Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Vai trò của việc giảng dạy các môn lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên cao đẳng sư phạm nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.8 KB, 84 trang )

I HC QUC GIA H NI
TRUNG TM O TO, BI DNG GING VIấN Lí LUN CHNH TR

NGUYN VN LONG

Vai trò của việc giảng dạy các môn lý luận chính trị đối
với việc hình thành thế giới quan khoa học
cho sinh viên cao đẳng s- phạm nam định

Chuyờn ngnh: TRIT HC
Mó s: 60 22 80

Ngi hng dn khoa hc: TS. DNG MINH C

H NI 2010


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Đối với thế hệ trẻ
chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát
huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[7, tr.126]. Đến Đại hội X
Đảng ta đã khẳng định: "Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [11, tr.70]. Trên
tinh thần đó cách mạng của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn mới, giai đoạn thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Trong bối cảnh
lịch sử mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt
là sứ mệnh của thế hệ trẻ. Đại hội X Đảng ta còn chỉ rõ:"Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân
cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp


hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học
sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá
con người Việt Nam" [11, tr.106].
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, công tác tư
tưởng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng, nhất là việc giáo dục thế giới quan
khoa học đối với thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng nhất là sinh viên sư phạm – những
thầy giáo, cô giáo tương lai - những người lao động có trình độ cao, đây là nguồn nhân lực quan
trọng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Vì vậy, sự phát triển
bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đòi hỏi khách quan phải trang bị cho họ thế giới
quan khoa học, những kiến thức về mục tiêu, con đường đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì
thế, giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên sư phạm hiện nay vừa là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, Trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế,
chính trị trên thế giới; trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù
địch chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, đối tượng chúng hướng tới là thế hệ
trẻ, nhằm làm cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong xã hội. Hơn nữa, do ảnh hưởng
của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh viên.
Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu may dễ dẫn đến thế giới


quan tôn giáo, duy tâm. Thực tế là một bộ phận không nhỏ trong sinh viên còn tình trạng suy
thoái đạo đức, sống thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp, phai mờ về lý tưởng XHCN và đây là
một bộ phận dễ bị các thế lực phản động lôi kéo. Đó là một trong những vấn đề bức xúc nhất
hiện nay của giáo dục, như Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (Khóa IX) đã chỉ ra:"Vấn đề bức xúc
nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là chất lượng giáo dục toàn diện, trước hết là chất lượng
giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt ở bậc đại học, cao đẳng" [9, tr.40-41].
Tình hình giáo dục thế giới quan khoa học trong trường CĐSP Nam Định không nằm ngoài cái
chung đó. Bên cạnh đó việc tích hợp ba môn (triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị Mác –
Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học) thành một môn (những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin) đã có những khó khăn nhất định cho người dạy và người học (giảng viên trước đây
thường chỉ dạy một môn giờ phải dạy tất cả, chương trình thì mới, nên đòi hỏi phải có một phông
kiến thức rộng, phải truyền thụ hết nội dung chương trình mà thời gian thì rút ngắn lại. Đối với

sinh viên, đòi hỏi có những vấn đề phải tự nghiên cứu, mà có những vấn đề mới rất khó). Vì
những lẽ trên đây, tôi chọn đề tài: "Vai trò của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với
việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định”
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học ở các trường đại
học, cao đẳng đang được nhiều người quan tâm cho nên trong thời gian gần đây xuất hiện nhiều
bài viết xung quanh vấn đề này ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau.
Ở nước ngoài có một số công trình tiêu biểu như:
- Ch.L.Xmiếc Cốp, "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan Mác Lênin". Tạp chí Giáo dục lý luận, 1985, số 3.
- V.I.L Vaxilenco, "Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của việc xây dựng
thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa". Bản tự lược thuật, Luận án tiến sĩ triết
học, 1975.
Ở trong nước có một số công trình đáng chú ý như:
- Bùi Ngọc, "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử". tạp chí thông tin khoa học xã
hội, 1981, số 8.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác Lênin ở các trường đại học hiện nay. Tạp
chí Lý luận chính trị, số 7 – 2000.


- Hồ Tấn Phong: "Nên giảng dạy các môn lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin như thế nào",
Tạp chí cộng sản, tháng 9 năm 1994.
- Lương Minh Cừ:"Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên
hiện nay". Tạp chí giáo dục số 60 tháng 6 năm 2003.
- Lương Gia Ban: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận". Tạp trí triết học,
tháng 1 năm 2004.
- Lê Bình:"Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị" Lý luận chính trị số
3 – 2004.
- Lê Xuân Vũ, "Thế giới quan Mác Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta ", Tạp
chí cộng sản, 1986, số 6.
- Nguyễn Trọng Chuẩn, "Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối với sự

hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí Triết học 1988, số 3.
- Trần Trọng Tân: "Góp phần đổi mới công tác lý luận cơ bản", NXB CTQG, HN, 1995.
- Hoàng Thúc Lân, Giảng dạy triết học Mác – Lênin với việc nâng cao năng lực tư duy
biện chứng cho sinh viên các trường đại học. Luận văn thạc sĩ triết học, 2003.
- Phạm Đình Đạt, "Vai trò lý luận đối với quá trình đổi mới xã hội ở nước ta hiện nay",
Luận văn thạc sĩ triết học, 1993.
- Trần Thước, "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt
Nam", Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Thanh Hà, "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người
dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Viết Quân, "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 2002.
Tất cả các công trình trên đã có đóng góp to lớn trong việc giáo dục thế giới quan khoa
học cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên đây là vấn đề rộng
lớn và phức tạp nó còn có những khoảng trống cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt vấn
đề vai trò của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay chưa được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


- Mục đích:
Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói chung, sinh viên nói
riêng, vai trò của của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị với việc hình thành thế giới quan
khoa học; chỉ ra thực trạng và quy trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị cho sinh viên CĐSP
Nam Định, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa học cho
sinh viên CĐSP Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói chung và sinh

viên CĐSP Nam Định nói riêng; luận giải tầm quan trọng của việc giảng dạy các môn Lý luận
chính trị đối với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP
Nam Định.
+ Làm rõ thực trạng và quy trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị để nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học của sinh viên CĐSP Nam Định.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh
viên CĐSP Nam Định hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của việc gỉang dạy các môn Lý luận chính trị đối với
việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị (môn
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin) đối với việc hình thành thế giới quan khoa
học cho sinh viên ở trường CĐSP Nam Định hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Các quan điểm của Đảng ta về giáo dục – đào tạo và giáo
dục lý luận Mác – Lênin cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay.
+ Luận văn tham khảo, kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu, bài viết có liên
quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:


Trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lênin, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu như phương pháp phân tích – tổng hợp, lịch sử - logic, khái quát hóa – trừu
tượng hóa… đồng thời kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn nêu lên tầm quan trọng của giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc

giáo dục thế giới quan khoa học, thực trạng và một số phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng
cao chất lượng giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác lý luận chính trị và giáo dục
đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết
cấu làm 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Giảng dạy các môn lý luận chính trị với quá trình hình thành và phát triển thế
giới quan khoa học cho sinh viên
Chương 2: Giảng dạy các môn lý luận chính trị với việc hình thành thế giới quan khoa
học cho sinh viên CĐSP Nam Định - thực trạng và những vấn đề đặt ra
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh
viên CĐSP Nam Định



Chƣơng 1
GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
CHO SINH VIÊN
1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với con ngƣời nói chung và sinh viên
CĐSP nói riêng
1.1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sự phát triển con người
1.1.1.1 Thế giới quan khoa học
Thế giới quan xuất hiện từ rất sớm ngay từ thời nguyên thuỷ và cho tới nay nó có nhiều
định nghĩa khác nhau. Song có thể nói, thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người
về thế giới, về bản thân con người, về vị trí của con người trong thế giới ấy. Trong thế giới quan,
những yếu tố cảm xúc và trí tuệ, niềm tin và tri thức hoà quyện vào nhau. Rõ ràng, thế giới quan
không tự nhiên mà có. Nó được hình thành trên cơ sở hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
cải tạo thế giới của con người. Nó luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển cùng quá trình phát

triển của thực tiễn xã hội. Do đó, Thế giới quan có những đặc điểm cơ bản sau:
(1) Thế giới quan phát triển cùng với sự phát triển của con người và xã hội thông qua
hoạt động của mình.
(2) Thế giới quan luôn có mối quan hệ con người với thế giới. Sự hiểu biết đúng đắn mối
quan hệ đó sẽ định hướng và chỉ đạo hoạt động của con người phù hợp với hiện thực luôn luôn
vận động và phát triển nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu và lợi ích của con người cũng như
của xã hội.
(3) Thế giới quan là sản phẩm tinh thần của con người, phản ánh hiện thực thông qua
nhận thức, nhu cầu, lợi ích của cá nhân, của những tập đoàn người hay của toàn xã hội.
(4) Thế giới quan phụ thuộc vào trình độ nhận thức, nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân,
mỗi nhóm người, mỗi tập đoàn người và của toàn xã hội. Do đó, trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi
xã hội, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp có thể tồn tại nhiều thế giới quan khác nhau.
Thế giới quan có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của mỗi người, mỗi giai cấp,
cộng đồng người và của cả loài người. Nó giúp con người định hướng đúng trong cuộc sống, xác
lập được nhân sinh quan đúng đắn, tích cực. Trên cơ sở đó, con người xác định đúng thái độ,
cách thức hoạt động và cách sống của riêng mình. Khi xác định đúng được mục tiêu, lý tưởng,
hoài bão, ước mơ con người mới phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng, hoài bão, ước mơ đó.


Thế giới quan còn giúp con người định hướng trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Đối với nhận thức, thế giới quan giúp con người xác định xem con người có khả năng
nhận thức thế giới hay không. Trên cơ sở đó, con người mới tin vào sức mạnh nhận thức thế giới
của mình hay không, mới có các giải pháp để nhận thức thế giới hiệu quả nhất. Đối với hoạt
động thực tiễn thế giới quan giúp con người tự giác, chủ động xác định tính hướng đích trong
hoạt động thực tiễn. Do vậy, tránh được mò mẫm, tự phát, chệch hướng, vô định.
Thế giới quan giúp con người xác định đúng mối quan hệ của bản thân với người khác
trong xã hội. Trên cơ sở đó giúp con người điều chỉnh những quan hệ qua lại giữa người với
nhau và hành vi của bản thân sao cho phù hợp với mục tiêu chung của xã hội và phù hợp quy
luật khách quan của sự phát triển xã hội.
Thế giới quan là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức, niềm tin, lý trí và tình cảm.

Tri thức là sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của quá trình hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn của con người, là sự phản ánh của thế giới
khách quan của con người. Tri thức có nhiều loại khác nhau, trong đó có tri thức về tự nhiên, về
xã hội và về con người. Sự hình thành và phát triển tri thức là một quá trình, thông qua toàn bộ
hoạt động sống của con người. Tri thức có thể được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa trở thành thế giới quan. Tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan
khoa học khi nó chuyển thành niềm tin khoa học của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở
nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị định hướng cho hoạt động của con người.
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của tri thức.
Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người. Niềm tin có thể
chia làm hai loại: (1) niềm tin mù quáng. (2) niềm tin khoa học.
Niềm tin chính là động lực mạnh mẽ, giúp cho mỗi con người có nghị lực phi thường, có
thể vượt qua những giây phút hiểm nguy, giám hy sinh tính mạng vì mục tiêu lý tưởng mà mình
đã theo đuổi.
Thế giới quan thể hiện trí tuệ của con người, thể hiện trình độ tương đối cao của lý trí,
bởi vì lý trí dựa trên cơ sở hiểu biết của con người với tư cách là một chỉnh thể và sự thống nhất
những biểu hiện muôn màu, muôn vẻ trong hoạt động của con người. Lý trí của con người là sự
thống nhất chặt chẽ giữa niềm tin và tri thức. Lý trí không tách rời tình cảm mà gắn bó khăng
khít, mật thiết tình cảm.


Tình cảm là hình thức phản ánh đặc biệt mối quan hệ của con người về thế giới và quan
hệ của con người với nhau, thể hiện thái độ của con người về những tác động của thế giới đối với
bản thân.
Vì vậy, tình cảm góp phần củng cố lý trí, làm cho lý trí có thêm sức mạnh. Như vậy, từng
yếu tố đơn lẻ trên không phải là thế giới quan. Thế giới quan cũng không phải là số cộng giản
đơn của các yếu tố đó. Trong thế giới quan có sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa tri thức,
niềm tin, lý trí và tình cảm, là sự thể hiện toàn bộ sự hiểu biết và kinh nghiệm sống, hoạt động
của con người.
Thế giới quan sử dụng chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận của mình được gọi là thế

