Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.09 KB, 47 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======

ĐÀO THỊ HỒNG NHUNG

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. NGUYỄN VĂN ĐỆ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi gặp không ít khó khăn nhưng
nhờ sự cố gắng của bản thân và đặc biệt nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô
giáo cùng với sự động viên, cổ vũ của bạn bè, người thân đã giúp tôi hoàn
thành đề tài này.
Qua đây cho tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô khoa Giáo dục
Mầm non, các cô thư viện tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu đề tài này. Đặc
biệt, cho tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Th.S Nguyễn Văn Đệ,
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề
tài. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu cùng toàn thể giáo viên trường
mầm non Đại Thinh – Mê Linh – Hà Nội đã tận tình cộng tác và tạo điều kiện
cho tôi có thể hoàn thành đề tài.


Mặc dù tôi đã cố gắng hết sức, song đây là lần đầu tiên tôi thực hiện
nghiên cứu một đề tài khoa học nên chắc chắn không khỏi những thiếu sót, rất
mong quý thầy cô cùng toàn thể các bạn nhận xét, đóng góp ý kiến để đề tài
này được hoàn thiện hơn.
Kính chúc thầy cô sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Một lần nữa tôi xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Đào Thị Hồng Nhung


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của mình. Các dữ liệu thu
thập trong khóa luận là trung thực, rõ ràng, chưa từng được công bố trong một
chương trình nghiên cứu nào, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà nội, ngày 18 tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Đào Thị Hồng Nhung


DANH MỤC VIẾT TẮT
GQVĐ

: Giải quyết vấn đề

KNGQVĐ : Kĩ năng giải quyết vấn đề
LQVT


: Làm quen với toán


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2
3. Khách thể nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3
6. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
8. Giả thuyết khoa học .................................................................................... 4
NỘI DUNG .................................................................................................... 5
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN ....................................................... 5
1.1. Cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5
tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán ................................................... 5
1.1.1. Các khái niệm cơ bản ........................................................................... 5
1.1.2. Bản chất quá trình giải quyết vấn đề của trẻ 4 – 5 tuổi .......................... 7
1.1.3. Hoạt động cho trẻ làm quen với toán ở trường mầm non với việc rèn
luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5 tuổi ......................................... 10
1.1.4. Đặc điểm về kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt
động làm quen với toán ................................................................................ 16


1.2. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5
tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán ................................................. 19
1.2.1. Những điều kiện thuận lợi đối với việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn

đề cho trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toánở trường mầm non
Đại Thịnh ..................................................................................................... 20
1.2.2. Những khó khăn đối với việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho
trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non Đại
Thịnh ............................................................................................................ 21
Kết luận chương 1 ........................................................................................ 24
Chương 2: XÂY DỰNG BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
LÀM QUEN VỚI TOÁN ............................................................................. 25
2.1. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề
cho trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán ............................. 25
2.1.1. Xây dựng biện pháp rèn luyện KNGQVĐ cho trẻ 4 – 5 tuổi thông qua
hoạt động LQVT phải đáp ứng mục tiêu giáo dục mầm non ......................... 25
2.1.2. Xây dựng biện pháp phải dựa vào bản chất của quá trình giải quyết vấn
đề và phù hợp đặc điểm tâm sinh lí của trẻ ................................................... 25
2.1.3. Xây dựng biện pháp phải gắn với hoạt động trải nghiệm của bản thân
trẻ và cuộc sống thực của trẻ ........................................................................ 27
2.2. Đề xuất một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 –
5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán .............................................. 27
2.2.1. Biện pháp 1: Thiết kế môi trường giáo dục làm nảy sinh vấn đề ......... 27
2.2.2. Biện pháp 2: Sử dụng các câu hỏi gợi ý giải quyết vấn đề .................. 30


2.2.3. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi học tập củng cố kĩ năng giải quyết vấn
đề ................................................................................................................. 33
Kết luận chương 2 ........................................................................................ 38
KẾT LUẬN .................................................................................................. 39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 40



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam đang sống trong thời kì xã hội hóa cùng với sự phát triển
không ngừng về kinh tế, khoa học kĩ thuật, công nghệ… trên toàn thế giới. Xã
hội phát triển đòi hỏi con người mới phải năng động, sáng tạo và chủ động
trong các hoạt động, tự mình nắm lấy các cơ hội mới, tích cực giải quyết mọi
vấn đề nhằm tạo ra bước phát triển vượt bậc cho nền kinh tế, văn hóa – xã hội
của đất nước. Do đó, việc trang bị cho trẻ những kĩ năng sống cần thiết đang
trở thành nhu cầu cấp thiết của xã hội, trong đó có kĩ năng giải quyết vấn đề
(KNGQVĐ), đặc biệt là lứa tuổi mầm non.
Trong các hoạt động ở trường mầm non, hoạt động cho trẻ làm quen với
toán (LQVT) chiếm ưu thế lớn đối với việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn
đề cho bản thân đứa trẻ. Các hoạt động toán học làm nảy sinh nhiều vấn đề
đòi hỏi trẻ cần tự giải quyết. Toán học giúp trẻ nhận thức về thế giới xung
quanh, về các mối quan hệ số lượng, kích thước, hình dạng, vị trí trong không
gian giữa các đồ vật với nhau. Qua các hoạt động làm quen với toán, trẻ dần
có kinh nghiệm về thế giới xung quanh, có nhu cầu hiểu biết hơn về tính chất,
đặc điểm của các sự vật như hình dạng, kích thước, màu sắc, số lượng, vị trí
sắp xếp của chúng trong không gian… Từ đó, hình thành nên các vấn đề mà
cần chính bản thân trẻ tự giải quyết, chẳng hạn như vì sao đồ vật này lăn được
còn đồ vật kia thì không, tại sao đồ vật này có thể để đặt trồng lên nhau được,
còn đồ vật kia thì không… Mọi kiến thức trẻ tiếp thu ở thế giới xung quanh
đều liên quan đến các biểu tượng toán học. Do đó, hoạt động làm quen với
toán là một hoạt động thích hợp để rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ
mầm non.

