên gấp đôi lúc sơ sinh; trẻ 3 tuổi tăng gấp ba.
Học thuyết về các hệ thống tín hiệu đã khẳng định: Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu thứ hai, là sự hoạt động đặc biệt của vỏ bán cầu đại não. Hệ
thống tín hiệu thứ hai có được những kích thích trừu tượng như ngôn ngữ, lời
nói chữ viết,… Việc phát triển ngôn ngữ phải liên quan mật thiết tới việc phát
triển hoàn thiện bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung. Trong ba năm đầu
đời là sự kết thúc sự trưởng thành về mặt giải phẫu vùng não chỉ huy ngôn
ngữ, vì thế phải phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc mới đạt kết quả tốt.
Đề có thể giao tiếp tốt, chúng ta không thể kể tới đến bộ máy phát âm.
Mỗi con người sinh ra đều có bộ máy phát âm, đó là tiền đề vật chất để sản
sinh âm thanh ngôn ngữ. Đặc điểm phát âm: Trẻ ở giai đoạn 3- 6 tuổi ở giai
đoạn này trẻ hoàn thiện về mặt ngữ âm. Các phụ âm đầu, âm cuối, thanh điệu
dần được định vị. Trẻ phát âm đúng hầu hết các âm vị của tiếng mẹ đẻ, biết
điều chỉnh nhịp điệu, cường độ giọng nói khi giao tiếp, nói chung trẻ đã phát
âm tốt hơn, ít ê a, ậm ừ, trẻ vẫn còn phát âm sai những từ khó, những từ có hai
âm tiết, tuy nhiên lỗi sai cũng ít hơn các độ tuổi khác đáng kể. Tuy vậy, trẻ vẫn
còn mắc một số lỗi về phát âm và nguyên âm thanh điệu. Khẳ năng hoàn chỉnh
về mặt phát âm của trẻ dần được tăng theo độ tuổi, trẻ nhanh chóng định vị
được các âm đơn giản, những âm có vị trí phức tạp trẻ dễ mắc lỗi nếu kiên trì
tập luyện thì trẻ có khẳ năng định vị các âm vị tiếng mẹ đẻ. Ở giai đoạn 5 - 6
tuổi ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh, đạt chất lượng cao cả về mặt
phát âm, vốn từ và những hình thức ngữ pháp. Điều cần lưu ý là quá trình
tưởng tượng phát triển rất mạnh ở lứa tuổi này, thể hiện trong trò chơi, trong
các bức vẽ, trong các câu chuyện "bịa" của trẻ. Các trò chơi phân vai theo chủ
đề giúp trẻ tưởng tượng ra nhiều nhân vật đặc sắc. Trí tưởng tượng của trẻ đầu

tuổi mẫu giáo chủ yếu là không chủ định. Những gì làm trẻ xúc động mạnh sẽ
trở thành đối tượng của tưởng tượng. Cùng với thời gian, quá trình học tập rèn
17