giới quan Mácxit hay thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. Thế giới quan đó còn được gọi là thế
giới quan khoa học, bởi vì nó phản ánh đúng đắn những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy con người dựa trên cơ sở của các thành tựu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, đồng thời đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thế giới quan cũng phát triển và đã được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó rõ rệt nhất đã trải qua ba hình thức sau:
Một là, thế giới quan huyền thoại. Xuất hiện trong buổi bình minh của lịch sử loài người.
Đó là sự cảm nhận thế giới rất đặc trưng của người nguyên thuỷ. Nó phản ánh những quan niệm
của người nguyên thuỷ về thế giới. Mỗi dân tộc có những huyền thoại để giải thích về nguồn gốc
dân tộc mình; nguồn gốc của những hiện tượng tự nhiên như trái đất, bầu trời, sấm, sét, mây
mưa, nhật thực, nguyệt thực... Chẳng hạn như thần thoại Hy Lạp; huyền thoại về Sơn Tinh, Thuỷ
Tinh; Lạc Long Quân, Âu Cơ của Việt Nam... Trong thế giới quan huyền thoại, các yếu tố thực
và ảo (tưởng tượng), cảm xúc và trí tuệ, lý trí và niềm tin, cái người và cái thần hoà quyện vào
nhau, chưa phân biệt rõ.
Hai là, thế giới quan tôn giáo. Đó là hình thức phản ánh thế giới khách quan một cách hư
ảo, là sự giải thích thế giới trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bởi lực lượng siêu nhiên,
thần thánh. Trong thế giới quan tôn giáo, niền tin tôn giáo đóng vai trò chi phối đối với lý trí, cái
ảo lấn át cái thực, cái thần lấn át cái người. Mặc dù vậy, thế giới quan tôn giáo cũng phản ánh
khát vọng của con người muốn được giải phóng khỏi những bất công, đau khổ, muốn vươn tới
thế giới hạnh phúc, ấm no. Đồng thời, thế giới quan tôn giáo cũng phản ánh trình độ phát triển
thế giới quan nhất định của con người.


Ba là, thế giới quan triết học. Đó là hình thức phản ánh thế giới quan bằng hệ thống các
khái niệm, nguyên lý, phạm trù, quy luật. Nếu thế giới quan huyền thoại, yếu tố biểu tượng cảm
tính giữ vai trò chi phối; trong thế giới quan tôn giáo yếu tố niềm tin giữ vai trò chủ đạo, thì
trong thế quan triết học, yếu tố tư duy lý tính đóng vai trò chủ đạo. Thế giới quan triết học đã
chứng minh những quan niệm của mình bằng những lập luận logic, bằng tư duy logic.
Vấn đề cơ bản của thế giới quan khoa học cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học. Theo
Ph.Ăngghen "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan

hệ tư duy với tồn tại". [18, tr.403].
Trên cơ sở cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà người ta phân biệt các hình thức thế
giới quan triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi
lớn:
Mặt thức nhất: Giữa tư duy và tồn tại, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào?
Mặt thức hai: Tư duy của con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Trả lời cho hai câu hỏi này sẽ quyết định tới việc hình thành thế giới quan triết học cũng
như các học thuyết về nhận thức khác nhau. Giải quyết mặt thức nhất trong vấn đề cơ bản của
triết học gắn liền với việc phân định các trường phái triết học. Có hai trường phái lớn. Những ai
cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người được coi là
các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
Ngược lại, những ai cho rằng, ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy
tâm; họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Thế giới quan triết học cũng phản ánh tồn tại xã hội. Do vậy, trong xã hội có giai cấp, thế
giới quan triết học cũng mang tính giai cấp. Triết học được coi là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, bởi lẽ, thông qua thế giới quan triết học mà những quan niệm về kinh tế, chính trị, xã hội,
đạo đức... được thể hiện. Hơn nữa, triết học còn đóng vai trò định hướng cho sự củng cố, phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, cộng đồng trong lịch sử.
Như chúng ta đã rõ, thế giới quan triết học duy vật đã trải qua ba loại hình lịch sử phát
triển của mình:
Một là, thế giới quan triết học thô sơ, mộc mạc thời kỳ cổ đại. Nó thể hiện những quan
điểm duy vật mộc mạc, chất phát, giản đơn về thế giới. Những quan niệm này chưa được khái
quát, thể hiện thông qua hệ thống khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Tuy còn rất nhiều


hạn chế nhưng về cơ bản là đúng vì nó lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện
đến Thần linh hay Thượng đế.
Hai là, thế giới quan triết học duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ cơ
học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ

nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Do đó, đặc trưng của thế giới quan triết học này là có
quan niệm duy vật siêu hình, máy móc về thế giới. Theo thế quan duy vật siêu hình này, mọi bộ
phận, mọi yếu tố, mọi quá trình trong thế giới (cả tự nhiên và xã hội) không có mối liên hệ tác
động lẫn nhau, nếu có chỉ là ngẫu nhiên. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa
duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn
giáo, điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời kỳ phục hưng.
Ba là, thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Thế giới quan triết học duy vật biện
chứng là hình thức phát triển cao nhất của thế giới quan duy vật, khoa học. Thế giới quan triết
học duy vật biện chứng ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX do C.Mác và Ph.Ăngghen xây
dựng sau đó được V.I.Lênin phát triển. Do tiếp thu được toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, lại được hậu thuẫn bởi những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, nên thế
giới quan triết học duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế
của thế giới quan triết học duy vật thô sơ, mộc mạc; thế giới quan triết học duy vật siêu hình. Thế
giới quan triết học duy vật biện chứng (gọi tắt là thế giới quan khoa học) không chỉ phản ánh
hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực
lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực.
1.1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh
viên CĐSP Nam Định hiện nay
Sinh viên CĐSP Nam Định là con em của mọi tầng lớp nhân dân sống ở tỉnh Nam
Định về học tập ở trên địa bàn thành phố Nam Định, do đó điều kiện kinh tế xã hội của thế
giới cũng như của trong nước cùng những điều kiện đặc thù của tỉnh Nam Định đều tác động
đến việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên.
* Sự tác động của những điều kiện trong nước
Trước hết phải tính đến sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội. Đại hội VI của
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, qua hơn hai mươi năm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã thu
được những thành tựu hết sức quan trọng về kinh tế và xã hội: "Nền kinh tế đã vượt qua thời


kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao... Văn hóa và xã hội có những tiến bộ trên nhiều