1


Hiện nay Giáo dục Mầm non đang tiến hành đổi mới, giáo viên đã trú

trọng hơn đến việc rèn luyện các kĩ năng cho trẻ thông qua việc lồng ghép
trong các hoạt động ở trường. Nhưng trên thực tế việc rèn luyện các kĩ năng
đặc biệt là kĩ năng giải quyết vấn đề chưa đạt hiệu quả tương xứng với tầm
quan trọng của nó, cũng chưa tương xứng với yêu cầu xã hội đặt ra cho đứa
trẻ. Có thể thấy việc thiếu kĩ năng nói chung và kĩ năng giải quyết vấn đề nói
riêng đang diễn ra phổ biến ở học sinh Việt Nam, đặc biệt là lứa tuổi mầm
non. Vì vậy, nhu cầu cấp thiết của xã hội là cần phải giáo dục, rèn luyện các
kĩ năng này cho các em. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề mới, chưa có sự
hướng dẫn cụ thể của Bộ Giáo dục – Đào tạo, ít nguồn tài liệu nên giáo viên
và phụ huynh chưa có nhiều điều kiện để tìm hiểu và triển khai thực hiện.
Trẻ mẫu giáo nhỡ có nhu cầu cao trong mọi hoạt động, mong muốn được
hoạt động và tự giải quyết các vấn đề của bản thân. Cùng với nhu cầu đó, bản
thân trẻ ở lứa tuổi này đã có khả năng thực hiện có kết quả hoạt động làm
quen với toán. Đó là sự phát triển tư duy trực quan hình tượng và xuất hiện tư
duy trực quan sơ đồ, sự phát triển của ý thức. Đây là tiền đề của việc hình
thành kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ và cũng là cơ hội không thể bỏ lỡ để
người lớn giúp trẻ rèn luyện kĩ năng này. Như vậy, giáo dục các kĩ năng cho
trẻ ở giai đoạn này là thích hợp nhất, đạt hiệu quả cao nhất, giúp trẻ rèn luyện
các kĩ năng nói chung và kĩ năng giải quyết vấn đề nói riêng một cách tốt
nhất, để trẻ tự tin bước vào cuộc sống sau này.
Những lí do trên cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kĩ năng giải
quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán” là rất
cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả
việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi thông qua

2



hoạt động làm quen với toán, qua đó phát triển nhận thức, phát triển toàn diện
nhân cách trẻ.
3. Khách thể nghiên cứu
Quá trình rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5 tuổi thông
qua hoạt động làm quen với toán.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5 tuổi thông qua
hoạt động làm quen với toán.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề
cho trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán.
+Tìm hiểu thực trạng việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 –
5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán.
+ Xây dựng một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ
4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán.
6. Phạm vi nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu biện pháp rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho
trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non Đại
Thịnh theo hai chủ đề : Thế giới động vật và thế giới thực vật.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận
Đọc, phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa những tài liệu có liên
quan đến đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu của đề tài.
7.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
-

Phương pháp đàm thoại: Trò chuyện với giáo viên và với trẻ nhằm

đánh giá nhận thức của trẻ về việc giải quyết vấn đề thông qua hoạt động làm
quen với toán.


3


- Phương pháp quan sát: Quan sát cách tổ chức hoạt động cho trẻ 4 – 5
tuổi làm quen với toán và quan sát trẻ 4 – 5 tuổi giải quyết vấn đề (GQVĐ)
trong hoạt động làm quen với toán nhằm xác định thực trạng việc tổ chức
hoạt động của giáo viên và thực trạng kĩ năng giải quyết vấn đề trong hoạt
động làm quen với toán của trẻ 4 – 5 tuổi.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp này để xử lí
các số liệu.
8. Giả thuyết khoa học
Nếu phối hợp sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực dựa trên việc tận
dụng ưu thế của hoạt động cho trẻ làm quen với toán và khả năng nhận thức
của trẻ 4 – 5 tuổi thì kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ sẽ được nâng cao.