luyện một cách có hệ thống sẽ làm cho bộ máy phát âm đáp ứng nhu cầu chuẩn
âm thanh ngôn ngữ. Bộ máy phát âm của trẻ thì chưa phát triển đầy đủ, các bộ
phận tạo thành tiếng nói chưa liên kết chặt chẽ nên phát âm chưa chuẩn, không
chính xác. Do đó, việc nghiên cứu bộ máy phát âm tìm hiểu vốn từ của trẻ
mầm non hoàn toàn là cơ sở mạng tính khoa học.
Não bộ của trẻ được hoàn thiện trong vòng sáu tháng sau khi sinh:
Trong tháng đầu, trí não của trẻ có một vị trí đặc biệt chuyên lĩnh hội ngôn ngữ
một cách tự nhiên mà không thể có được ở các loài động vật. Hoạt động trí não
của trẻ sẽ trưởng thành cùng với những kích thích từ môi trường bên ngoài. Từ
ngày trẻ được sinh ra, cần phải dạy cho trẻ những từ ngữ phong phú tích lũy
dần dần trong tiềm thức sẽ hình thành cho trẻ khoản một kho tàng ngôn ngữ
phong phú. Năng lực sử lý ngôn ngữ vượt trội của trẻ có thể sánh với các
chuyên gia ngôn ngữ, nhưng một số cha mẹ không biết lại cho rằng việc trẻ ghi
nhớ và nói ra là điều tất yếu. Chỉ trong khoảng thời gian sáu tháng ngắn ngủi,
tùy thuộc vào hành động của cha mẹ và người thân mà trẻ có những chuyển
biến lớn lao. Cha mẹ nghĩ rằng cứ để trẻ ngoan ngoãn ngủ no nê suốt nửa năm
đầu đời là tốt mà không biết rằng mình đã vô tình khiến con chậm phát triển.
Các nhà khoa học đã khẳng định rằng, cấu trúc bộ não cơ bản của trẻ được
hoàn thiện trong sáu tháng sau sinh, đến 3 tuổi các khớp nối tế bào não được
hoàn thiện 60%. Trong giai đoạn mẫu giáo, cha mẹ cần chủ động kích hoạt
những yếu tố ưu việt thiên bẩm trong trí não trẻ, có như vậy trẻ mới phát huy
và bộc lộ được những năng lực nổi trội của mình. Trẻ giai đoạn mẫu giáo đã có
năng lực tập trung hiểu được ngôn từ.
1.1.5. Cơ sở giáo dục học
Dạy trẻ ở mẫu giáo là quá trình phát triển có hệ thống, có kế hoạch, có

mục đích năng lự nhận thức của trẻ, trang bị cho trẻ hệ thống kiến thức sơ đẳng
hình thành kĩ năng kĩ sảo tương ứng. Trên cơ sở đó góp phần hình thành nhân
cách cho trẻ. Trong quá trình dạy học gồm nhiều hoạt động khác nhau: Làm
18


quen với Văn học, Hình thành biểu tượng Toán học, Làm quen với môi trường
xung quanh…Tất cả các hoạt động này nhằm mục đích mở rộng kiến thức cho
trẻ. Hiện nay tất cả các tiết học như: Làm quen với tác phẩm Văn học, làm
quen với môi trường xung quanh( các tiết học ưu thế về sự phát triển vốn từ);
các tiết học khác như Tổ chức hoạt động Tạo hình, Giáo dục âm nhạc… Tất cả
đều phát vốn từ cho trẻ. Vì vậy, trong hoạt động khác chúng ta phải chú ý phát
triển ngôn ngữ cho trẻ vì ngôn ngữ là cửa ngõ để phát triển nhân cách cho trẻ
được toàn diện hơn.
Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con
người và sự vật xung quanh. Để thực hiện được điều đó phải thông qua nhiều
phương tiện khác nhau như qua giờ học, các trò chơi, dạo chơi ngoài trời và
sinh hoạt hàng ngày, rèn luyện phát triển vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ nghe, hiểu
và phát âm chính xác tiếng mẹ đẻ, hướng dẫn trẻ cách diễn đạt ý muốn của
mình cho người khác hiểu. Vì vậy khi cho trẻ tiếp xúc với sự vật hiện tượng thì
phải cho trẻ biết tên gọi, đặc điểm của đối tượng; không những thế giáo viên
dạy trẻ nói câu đầy đủ câu rõ nghĩa, dạy trẻ phát âm đúng các âm chuẩn tiếng
việt, đảm bảo các nguyên tác của giáo dục tính khoa học, tính vừa sức, tính
tiếp thu.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Nội dung kiến thức về phát triển vốn từ ở trường mầm non
Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn có vị trí ưu thế trong
chương trình giáo dục trẻ mầm non hiện nay. Đây là một trong những lĩnh vực
cơ bản có sứ mệnh đào tạo những công dân tốt, những người lao động giỏi có ý
thức tốt và trách nghiệm với xã hội. Việc dạy trẻ ngôn ngữ nhằm phát triển vốn

từ một cách có hiệu quả ở trẻ đặt ra cho giáo viên mầm non là một vấn đề
không đơn giản. Qua thực tế tôi nhận thấy:
Vấn đề phát triển vốn từ cho trẻ trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho
trẻ từ mẫu giáo bé đến mẫu giáo lớn khá cụ thể đi từ dễ đến khó phù hợp với tư
19


×