mặt... Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có
bước phát triển mới" [11, tr.14]. Những thành tựu này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, và nó là tiền đề trực tiếp cho Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta tiếp tục thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng XHCN. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn ở trạng thái
chậm phát triển so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Đời sống của một bộ phận nhân
dân hiện nay vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân căn bản là chúng ta xuất phát từ một nền sản xuất
nhỏ, nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu, tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Nền sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, tồn tại lâu dài ở nước ta đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh
thần của nhân dân ta và tác động đến cả quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh
viên hiện nay. Phần lớn sinh viên Nam Định là con em của nhân dân ở khắp các vùng quê. Vì
vậy, họ luôn luôn được kế thừa cả những yếu tố tích cực và hạn chế của người nông dân Việt
Nam. Những yếu tố tích cực ví dụ như lòng yêu nước, tính cần cù chịu khó, dũng cảm, luôn
được thế hệ trẻ kế thừa và phát huy. Bên cạnh đó, những hạn chế của người nông dân như:
đầu óc tư hữu, nếp nghĩ và tư duy thiển cận, tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, cung cách làm
ăn tủn mủn, tùy tiện, thiếu tổ chức kỷ luật đã ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục thế giới
quan khoa học cho thế hệ ngày nay nói chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng.
Thực tiễn xã hội loài người đã chứng minh con người vừa là chủ thể của hoàn cảnh,
nhưng đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Mác đã viết:"Con người trong chừng mực mà
họ là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là kẻ đại biểu cho những quan hệ lợi ích giai cấp
nhất định" [19,tr.21]. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế
thị trường định hướng XHCN, thì tất cả những ưu và nhược điểm của nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường đã và đang tác động đến quá trình giáo dục thế giới
quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay. Có thể khẳng định rằng sự tác động
tích cực là chủ yếu, song sự tác động tiêu cực cũng không nhỏ.
Sự tác động tích cực được thể hiện như: góp phần phá vỡ tình trạng chia cắt, cục bộ,
manh mún, vốn là sản phẩm của nền kinh tế tự cung tự cấp gây ra. Đồng thời, khắc phục
được tình trạng thụ động, ỷ lại của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Điều kiện này đã tác
động quan trọng tới sự phát triển năng lực tư duy biện chứng của mỗi người đặc biệt là sinh



viên CĐSP Nam Định nói riêng. Bởi tư duy kinh nghiệm, siêu hình đã trở thành lực cản rất
lớn cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức
mới của sinh viên. Cơ chế thị trường có những đòi hỏi khắt khe về thị trường lao động, về
nguồn lực đó là những con người phải có trình độ học vấn cao, có năng lực chuyên môn vững
chắc, năng động sáng tạo trong các lĩnh vực lao động và cuộc sống. Những đòi hỏi khắt khe
của cơ chế thị trường đã và đang tác động đến sinh viên, đòi hỏi sinh viên khắc phục được
tính thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, lười học tập, lười nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, sinh viên
ngày nay đặc biệt là sinh viên sư phạm năng động hơn, thông minh hơn, dám tự khẳng định
mình, dám đương đầu với những khó khăn bước đầu trên con đường lập nghiệp, thôi thúc
sinh viên không chỉ coi trọng việc học tập, nghiên cứu những tri thức chuyên môn ngành
nghề, mà còn ham muốn được học tập nghiên cứu lý luận, tìm hiểu về đường lối, chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN, nền kinh tế của đất nước đã có những bước chuyển lớn. Đời sống vật chất của
nhân dân được cải thiện, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao, đời sống văn hóa có
những bước tiến bộ rõ rệt. Những thành tựu đó đã bước đầu tạo ra niềm tin của nhân dân nói
chung và sinh viên nói riêng về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, sinh
viên đã có niềm tin CNXH, họ gắn bó với lý tưởng cách mạng XHCN. Đa số sinh viên ngày
nay nêu cao tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Vì vậy, nó đã tạo ra điều
kiện để khắc phục những nhận thức lệch lạc, dao động, suy giảm niềm tin khi họ bị tác động
của mặt trái cơ chế thị trường và sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trong cơ chế mới hiện nay, việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác phát triển kinh tế,
văn hóa, khoa học kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới đã tạo điều kiện cho nhân dân trong
đó có sinh viên học hỏi, tiếp thu và kế thừa những tư tưởng tiến bộ, văn minh, những thành
tựu về khoa học, kỹ thuật và văn hóa của nhân loại và của thời đại. Điều này có ảnh hưởng
tích cực tới việc tiếp thu, lĩnh hội, nâng cao trí tuệ, hình thành và phát triển thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên cả nước nói chung.
Về tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực là chủ yếu thì cơ chế thị trường

cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường trong quá trình
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh
viên cả nước nói chung là:


(1) Trong cơ chế thị trường, do đề cao lợi ích cá nhân đã làm cho nhiều người và cả
sinh viên hiện nay nẩy sinh tư tưởng và lối sống thực dụng, sống vì tiền. Vì tiền và đề cao
nhu cầu vật chất quá mức nên có người đã bất chấp mọi giá trị đạo đức, văn hóa, kỷ cương,
nhằm đạt được lợi ích cá nhân.
(2) Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ đã xuất
hiện một số biểu hiện không lành mạnh như mê tín dị đoan phát triển, thị hiếu bắt chước
không lành mạnh, các tệ nạn xã hội phát triển; cũng như một số hoạt động về đời sống tâm
linh, tôn giáo được đề cao quá mức ở một bộ phận nhân dân.
Những hiện tượng tiêu cực đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của
nhân dân ta và nó sẽ gây trở ngại đối với việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên
CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên nói chung.
Như vậy là từ điều kiện kinh tế - xã hội đến văn hóa đã và đang tác động cả hai chiều
hướng tích cực và tiêu cực đối với quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên
CĐSP Nam Định hiện nay.
* Sự tác động của điều kiện quốc tế
Đứng trước tình hình thế giới đang có những biến đổi to lớn. Sự biến đổi đó đang tác
động đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Sự tác động đó có những mặt tích
cực và cả những mặt hạn chế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác
định "Những nét mới trong tình hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình
nước ta, trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội và thách thức lớn" [7, tr.14]. Một trong những
nguyên nhân quan trọng là do từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là do công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi sâu sắc,
nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử
có ý nghĩa đặc biệt. Lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh

tế tri thức. Nền văn minh của loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí
tuệ. Vì vậy, những nước phát triển hiện nay trên thế giới là những nước tư bản đã có một
tiềm lực mạnh để tiếp tục phát triển kinh tế tri thức... Kinh tế tri thức đã và đang tạo ra tốc độ
phát triển "chóng mặt"... Do đó, đời sống của người lao động được cải thiện. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế tri thức thì những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản cũng phát
triển gay gắt. Chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh lớn về chính sách xã hội. Do đó, nhờ