4


NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN
KĨ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHO TRẺ 4 – 5 TUỔITHÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN
1.1. Cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 –
5 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
a) Kĩ năng
Kĩ năng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước
quan tâm. Tuy nhiên có hai quan điểm xem xét kĩ năng ở góc độ khác nhau:
Quan điểm thứ nhất xem xét kĩ năng từ góc độ kĩ thuật của hành động,

của thao tác mà ít quan tâm đến kết quả của hành động. Kĩ năng có nghĩa là
một loạt kĩ thuật về trí tuệ hay tay chân tương đối chính xác mà các cá nhân tự
học hỏi thông qua đào tạo hay qua trường lớp, mặc dù chúng có thể phụ thuộc
vào năng lực của mỗi người. Theo hướng này có các định nghĩa của nhà
nghiên cứu: Trần Trọng Thủy, Hà Nhật Thăng... Theo quan điểm này, kĩ năng
là phương thức thực hiện hành động mà con người đã nắm vững. Người có kĩ
năng hoạt động nào đó là người nắm được các tri thức về hoạt động đó và
thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà không cần tính đến kết quả
của hành động.
Quan điểm thứ hai xem xét kĩ năng từ góc độ không đơn thuần chỉ là mặt
kĩ thuật hành động mà còn là biểu hiện năng lực của chủ thể hành động và
nhấn mạnh đến kết quả của hành động. Theo từ điển Tiếng Việt, kĩ năng là
“khả năng vận dụng những kiến thức đã thu nhận được trong một lĩnh vực nào
đó áp dụng vào thực tiễn”. Các tác giả Ngô Công Hoàn, Nguyễn Ánh Tuyết,
Lê Quang Uẩn,... đều coi kĩ năng là một mặt năng lực của con người thực
hiện một công việc có hiệu quả.

5


Như vậy có thể coi kĩ năng vừa là năng lực cá nhân, vừa đòi hỏi mặt kĩ
thuật và phải dựa trên sự vận dụng kiến thức một cách linh hoạt vào thực tiễn.
Trên cơ sở đó, chúng tôi xây dựng khái niệm “kĩ năng” như sau:
Kĩ năng là năng lực thực hiện có kết quả một hành động, công việc nào
đó của cá nhân dựa trên việc vận dụng kiến thức thu nhận được áp dụng vào
thực tiễn.
b) Vấn đề
Theo quan điểm triết học, “vấn đề” được xem là phạm trù logic biện
chứng của quá trình nhận thức đi từ cái đã biết đến cái chưa biết. Do đó, có
thể xem “vấn đề” như là một sự biến dạng của câu hỏi mà sự giải đáp đã

không chứa đựng trong kiến thức có sẵn, phải có những hoạt động tư duy
tương ứng để tiếp thu những kiến thức mới. C.Mac viết “Vấn đề chỉ xuất hiện
khi nào đã hình thành điều kiện để giải quyết chúng”.
Có nhiều quan điểm khác nhau về “vấn đề”. Tuy nhiên các nhà nghiên
cứu đều có quan điểm chung là: Vấn đề phải mang lại cho chúng ta một số
khó khăn nhất định, buộc chúng ta phải suy nghĩ mới tìm ra cách giải quyết.
Từ phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm “vấn đề” như sau:
Vấn đề là tình huống khó khăn mà chủ thể chưa từng gặp trước đó
nhưng cần phải giải quyết dựa trên những tri thức, kĩ năng đã có của mình.
c) Giải quyết vấn đề
Từ điển Giáo dục quốc tế viết: “Giải quyết vấn đề là một thuật ngữ trong
lí thuyết học tập của Garne.R dùng để chỉ phạm trù cao nhất của kĩ năng tư
duy. Đặc điểm của giải quyết vấn đề là sự kết hợp của hai hay nhiều quy tắc
theo cách thức mới lạ để giải quyết một vấn đề”.
Dưới ảnh hưởng của lí thuyết học tập nhận thức, giải quyết vấn đề được
nâng lên như một hành động trí óc phức tạp bao gồm nhiều kĩ năng tư duy bậc

6


cao như: tưởng tượng, liên tưởng, trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa,...mỗi kĩ năng cần có sự nỗ lực và hợp tác.
Theo đó, giải quyết vấn đề là một quá trình đòi hỏi người giải quyết phải
nắm bắt được chi tiết vấn đề để từ đó thực hiện những hành động theo một kế
hoạch nhất định nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra từ trước.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm “Giải quyết vấn đề”
như sau:
Giải quyết vấn đề là những hành động diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau
thuộc về cách cư xử và nhận thức nhằm khắc phục những tình huống khó
khăn đã có để đạt được mục đích.

d) Kĩ năng giải quyết vấn đề
Kĩ năng giải quyết vấn đề là năng lực thực hiện có kết quả những hành
động diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau thuộc về cách cư xử hoặc nhận thức
nhằm khắc phục những tình huống khó khăn đã có để đạt được mục đích.
1.1.2. Bản chất quá trình giải quyết vấn đề của trẻ 4 – 5 tuổi
Như đã phân tích ở trên, giải quyết vấn đề là những hành động diễn ra ở
nhiều cấp độ khác nhau, điều này cho thấy quá trình giải quyết vấn đề có cơ
sở tâm lí liên quan đến quá trình hình thành hành vi. Theo thuyết hệ thống
chức năng của Anokhin, quá trình hình thành hành vi được chia làm ba giai
đoạn:
+ Giai đoạn 1: Tổng hợp hướng tâm
Não có nhiệm vụ thu thập thông tin, tổng hợp các xung thần kinh hướng
tâm để đưa ra mốc khởi đầu và tình huống ban đầu. Đồng thời, các phân tích
quan ở não bộ thu lượm thông tin từ môi trường xung quanh và rút các thông
tin được lưu trữ trong các phần khác nhau của não bộ. Vì vậy, tổng hợp
hướng tâm bao gồm cả thu lượm lẫn rút thông tin ra từ trí nhớ để tạo thành sự

7


tổng hợp ban đầu, nhờ vậy mà tri giác trong giai đoạn này rất quan trọng, luôn
mang tính vật chất và toàn diện.
+ Giai đoạn 2: Đưa ra cách giải quyết
Hình thành được mục đích và chương trình hành động nên giai đoạn này
diễn ra ở não bộ. Não bộ đưa ra cách giải quyết ban đầu nhưng hợp lí hay
không hợp lí phải được kiểm nghiệm qua thực tế, tức là khi cơ quan thừa
hành tham gia vào phản ứng.
+ Giai đoạn 3: Hình thành kết quả và thông tin ngược chiều.
Quá trình thông tin ngược chiều chỉ thực hiện được khi các cơ quan thừa
hành thực hiện phản ứng. Kết quả của phản ứng chính là mức độ bị hoạt hóa

của các cơ quan thụ cảm nằm trong cơ quan thừa hành, luồng thông tin xuất
hiện từ đây sẽ được truyền tới não để thông báo về mức độ hợp lí hay không
hợp lí của phản ứng hành vi đã xảy ra.
Hành động giải quyết vấn đề cũng là một hành vi nên quá trình giải
quyết vấn đề của trẻ 4 – 5 tuổi cũng diễn ra theo ba giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Tổng hợp hướng tâm. Não nhận diện, tổng hợp thông tin
và phân tích vấn đề.
+ Giai đoạn 2: Đưa ra cách giải quyết. Não sau khi phân tích vấn đề thì
đưa ra cách giải quyết vấn đề.
+ Giai đoạn 3: Hình thành kết quả và thông tin ngược chiều. Các cơ
quan thừa hành thực hiện mệnh lệnh của hệ thần kinh, sau đó các cơ quan thụ
cảm thông báo kết quả của phản ứng trở lại não bộ. Đây là giai đoạn thực hiện
giải quyết vấn đề, đánh giá và kiểm tra kết quả giải quyết vấn đề.
Cụ thể hơn, kĩ năng giải quyết vấn đề là tổng hợp của nhiều kĩ năng, bao
gồm nhiều kĩ năng nhỏ được diễn ra theo một trình tự nhất định. Đầu tiên là
người GQVĐ phải xem xét tình huống đang diễn ra để xác định rõ vấn đề đó
là gì. Sau đó thu thập thông tin, dữ liệu có liên quan đến vấn đề để phân tích

8


mục tiêu, nguyên nhân, kết quả, điều kiện, các yếu tố tác động, những người
có liên quan... Từ đó người GQVĐ lập nên các kế hoạch GQVĐ trong đó bao
gồm các giải pháp, cách thực hiện, dự kiến kết quả sẽ đạt được... Trong các kế
hoạch đó, người GQVĐ phải lựa chọn ra một kế hoạch tốt nhất dựa trên sự
cân nhắc về nguồn lực sẵn có, tính khả thi... Tiếp đó, người GQVĐ thực hiện
kế hoạch đã lựa chọn. Cuối cùng là theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện.
Trong tất cả các bước của quá trình GQVĐ đều có sự tham gia tích cực
của các quá trình tâm lí, sinh lí của đứa trẻ như: Tri giác, tư duy, xúc cảm,
tình cảm, tự ý thức, nhu cầu, chức năng vận động,... Tuy nhiên, ở mỗi giai

đoạn có một hoạt động tâm lí chiếm ưu thế hơn hẳn, đó là:
Giai đoạn 1, hoạt động tri giác chiếm ưu thế, giúp trẻ nhận biết vấn đề.
Giai đoạn 2, hoạt động tư duy chiếm ưu thế, giúp trẻ phân tích, lựa chọn
giải pháp và lập kế hoạch hành động.
Giai đoạn 3, chức năng vận động và tự ý thức tham gia tích cực vào hoạt
động thực hành của trẻ, giúp trẻ thực hiện kế hoạch và đánh giá kết quả.
Như vậy, bản chất quá trình giải quyết vấn đề là quá trình diễn ra các
hành động theo một trình tự cơ bản của hoạt động nhận thức như sau:
- Tổng hợp thông tin: bao gồm việc tái hiện lại những kiến thức, dữ liệu
đã có, xác định cái đích cần đạt được và các điều kiện ban đầu có liên quan
đến vấn đề cần giải quyết.
- Đề xuất giải pháp: bao gồm việc làm rõ mục tiêu và xây dựng kế hoạch
hành động để đạt tới mục tiêu.
- Thực hiện giải pháp: bao gồm việc thực hiện kế hoạch hành động và
đánh giá kết quả. Nếu hành động thành công thì dừng lại, nếu thất bại thì quay
trở lại tổng hợp thông tin hoặc đề xuất giải pháp khác.