hệ thống thông tin mà mỗi chúng ta đều biết được đời sống vật chất và tinh thần của người
lao động được cải thiện, những chính sách như trợ cấp thất nghiệp, công nhân được mua cổ
phiếu, cổ phần... đã tạo ra một vỏ bọc, để mỗi người có thể hiểu rằng CNTB ngày nay dường
như nhân đạo hơn, dường như những thay đổi về chính sách xã hội đã điều chỉnh được mâu
thuẫn trong lòng xã hội tư bản. Vì vậy, chính hiện tượng này, nhân dân chúng ta, đặc biệt là
sinh viên sư phạm hiện nay nếu không được trang bị thế giới quan khoa học, không được
giáo dục đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước một cách khoa học sẽ dễ
dàng hiểu rằng chế độ TBCN là chế độ tiến bộ nhất trong lịch sử loài người, rằng CNXH đã
thuộc về quá khứ.
Bên cạnh đó, chúng ta phải nhận thấy trong kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên
quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế. Mà toàn cầu hóa kinh tế từ thực tiễn ngày nay nhiều
nhà khoa học về kinh tế và xã hội đã khái quát hóa và đưa ra nhận định giống nhau đó
là:"Toàn cầu hóa có tác động tích cực, tiêu cực, sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội,
trong mỗi quốc gia và trên thế giới". Trong Đại hội lần thứ 14 hiệp hội các hội đồng nghiên
cứu khoa học xã hội châu Á tổ chức tại Việt Nam, đồng chí Phạm Đức Thành - Viện Nghiên
cứu Đông Nam Á đã khẳng định:"Toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa
có đấu tranh" [35, tr.140].
Tất cả những tác động tích cực của toàn cầu hóa đó chính là tạo cơ hội lớn cho từng
quốc gia thu hút các nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, tiếp thu kinh nghiệm, tạo cơ hội mở
rộng thị trường. Toàn cầu hóa còn góp phần làm cho sự tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao.
Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hiện đại hóa của từng quốc gia. Đối với

Việt Nam, mặc dù chúng ta chưa chịu tác động trực tiếp của toàn cầu hóa như nhiều nước
trên thế giới, nhưng chính đường lối mở cửa hội nhập của nước ta được thực hiện trong bối
cảnh toàn cầu hóa nên mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa cũng tác động đến Việt
Nam. Đặc biệt là tác động của toàn cầu hóa đối với văn hóa - xã hội ở nước ta. Sự tác động
đó có cả mặt tích cực và tiêu cực diễn ra vô cùng phức tạp. Bởi vì ngày nay nước ta đang
trong nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Đó là một
nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, do đó làm cho tác động tiêu cực của toàn cầu hóa đối
với nước ta còn nguy hại hơn nhiều.


Chúng ta vốn đang sống trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, mọi
giá trị truyền thống được bảo tồn, giữ gìn nay bước vào kinh tế thị trường trong xu thế toàn
cầu hóa, mọi giá trị và các tiêu chuẩn văn hóa đang đứng trước nguy cơ bị đồng nhất với văn
hóa đại chúng, thế hệ trẻ Việt Nam dễ bị chuyển từ cực nọ sang cực kia, dễ rơi vào tâm lý
sùng ngoại, chạy theo thị hiếu văn hóa kiểu phương Tây. Đây là những giá trị xa lạ với dân
tộc ta, coi nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống. Họ dễ bị rơi vào những quan niệm sống tự
do cá nhân, cực đoan, thái độ vô trách nhiệm với gia đình và xã hội, dễ bị nhũng nhiễu bởi
hành vi bạo lực, dâm ô, trụy lạc, mê tín dị đoan lôi cuốn và những mặt tiêu cực trên không
thể không tác động đến sinh viên CĐSP Nam Định. Như vậy, nó sẽ gây cản trở không nhỏ
đến mục tiêu giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định, như Bác chỉ ra "giáo dục ra những con
người vừa hồng, vừa chuyên" đó là những con người có phẩm chất đạo đức chính trị và lối
sống tiến bộ, đó là những con người biết sống mình vì mọi người, đó là những con người gắn
bó thiết tha với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta đã lựa chọn, đó là những con người có trình độ chuyên môn tốt và có năng lực thực hành
thành thạo công việc của mình.
Cùng với điều kiện kinh tế - xã hội trên thế giới thì tình hình chính trị trên thế giới
cũng tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan khoa học. Sự tác động trực tiếp đáng kể
nhất đó chính là sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự phá hoại của
kẻ thù đối với CNXH thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình".
Các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô trước đây đã đạt được những thành tựu to

lớn trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự. Họ đã từng là chỗ dựa vững chắc
cho phong trào hòa bình và cách mạng trên thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt
nhân và góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Nhưng do họ duy trì quá lâu những khuyết điểm của mô hình CNXH cũ, đó là sự
chậm trễ trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là do sai lầm về
đường lối lãnh đạo. Vì vậy, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào cuộc khủng
hoảng trầm trọng, cả về kinh tế, chính trị, xã hội và kết cục là hệ thống XHCN đã tan rã. Từ
đó, phong trào cách mạng của các nước XHCN lâm vào thoái trào. Cục diện thế giới có sự
thay đổi mà thế mạnh nghiêng về CNĐQ. Tình hình này đã làm cho các nước XHCN còn lại
và các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới đã và đang đứng trước nhiều khó khăn
nghiêm trọng.


Tuy nhiên, trong thực tiễn cách mạng hiện nay, phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc
lập, dân tộc và tiến bộ xã hội vẫn tồn tại, lý tưởng XHCN vẫn không mất đi, CNĐQ vẫn
không thực hiện được âm mưu tiêu diệt hết các lực lượng XHCN. Nhưng dù sao, sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã và đang có những tác động tới phong trào
XHCN và phong trào công nhân ở các nước tư bản. Đối với nước ta, sự tác động đó diễn ra
trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, lý luận... Đặc biệt là thế hệ trẻ trước
những thay đổi lớn lao của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới cũng như trong
nước họ dễ bị dao động về thế giới quan, bởi vì thế giới quan của họ đang trong quá trình
hình thành và phát triển. Sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,
CNĐQ và các thế lực phản động quốc tế đã ra sức tấn công vào chế độ XHCN nhằm xóa bỏ
những nước XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một mục tiêu quan trọng của chúng để phá
hoại, từ đó đi đến thực hiện xóa bỏ hoàn toàn CNXH trên phạm vi thế giới.
Các thế lực thù địch đã đẩy mạnh chống phá thành quả cách mạng của Đảng và nhân
dân bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ. Kẻ thù đã chống phá
chúng ta trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với những âm mưu thủ đoạn ngày càng thâm
độc, xảo quyệt. Đây là một cuộc chiến không có biên giới, không có vũ khí song hậu quả lại
vô cùng nặng nề. Bởi lẽ, chúng tập trung chống phá ta về nền tảng tư tưởng và ý thức hệ,