9


1.1.3. Hoạt động cho trẻ làm quen với toán ở trường mầm non với việc rèn
luyện kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5 tuổi
a) Hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
Theo quan điểm của tâm lí học, hoạt động là quá trình tác động qua lại
giữa chủ thể và đối tượng dựa trên hai quá trình chính đó là: chủ thể hóa và
đối tượng hóa. Trong quá trình chủ thể hóa, chủ thể tác động lên đối tượng
nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích đặt ra của chủ thể. Quá trình này có
thể tạo ra sản phẩm vật chất hoặc tinh thần cho thế giới. Song song với quá
trình chủ thể hóa là quá trình đối tượng hóa. Đối tượng mới tác động ngược
lại chủ thể, làm thay đổi nhận thức của chủ thể, tạo nên cách nhìn mới, quan

niệm mới.
Thực chất của quá trình dạy trẻ làm quen với toán là quá trình hình thành
ở trẻ những biểu tượng sơ đẳng về tập hợp, con số, phép đếm, về kích thước,
hình dạng của vật, về khả năng định hướng trong không gian, khả năng định
hướng thời gian và mối quan hệ giữa các đại lượng dưới sự tổ chức, hướng
dẫn, điều khiển, đánh giá của giáo viên trong quá trình dạy học ở trường mầm
non. Hoạt động cho trẻ làm quen với toán đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển nhận thức, phát triển trí tuệ của trẻ nói riêng và nhân cách trẻ nói
chung, hơn nữa nó còn góp phần hình thành ở trẻ những tiền đề mới của hoạt
động học tập. Quá trình hình thành biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mầm
non thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Trang bị cho trẻ những kiến thức ban đầu về tập hợp, con số, kích
thước, hình dạng, không gian và thời gian, đó là cơ sở đầu tiên của sự phát
triển toán học cho trẻ.
- Hình thành ở trẻ những định hướng ban đầu về các mối quan hệ số
lượng, không gian và thời gian có trong hiện thực xung quanh trẻ.

10


- Hình thành cho trẻ một số kĩ năng nhận biết như: kĩ năng so sánh số
lượng, so sánh kích thước, kĩ năng đếm, kĩ năng đo lường, kĩ năng tính toán
và những kĩ năng của hoạt động học tập.
- Giúp trẻ nắm được một số thuật ngữ toán học.
- Phát triển hứng thú và năng lực nhận biết, phát triển tư duy logic và
ngôn ngữ cho trẻ.
Nội dung hình thành các biểu tượng toán học cho trẻ mầm non không chỉ
bao gồm những kiến thức, kĩ năng toán học sơ đẳng mà còn bao gồm cả
những biện pháp hoạt động thực tiễn, hoạt động trí tuệ, tất cả đều là cơ sở để
giáo dục nhân cách trẻ một cách toàn diện.

Các nhiệm vụ trên được giải quyết một cách phối hợp và linh hoạt trên
mỗi hoạt động làm quen với toán cũng như trong quá trình tổ chức các dạng
hoạt động độc lập của trẻ. Tuy nhiên chỉ với điều kiện hoạt động của trẻ phải
được tổ chức một cách đúng đắn và dạy học phải có hệ thống thì mới tạo ra sự
phát triển đúng lúc những biểu tượng và những năng lực toán học của trẻ.
Đặc trưng của dạy học với trẻ mầm non là tất cả những kiến thức toán
học sơ đẳng được đưa đến trẻ thông qua quá trình tổ chức các hoạt động thực
tiễn cho trẻ. Mỗi biểu tượng toán học được hình thành ở trẻ một cách trực
quan trên cơ sở đứa trẻ ngắm nhìn các vật cụ thể hay thực hành thao tác với
chúng như: việc làm quen với các con số được thực hiện trong quá trình trẻ
luyện đếm các tập hợp cụ thể (những bông hoa, những con gà, những hình
tròn...). Hay sự hình thành biểu tượng về các hình hình học diễn ra trong quá
trình làm quen trẻ với chúng mà không cần tới bất cứ định nghĩa hay lời giải
thích nào về khái niệm đó. Vì vậy, những kiến thức toán học mà trẻ nắm được
là sản phẩm hoạt động của chính bản thân trẻ dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.

11


Nội dung chương trình cho trẻ làm quen với toán được đưa tới trẻ thông
qua hệ thống hoạt động làm quen với toán có chủ đích và các hình thức hoạt
động khác. Các kế hoạch dài hạn có tính định hướng cùng với các kế hoạch
ngắn hạn và các kế hoạch hoạt động có tác dụng định hướng cho giáo viên
thực hiện công việc làm quen trẻ với toán. Trong quá trình dạy trẻ, giáo viên
cần thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề giúp trẻ tự tìm tòi, khám
phá, so sánh... nhằm nắm được kiến thức toán học ban đầu, kĩ năng nhận biết.
Mỗi hoạt động làm quen với toán đều được giáo viên thực hiện một cách có tổ
chức, có logic, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi trẻ mà không phụ
thuộc vào thời gian và hình thức tiến hành. Kết quả của mỗi hoạt động làm

quen với toán được thể hiện qua việc đạt mục đích đề ra, tạo cho trẻ cảm xúc
thỏa mãn và lòng ham muốn được học tiếp tục.
b) Ưu thế của hoạt động cho trẻ làm quen với toán đối việc rèn luyện kĩ
năng giải quyết vấn đề cho trẻ 4 – 5 tuổi
Có thể nói, hoạt động LQVT là một trong những hoạt động phát triển
nhận thức tích cực ở trẻ, trong quá trình tham gia vào hoạt động này tư duy
của trẻ luôn được kích thích bởi các câu hỏi, tình huống, các thí nghiệm từ đó
phát huy tối đa khả năng GQVĐ của trẻ. Hơn thế, trong việc rèn luyện
KNGQVĐ cho trẻ, vai trò của hoạt động LQVT cũng rất quan trọng. Bởi khi
trẻ giải quyết được những tình huống trong hoạt động này sẽ giúp phát triển ở
trẻ tư duy linh hoạt, mềm dẻo trong việc giải quyết các tình huống của cuộc
sống sau này. Vai trò của hoạt động LQVT đối với việc rèn luyện kĩ năng
GQVĐ cho trẻ 4 – 5 tuổi được thể hiện như sau:
Thứ nhất, hoạt động LQVT làm nảy sinh nhiều vấn đề gắn với việc giải
quyết nhiệm vụ nhận thức của trẻ
Trong hoạt động LQVT trẻ được gặp rất nhiều tình huống gần gũi với
cuộc sống thực của trẻ. Trong các hoạt động này trẻ được lĩnh hội những kiến

12


thức toán học ban đầu dưới dạng các biểu tượng như: biểu tượng số lượng,
kích thước, hình dạng,... nhưng do vốn kinh nghiệm của trẻ còn hạn chế nên
trẻ thường gặp những khó khăn nhất định. Để giải quyết những tình huống
này buộc trẻ phải tích cực suy nghĩ và hành động, vận dụng những điều đã
biết để giải quyết chúng, qua đó nắm kiến thức, kĩ năng. Chẳng hạn như làm
thế nào để lấy được quả bóng treo ở phía trên cao hơn trẻ hay làm thế nào để
số kẹo của tổ 1 bằng số bánh của tổ 2, làm sao để biết bạn nào cao hơn bạn
nào thấp hơn... Việc giải quyết những tình huống đó mang lại cho trẻ những
kinh nghiệm nhất định. Những kinh nghiệm đó không chỉ bao gồm những

nhận thức về thế giới xung quanh mà bao gồm cả kinh nghiệm ứng xử linh
hoạt trong những tình huống khó khăn. Có thể thấy hoạt động LQVT là môi
trường nảy sinh những tình huống có vấn đề gắn với nhiệm vụ nhận thức của
trẻ.
Những tình huống mang tính chất nêu vấn đề phù hợp với xu hướng phát
triển tư duy của trẻ mẫu giáo và dựa trên sự tìm tòi độc lập giải quyết các
nhiệm vụ khác nhau có tính vấn đề như: Hệ thống các nhiệm vụ giao cho trẻ,
những câu hỏi, lời đề nghị,... trong các quá trình hoạt động LQVT với mức độ
phức tạp dần, để giải quyết chúng bắt buộc trẻ phải tích cực tìm kiếm các
phương tiện thực hiện, thử chúng trong các hoàn cảnh khác nhau. Việc giải
quyết nhiệm vụ trước tạo những tiền đề cho việc giải quyết các nhiệm vụ tiếp
theo nhưng với cách thức hành động không lặp lại như ở nhiệm vụ trước, mà
phải là những tìm tòi mới hơn.
Thứ hai, Để giải quyết các tình huống có vấn đề, giáo viên hướng dẫn
trẻ phương thức giải quyết vấn đề
Giáo viên nghiên cứu và dựa vào “vùng phát triển gần của trẻ” để tạo ra
các tình huống có vấn đề. Việc tìm kiếm cách thức giải quyết các vấn đề nhận
biết được đặt ra trong các hoạt động LQVT, buộc giáo viên cần hướng dẫn trẻ

13


phải xem xét đối tượng, phân tích chúng. Từ đó giúp trẻ nhận biết được các
dấu hiệu cơ bản và không cơ bản, các bộ phận chính và phụ, các mối liên hệ,
quan hệ toán học... Dựa trên các dấu hiệu đó, trẻ tiến hành so sánh để phân
biệt sự giống (cái chung) và khác nhau (cái riêng) giữa các đối tượng nghiên
cứu, như sự giống và khác nhau về số lượng, kích thước, hình dạng, vị trí sắp
đặt trong không gian của các đối tượng và các nhóm đối tượng... Trên cơ sở
phân biệt các dấu hiệu của các đối tượng nghiên cứu, trẻ tiến hành khái quát
hóa chúng theo các dấu hiệu khác nhau như: số lượng, kích thước, hình dạng,

màu sắc,... tiến hành phân tích chúng theo các dấu hiệu như giống, loài, loại,...
và tìm ra mối quan hệ nhân quả giữa chúng.
Như vậy để giải quyết các tình huống có vấn đề giáo viên còn dạy trẻ
biết phân tích các điều kiện cho trước để xây dựng kế hoạch hoạt động phù
hợp nhằm tìm kiếm cách thức GQVĐ và tự kiểm tra kết quả nhận biết của
mình. Các nhiêm vụ nhận biết được đặt ra trong các hoạt động nhận thức của
trẻ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình nhận thức của trẻ mẫu giáo, để trẻ thể hiện
vai trò chủ thể tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt động này. Hơn nữa, việc
sử dụng thường xuyên các tình huống nhận biết có vấn đề như những câu hỏi,
lời đề nghị, giao nhiệm vụ... của cô mang tính định hướng buộc trẻ phải suy
nghĩ, tiến hành các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp, hệ thống,
trẻ phải huy động vốn hiểu biết của mình để tìm lời giải đáp, tìm ra được các
mối liên hệ, quan hệ, những điểm giống và khác nhau giữa các đồ vật, các
hiện tượng xung quanh. Tất cả điều đó buộc trẻ phải độc lập, tích cực trong
các hành động, hoạt động nhận biết dưới sự tổ chức hướng dẫn, điều chỉnh,
đánh giá của giáo viên, nhờ vậy mà nhận thức của trẻ được nâng cao. Mặt
khác, việc cô giáo tổ chức các hoạt động nhận biết cho trẻ chiếm lĩnh được
đối tượng nghiên cứu qua con đường tìm tòi, tích cực khám phá thế giới xung
quanh tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn trẻ vào các tình huống có vấn đề và tạo điều