nhằm chuyển hóa tư tưởng và ý thức hệ của nhân dân Việt Nam mà đầu tiên là cán bộ, đảng
viên, thanh niên, sinh viên. Đặc biệt là thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng, chúng tìm
mọi cách truyền bá văn hóa độc hại, gieo rắc lối sống tư sản, xa hoa, trụy lạc hòng làm xói
mòn bản sắc văn hóa Việt Nam, dưới những hình thức và phương pháp tinh vi xảo quyệt.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, sự biến động lớn của tình hình kinh tế - xã hội và chính trị
đang diễn ra trên thế giới đã và đang tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan khoa học
cho sinh viên nói chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng, đặc biệt là sự tác động tiêu
cực, nó chính là lực cản lớn nhất trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, lối sống cho
sinh viên hiện nay trong đó có việc giáo dục thế giới quan khoa học.
* Cùng với sự tác động của điều kiện trong nước và quốc tế, sinh viên CĐSP Nam
Định đã và đang chịu tác động trực tiếp của những điều kiện đặc thù của Nam Định.
Nam định là một tỉnh nằm ở đồng bằng Bắc Bộ ven biển, tiếp giáp với ba tỉnh, thành phố:
Thái Bình ở phía bắc, Ninh Bình ở phía nam, Hà Nam ở phía tây bắc, biển vịnh Bắc Bộ ở phía


đông, diện tích tự nhiên 1 637,4 km2, dân số khoảng 2 triệu người. Nam Định có 9 huyện, 1
thành phố thuộc tỉnh, 229 đơn vị hành chính cơ sở, trong đó: 195 xã, 20 phường, 14 thị trấn
Nam Định là một tỉnh có nền văn hiến lâu dài nổi tiếng là đất học, các huyện duyên hải
như: Hải Hậu, Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng là những bãi bồi được thành lập sau còn các huyện khác
và thành phố Nam Định đều có bề dày lịch sử rất phong phú. Cùng với kinh thành Thăng Long
nơi đây còn được mở trường thi. Đây cũng là nơi khởi nghiệp của dòng họ Trần, dòng họ đã làm
nên một triều đại rực rỡ trong lịch sử đấu trang dựng nước và giữ nước của dân tộc với ba lần
chiến thắng quân Nguyên Mông. Đây cũng là nơi có nhiều danh nhân được sinh ra và lớn lên là
quê hương của những vị trạng nổi tiếng như Lương Thế Vinh, Nguyễn Hiền, Đào Sư Tích...
Tại Nam Định hàng năm có một số lễ hội lớn, như hội chợ Viềng ngày 8 tháng 1 âm lịch,
lễ hội đề Trần tháng 8 âm lịch, lễ hội phủ Giầy tháng 3 âm lịch (tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ)
thu hút đông đảo nhân dân từ nhiều miền đất nước đến tham quan.
Ngoài ra, Nam Định còn có hai bãi tắm Quất Lâm và Thịnh Long, có khu bảo tồn thiên
nhiên Vườn quốc gia Xuân Thuỷ - khu rừng ngập mặn, nơi di trú của nhiều loài chim quý trong
sách đỏ, đây là những địa điểm du lịch mang lại lợi thế cho địa phương. Nhưng đây cũng là nơi

dễ gây mất ổn định về trật tự an ninh và các tệ nạn xã hội (như mại dâm, ma tuý) đòi hỏi phải
được sự quan tâm của các cấp chính quyền.
Nắm bắt kịp thời tình hình, tỉnh Nam Định đã có sự điều chỉnh thích hợp để tiếp tục thu
hút các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch (khu du lịch, điểm du lịch). Nâng cao
chất lượng các dịch vụ du lịch, bảo đảm an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, nhất là các khu du
lịch: Văn hoá Trần, khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh, phủ Giày, vườn quốc gia Xuân
Thuỷ, Quất Lâm, Thịnh Long. Phối hợp với các hiệp hội du lịch, các doanh nghiệp du lịch để kết
nối các điểm du lịch của tỉnh vào các tour du lịch trong nước và quốc tế. Tăng cường hợp tác,
xúc tiến quảng bá du lịch.
Ngành giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định cũng có vị trí cao trong giáo dục đào tạo của cả
nước, Nam Định hiện có 4 trường đại học, 5 trường cao đẳng và một số trường trung cấp dạy
nghề, là nơi đào tạo nguồn nhân lực phong phú cho địa phương và cả nước.
Tỉnh Nam Định ở vị trí đồng bằng nam sông Hồng, nơi ngã ba giao thông thuận tiện với
Ninh Bình, Hà Nội, Thái Bình, Hải Phòng. Đường giao thông trong tỉnh có cả đường bộ, đường
thuỷ, đường biển và đường sắt.


Hiện nay khoảng 74% dân số Nam Định sinh sống bằng làm nông nghiệp (bao gồm cả
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp), là tỉnh có bình quân thu nhập đầu người trong năm thấp
so với trung bình chung cả nước.
Tuy nhiên, hiện nay ở Nam Định nghề phụ cũng rất phát triển. Các nghề tiểu thủ công
nghiệp như mây tre đan xuất khẩu, thêu, gò hàn; làng nghề đúc đồng ở Ý Yên, trạm khắc gỗ La
Xuyên, Vùng trồng hoa cây cảnh ở Nam Điền nổi tiếng trong cả nước không chỉ mang lại giá trị
kinh tế cao mà còn tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động trên địa bàn.
Ngoài ra các khu công nghiệp của Nam Định cũng thu hút nhiều nhà đầu tư, tạo việc làm
cho nhân dân địa phương.
Nam Định không phải là tỉnh miền núi song dân số trong tỉnh vẫn đa dân tộc (Kinh,
Mường, Hoa).
Nhiều địa phương trong tỉnh có tỷ lệ dân số theo đạo Thiên chúa cao (như huyện Hải
Hậu, huyện Xuân Trường, huyện Giao Thuỷ, huyện Nghĩa Hưng, huyện Trực Ninh, huyện Nam

trực... trong đó huyện Hải Hậu có khoảng 40% dân số theo đạo). Một số người lợi dụng phật giáo,
giả là sư sãi đi lừa đảo tiền của nhân dân; hiện tượng đi tìm mộ của các nhà ngoại cảm trên địa bàn
tỉnh; hiện tượng một số cán bộ cơ sở theo Thiên chúa giáo lợi dụng, lôi kéo giáo dân cản trở, chống
lại chính quyền, các chính sách của nhà nước... Đặc biệt, hiện nay một số vấn đề mà người dân đang
quan tâm và đặt ra câu hỏi liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vì sao tốc độ phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với Nam Định còn chậm chạp, còn là khoảng cách xa so với các tỉnh cùng
thời điểm chia tách hay so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng. Điều này có ảnh hưởng
nhất định trong việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên.
Số sinh viên theo đạo Thiên chúa ở trường CĐSP Nam Định chiếm một tỷ lệ tương đối
cao khoảng 12% (xem phụ lục 1).
Chịu ảnh hưởng bởi những biến động to lớn của thời đại và đất nước, Phật giáo tỉnh Nam
Định ngày nay đang có xu hướng hồi sinh trở lại với những diễn biến phức tạp. Số lượng tăng ni,
phật tử, chùa chiền, lễ hội ngày càng tăng.
Cùng với nó là sự tăng lên của số lượng người đi chùa, đặc biệt là tầng lớp thanh niên,
sinh viên và trí thức. Cụ thể là:
Bảng 1.1 Tần suất đi lễ chùa (chùa Cả - Nam Định)


Nhóm tuổi
Tần suất đi lễ

Từ 20 - 39

Từ 40 - 60

1- 2 lần/ tháng

53,7%

33,0%


Khi có thời gian

21,5%

25,2%

Vài lần/năm

12,1%

15,3%

Khi có người rủ

12,5%

15,7%

Nguyễn Thị Toan (2006), "Quan niệm về giải thoát trong Phật giáo và ảnh hưởng của nó
đối với đời sống Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bảng 1.2 Tần suất đi lễ chùa của ngƣời Nam Định
Nhóm tuổi
Tần suất đi lễ

Từ 20 - 39

Từ 40 - 60

1 - 2 lần/ tháng


51,1%

34,2%

Khi có thời gian

21,8%

21,1%

Vài lần/ năm

16,5%

43,2%

Khi có người rủ

6,0%

2,6%

Nguyễn Thị Toan (2006), "Quan niệm về giải thoát trong Phật giáo và ảnh hưởng của nó
đối với đời sống Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bảng 1.3 Tần suất đi chùa của ngƣời Nam Định
Đối tượng
Tần suất đi lễ

Sinh viên


Giáo viên

Các tầng lớp khác

1- 2 lần/tháng

26,8%

22,5%

27,7%

Khi có thời gian

28,5%

27,1%

23,2%

Vài lần/năm

15,2%

20,4%

30,1%

Khi có người rủ


27,8%

12,1%

15,2%

Nguyễn Thị Toan (2006), "Quan niệm về giải thoát trong Phật giáo và ảnh hưởng của nó
đối với đời sống Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tình hình phát triển của tôn giáo theo những con số thống kê trên là cơ sở để chúng tôi đi
tới kết luận là: Ảnh hưởng của tôn giáo tới đời sống người Nam Định hiện nay là còn tương đối
lớn.


Về tình hình chính trị ở Nam Định hiện nay tương đối ổn định. Vài năm trước, tình hình
an ninh nông thôn của tỉnh Nam Định khá phức tạp (như vấn đề tôn giáo ở huyện Giao Thuỷ).
Hàng loạt vụ bán đất công để xây dựng cơ bản và chia chác trong đội ngũ cán bộ dẫn đến việc
kiện cáo kéo dài, kiện cáo vượt cấp... dẫn đến mất trật tự an ninh địa phương, trở thành một trong
những điểm nóng của cả nước.
Khi khảo sát về khuynh hướng nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước kết quả cho thấy chưa cao
(xem phụ lục 2).
Về giác ngộ lý tưởng cách mạng và mức độ tham gia các hoạt động chính trị của sinh
viên thì phần lớn sinh viên không quan tâm nhiều đến các vấn đề chính trị (xem phụ lục 3).
Đến nay vấn đề an ninh nông thôn ở tỉnh Nam Định đã được giải quyết. Tại các xã,
phường, thị trấn trong tỉnh đều có trụ sở làm việc khang trang, các cơ sở hạ tầng địa phương như
các công trình phúc lợi: điện, đường, trường, trạm đều đầy đủ, tiện lợi.
Những vấn đề liên quan đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở tỉnh Nam Định cũng tác
động nhiều đến việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP. Những đặc điểm đó
vừa tạo ra thuận lợi, vừa tạo ra những khó khăn. Chẳng hạn, những sinh viên là đồng bào theo

đạo Thiên chúa thì việc giáo dục thế giới quan khoa học như thế nào? buổi sáng các em là những
sinh viên của nhà trường sư phạm, nhưng buổi chiều các em là các đồng bào theo đạo Thiên
chúa? một bên là thế giới quan khoa học do các thầy giáo, cô giáo truyền thụ ở trong nhà trường
– nó là cái rất mới mẻ với các em, một bên là thế giới quan tôn giáo – nó là cái đã có trong con
người các em ngay từ khi còn ấu thơ. Vậy chúng ta phải có cách nào giải quyết cho thích hợp
giúp các em có cái nhìn đúng đắn về thời đại ngày ngày nay nói chung, về bản thân mỗi con
người nói riêng.
Bên cạnh trường học là các tháp nhà thờ ngày nào cũng vang lên tiếng chuông hay bên
cạnh đó là các nhà chùa với với hai ngày lễ trong tháng lúc nào cũng khói hương nghi hút với
tiếng chuông chùa. Các em sẽ nghĩ sao khi trong số các người thân của mình sống bằng nghề bói
toán, thậm chí có những em được đi học là nhờ có sự cung cấp của những đồng tiền đó, trong khi
ở nhà trường các thầy giáo, cô giáo lại nói ngược lại. Đây là mâu thuẫn giữa lý luận với thực tiễn
cuộc sống mà cần phải giải quyết.
Tóm lại, những đặc điểm về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Nam Định có ảnh
hưởng không nhỏ tới việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định.


1.1.2 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sinh viên CĐSP Nam Định
1.1.2.1 Sinh viên - một bộ phận quan trọng trong thanh niên
Sinh viên là một bộ phận của tuổi trẻ đang học tập trong các trường đại học và cao đẳng.
Để trở thành sinh viên họ phải vượt qua kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông (hoặc tốt nghiệp
trung học chuyên nghiệp) và kỳ thi tuyển sinh đại học và cao đẳng nên họ thường ở độ tuổi 18 –
25 [12, tr.27].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ VII có
nêu "Thanh niên được tính từ 15 - 35 tuổi, chiếm 35,6% dân số cả nước và trên 50% lực lượng
lao động xã hội" [5, tr.16]. Như vậy, sinh viên nằm trong lứa tuổi thanh niên, là một bộ phận của
thanh niên và cũng có những đặc điểm chung với thanh niên. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp
khác nhau, giai cấp khác nhau, môi trường xã hội khác nhau. Tuy khác nhau về xuất thân, về
nghề nghiệp, về môi trường sống nhưng họ đều có đặc điểm tâm sinh lý, tư tưởng và nhu cầu
giống nhau, họ là lực lượng quyết định sự tồn tại và phát triển của đất nước. Bởi vì, sinh viên là