14


kiện thuận lợi cho trẻ tham gia tích cực vào hoạt động nhận biết để lĩnh hội
kiến thức, kĩ năng. Trong quá trình hướng dẫn trẻ hoạt động, bằng cách hỏi –
đáp, sử dụng hành động mẫu,... giáo viên hướng dẫn trẻ tìm kiếm và vận dụng
những cái đã biết vào hoàn cảnh và điều kiện mới để đưa ra cách thức giải
quyết tình huống và giải quyết thành công tình huống.
Thứ ba, kết quả của hoạt động LQVT luôn cụ thể, rõ ràng, thể hiện bằng
sản phẩm cụ thể, nhờ vậy trẻ có thể kiểm tra, đánh giá kết quả bằng phương

pháp trực quan, phù hợp với trẻ 4 – 5 tuổi
Chúng ta đã biết, hoạt động LQVT là hoạt động có đối tượng, diễn ra hai
quá trình tác động qua lại giữa trẻ và đối tượng, cả hai quá trình này đều tạo
ra sản phẩm vật chất và tinh thần. Chính sản phẩm mang tính vật chất đó là
yếu tố trực quan giúp trẻ có khả năng đánh giá kết quả hoạt động của mình
một cách dễ dàng, phù hợp với đặc điểm tư duy trực quan của trẻ 4 – 5 tuổi.
Chẳng hạn khi trẻ so sánh chiều dài hai băng giấy hay so sánh số lượng
hai nhóm đối tượng, kết quả thể hiện ngay khi trẻ xếp trồng từng vật của
nhóm này lên từng vật của nhóm kia... Việc đánh giá kết quả trong hoạt động
làm quen với toán không chỉ thuận lợi với bản thân trẻ khi tự đánh giá kết quả
hoạt động của mình mà còn thuận lợi với trẻ khi đánh giá kết quả hoạt động
của bạn. Điều này mang tính khách quan cao và sẽ tạo môi trường đánh giá,
nhận xét công bằng giữa các trẻ. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc rèn khả
năng đánh giá và tự đánh giá ở trẻ 4 - 5 tuổi, đặc biệt trong việc rèn luyện
KNGQVĐ.
Như vậy hoạt động LQVT có ưu thế rất lớn trọng việc rèn luyện
KNGQVĐ cho trẻ 4 – 5 tuổi đó là: Đáp ứng nhu cầu hoạt động và tạo cơ hội
cho trẻ tích cực giải quyết vấn đề; tạo ra nhiều tình huống có vấn đề để trẻ
giải quyết làm tăng vốn kinh nghiệm và phát triển tư duy linh hoạt ở trẻ; là

15


phương tiện trực quan để trẻ có thể kiểm tra, đánh giá kết quả phù hợp với đặc
điểm phát triển tâm lí lứa tuổi.
1.1.4. Đặc điểm về kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ 4 – 5 tuổi thông qua
hoạt động làm quen với toán
a) Trẻ 4 – 5 tuổi có khả năng nhận biết vấn đề do sự hoàn thiện dần các
giác quan và hệ thần kinh
Ở trẻ 4 – 5 tuổi, các cơ quan phân tích đều đã phát triển gần như ở người

lớn bao gồm các bộ phận nhận cảm (cơ quan thụ cảm), bộ phận dẫn truyền
(dây thần kinh) và bộ phận trung ương (trung khu trên vỏ não). Về thị giác,
trẻ có khả năng thu nhận được nhiều màu sắc, trong đó có cả những màu
trung gian, thu nhận và phân biệt được các kích thước, hình dạng phong phú.
Về thính giác, có khả năng thu nhận và phân biệt âm thanh ở những độ cao
khác nhau, cảm nhận được các giai điệu của bài hát. Về khứu giác, cảm nhận
khứu giác của trẻ tương đối nhạy bén, nhạy hơn so với ở người lớn. Về vị
giác, trẻ cảm nhận được 4 vị cơ bản: ngọt, đắng, mặn, chua và các vị trung
gian; ngưỡng kích thích vị giác của trẻ cao hơn so với của người lớn. Về xúc
giác, trẻ 4 – 5 tuổi đã hoàn thiện về các loại cảm giác: cảm giác xúc giác (cảm
giác đụng chạm và cảm giác áp lực), cảm giác nhiệt độ và cảm giác đau. Do
đó, trẻ có thể nhận biết được đồ vật bằng tay mà không cần nhìn, có thể tự bảo
vệ bản thân bằng những phản xạ tự vệ. Các cơ quan phân tích này có tác động
và kiểm soát lẫn nhau do hiện tượng lan tỏa và cảm ứng đồng thời trên vỏ
não, nên sự kích thích của một cơ quan phân tích này có ảnh hưởng đến hưng
tính của cơ quan phân tích kia. Vì vậy, giữa các cơ quan phân tích có sự kiểm
tra lẫn nhau, giúp cho sự tri giác được chính xác hơn. Nhờ đặc điểm phát triển
này của các cơ quan phân tích mà trẻ 4 – 5 tuổi có khả năng tri giác tổng thể,
có khả năng nhìn nhận sự vật hiện tượng trong mối quan hệ với môi trường
xung quanh và xem xét chúng ở nhiều phương diện, nhiều góc độ khác nhau.