đội ngũ trí thức trong tương lai, là lực lượng trẻ có học thức, họ là những người nhảy cảm với cái
mới, năng động và sáng tạo, là chủ nhân tương lai của đất nước.
Sinh viên là một tầng lớp xã hội được gia đình, nhà trường và xã hội hết sức quan tâm.
Bởi lẽ, ngay từ khi đất nước còn chiến tranh, sinh viên Việt Nam đã từng gắn bó và có những
đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc ta. Ngày nay, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước, sinh viên Việt Nam nói chung sinh viên trường
CĐSP Nam Định nói riêng có vai trò hết sức to lớn. Tại Đại hội sinh viên toàn quốc lần thức V,
nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định:
"Sự nghiệp đổi mới của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay không thành
công, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không,
chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò
hết sức quan trọng".
Chính vì thế, hơn bao giờ hết trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiện nay, đòi hỏi sinh viên Việt Nam phải nâng cao khả năng nắm bắt tri thức khoa học cơ bản,
khoa học chuyên ngành để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới của đất nước, những đòi hỏi
khắt khe của thị trường sức lao động thời kỳ phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay
cũng như đòi hỏi của thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Điều đó cũng đòi hỏi sinh viên
phải được giáo dục và rèn luyện để trở thành những con người có phẩm chất chính trị, đạo đức


lối sống tiến bộ, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Để hội tụ được đầy đủ những phẩm
chất trên đây, thì điều quan trọng là sinh viên phải được trang bị một cách đầy đủ toàn diện thế
giới quan khoa học.
Để làm được điều trên có nhiều con đường, trong đó chủ yếu là thông qua quá trình giảng
dạy các môn Lý luận chính chính trị cho sinh viên. Giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh
viên hiện nay là một trong những công việc quan trọng nhất của công tác giáo dục lý luận trong
các trường đại học, cao đẳng. Nói về tầm quan trọng của thế giới quan, đặc biệt là thế giới quan
khoa học đối với người cộng sản, V.I.Lênin viết:
"Người nào bắt tay giải quyết những vấn đề riêng, trước khi bắt tay giải quyết những vấn
đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi vấp phải những vấn đề chung một

cách không tự giác mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có
nghĩa đưa chính sách của mình đến chỗ có những giao động tồi tệ nhất và mất tính nguyên tắc"
[15, tr.437].
Như vậy, trước khi con người hoạt động thực tiễn thì phải có định hướng đúng đắn nếu
không có sự định hướng thì hoạt động của họ là mò mẫm dễ dẫn đến thất bại. Vì Vậy, giáo dục
thế giới quan khoa học cho sinh viên hiện nay có vai trò hết sức quan trọng và cần thiết.
1.1.2.2 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sinh viên CĐSP Nam Định
- Góp phần rèn luyện phương pháp tư duy khoa học nhằm khắc phục những quan điểm
duy tâm, phương pháp siêu hình
Giáo dục thế giới quan khoa học có vai trò to lớn trong việc hình thành phát triển tư duy
lý luận cho sinh viên CĐSP Nam Định. Từ hoàn cảnh thực tiễn của đất nước, xuất phát từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, do đó đa số cán bộ,
đảng viên và nhân dân tỉnh Nam Định còn mang nặng tư duy kinh nghiệm. Bên cạnh đó, lại thu
được thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nên dễ rơi vào tư tưởng chủ
quan duy ý chí. Hai căn bệnh cố hữu này đang trở thành lực cản to lớn đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Những căn bệnh này đã và đang tác động trực
tiếp đến thế hệ trẻ nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng. Nó cũng là lực cản lớn cho công tác
giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Hiện nay sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và thế hệ trẻ nói
chung đang đứng trước một thực tế là có sự giao động về thế giới quan. Thế giới quan duy tâm
với phương pháp tư duy siêu hình đang hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của họ. Thế giới
quan khoa học đang được giáo dục cho sinh viên thông qua hệ thống nội dung chương trình


nhưng thực tiễn của đất nước có sự thay đổi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, hơn
nữa thế giới lại có sự biến động to lớn, đó là CNXH lâm vào thoái trào, CNTB đang vẫn còn thể
hiện sức sống của nó về tiềm lực kinh tế và quân sự. Các nhà tư bản lại có những điều chỉnh mới
về chính sách... Tất cả thực tiễn đó đang đặt cho sinh viên sự lựa chọn định hướng cho tương lai
của mình. Do đó, giáo dục thế giới quan khoa học nhằm nâng cao năng lực lý luận cho sinh viên
giúp họ có khả năng giải thích những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống một cách khách quan
và khoa học. Hiểu được tính khoa học và cách mạng của lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, hiểu

được đường lối, chính sách của Đảng ta là đúng đắn, họ sẽ có khả năng khắc phục được những
sai lầm trong nhận thức, chống lại những tư tưởng phản khoa học và phản cách mạng, chống lại
thế giới quan duy tâm siêu hình.
Như vậy, giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay để họ
có cách nhìn nhận đúng đắn khoa học về hiện thực, hình thành ở họ một phương pháp luận khoa
học để giúp họ tránh khỏi những vấp vác, sai lầm trong cả suy nghĩa và hành động. V.I.Lênin đã
chỉ rõ:
"Không có một cơ sở triết học vững vàng thì tuyệt nhiên không có khoa học tự nhiên nào
hay chủ nghĩa duy vật nào có thể tiến hành đấu tranh chống được sự lấn bước của những tư
tưởng tư sản và sự phục hồi thế giới quan tư sản. Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy và
đưa nó đến thành công hoàn toàn, nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại... phải
là một nhà duy vật biện chứng" [16, tr.30].
- Góp phần xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh cho sinh viên
Giáo dục đạo đức cho sinh viên ngày nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác
giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, bởi vì nó là cơ sở nền tảng hình thành con
người mới XHCN vừa có „„đức‟‟ vừa có „„tài‟‟, những con người như vậy mới gánh vác được
trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Trong khi ấy thì một
thực tế đang diễn ra trong một bộ phận sinh viên, như nhận định của TS. Hoàng Trang - Trường
Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đó là: "những tiêu cực do cơ chế thị trường nảy sinh
đang lan vào các trường đại học, cao đẳng đã ảnh hưởng không tốt tới các hoạt động của nhà
trường, làm giảm sút chất lượng học tập và đạo đức, lối sống trong một bộ phận sinh viên...
nguy hại hơn nữa là sự xói mòn, xuống cấp đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay" [31, tr.154].


×