16


Từ đó trẻ có khả năng nhận biết vấn đề nhanh hơn, chính xác hơn so với lứa
tuổi trước.
b) Trẻ 4 – 5 tuổi có khả năng lựa chọn giải pháp và có thể lập kế hoạch
cho giải pháp đó bằng phép thử ngầm trong óc
Ở độ tuổi này, trọng lượng não bộ của trẻ tăng lên đáng kể (1305g ở trẻ
nam, 1140g ở trẻ nữ), bằng 1/3 đến 1/4 trọng lượng cơ thể. Sự phát triển

mạnh hơn của lớp vỏ ngoài so với lớp trong đã tạo thành các nếp nhăn và rãnh
trên vỏ não. Quá trình này diễn ra đặc biệt mạnh mẽ đến khi trẻ được 5 tuổi.
Bên cạnh đó, đa số các tế bào thần kinh đã được chuyên biệt hóa, các sợi thần
kinh đã được miêlin hóa tương đối hoàn thiện, vì vậy hưng phấn được truyền
đến não một cách chính xác và định khu hơn. Nhờ sự phát triển của hệ thần
kinh như vậy giúp cho trẻ 4 – 5 tuổi có khả năng phân tích thông tin và tổng
hợp thông tin để đưa ra giải pháp cho vấn đề.
Cùng với sự phát triển của hệ thần kinh thì hệ thống các phản xạ có điều
kiện của trẻ 4 – 5 tuổi ngày càng nhiều, vì vậy các hoạt động của trẻ dễ dàng
được hình thành theo một chế độ thời gian chặt chẽ như ăn, ngủ, chơi, học tập
theo giờ giấc...
Hệ thống tín hiệu thứ hai cũng phát triển nhanh chóng, ngôn ngữ phong
phú, nhiều từ mới và cấu trúc ngữ pháp tương đối chuẩn.
Ở trẻ mẫu giáo nhỡ, tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh, do đó
phần lớn trẻ em lứa tuổi này dã có khả năng suy luận. Đó là việc trẻ không chỉ
suy luận bằng dùng hành động định hướng bên ngoài (tức là bằng tư duy trực
quan hành động) như mẫu giáo bé mà trẻ có khả năng “dùng phép thử ngầm
trong óc” dựa vào các biểu tượng và kết quả của những hành động ấy. Do đó,
trẻ ở lứa tuổi này có khả năng lập kế hoạch hành động giải quyết vấn đề và có
thể hình dung được kết quả của hành động đó. Tất nhiên, tư duy trực quan
hình tượng chỉ thực sự hiệu quả nhất khi giải những bài toán mà những thuộc

17


tính bản chất có thể hình dung được. Cuối tuổi mẫu giáo nhỡ xuất hiện kiểu tư
duy trực quan hình tượng mới – tư duy trực quan sơ đồ giúp trẻ hiểu một cách
nhanh chóng về cách biểu diễn sơ đồ và sử dụng có kết quả những sơ đồ đó
để tìm hiểu sự vật. Tư duy trực quan sơ đồ vẫn giữ chất hình tượng song bản
thân hình tượng đã trở nên khác trước: hình tượng đã mất đi những chi tiết

rườm rà mà chỉ giữ lại những yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái
quát sự vật chứ không phải là từng sự vật riêng lẻ. Vì vậy, khả năng lập kế
hoạch của trẻ 4 – 5 tuổi cũng tăng lên ở giai đoạn cuối độ tuổi này.
c) Trẻ 4 – 5 tuổi có thể thực hiện giải pháp tương đối linh hoạt nhờ sự
hoàn thiện dần của các chức năng vận động và sự phát triển của tư duy, tuy
nhiên hành động thực hiện giải pháp vẫn diễn ra theo cơ chế thử và sai
Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, tư duy trực quan phát triển mạnh mẽ giúp trẻ giải
quyết một số bài toán thực tiễn. Nhưng trong thực tế, những thuộc tính bản
chất của sự vật hiện tượng mà trẻ cần tìm hiểu lại bị che giấu không thể hình
dung được bằng hình ảnh. Mặt khác, trẻ mẫu giáo nhỡ chưa có khả năng tư
duy trừu tượng nên trẻ chỉ mới dựa vào những biểu tượng đã có, những kinh
nghiệm đã trải qua để suy luận ra những vấn đề mới. Vì vậy trong nhiều
trường hợp, chúng chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài mà chưa đi vào
được bản chất bên trong. Do đó, nhiều khi trẻ giải thích các hiện tượng một
cách ngộ nghĩnh, và rất dễ lẫn lộn thuộc tính bản chất và không phải là bản
chất của sự vật hiện tượng xung quanh. Điều này dẫn đến việc trẻ đưa ra giải
pháp có thể không chính xác và việc thực hiện giải pháp buộc phải diễn ra
theo lối thử và sai. Trẻ cứ thực hiện hành động theo suy nghĩ ban đầu cho đến
khi có kết quả rồi mới kiểm tra lại. Nếu hành động đó mang lại kết quả không
đúng, trẻ sẽ quay lại tìm giải pháp khác cho vấn đề.
d)Trẻ 4 – 5 tuổi có khả năng đánh giá kết quả GQVĐ thông qua sản
phẩm cụ thể nhờ sự phát triển của sự tự ý thức

18


×