Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu hiện trạng đất trống đồi núi trọc tại huyện lạc sơn tỉnh hòa bình và đề xuất giải pháp phủ xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------

TRỊNH THỊ TRANG NHUNG

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG ĐẤT TRỐNG ĐỒI NÚI TRỌC
TẠI HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHỦ XANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------

TRỊNH THỊ TRANG NHUNG

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG ĐẤT TRỐNG ĐỒI NÚI TRỌC
TẠI HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHỦ XANH


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG
MÃ SỐ: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐỒNG TẤN

HÀ NỘI - 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hệ sinh thái rừng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc bảo vệ môi
trường sống và nền kinh tế quốc dân ở nhiều quốc gia. Giữ đất, giữ nước, điều
hoà khí hậu, phòng chống ô nhiễm và thiên tai là những tác dụng chính của
rừng. Vì vậy, cho đến nay nhiều nước trên thế giới đã coi tác dụng bảo vệ môi
trường của rừng lớn hơn nhiều so với giá trị kinh tế của nó.
Tuy nhiên sức ép về kinh tế và dân số đã và đang dẫn đến việc sử dụng
quá mức tài nguyên rừng ở các nước đang phát triển, đặc biệt là nạn chặt phá
rừng bừa bãi. Tình hình đó làm cho nguồn tài nguyên có thể tái tạo được như
rừng và đất rừng bị cạn kiệt nhanh chóng, môi trường rừng nói riêng và môi
trường sống nói chung bị suy thoái nghiêm trọng. Thảm thực vật rừng thoái
hoá kéo theo quá trình suy thoái của đất do xói mòn, rửa trôi. Đất rừng ở nhều
nơi bị hoang hóa trở thành những vùng đất trống đồi trọc, giảm sức sản xuất
của đất.
Thực tế cho thấy, ở nhiều vùng đất trống trọc rộng lớn ở vùng nhiệt
đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh hiện nay đều có nguồn gốc từ rừng
do các hoạt động khai thác và sử dụng quá mức của con người tạo nên. Trên

những vùng đất đó, tiềm năng sẳn xuất đều giảm, năng suất cây trồng không
cao, chức năng bảo vệ đất, bảo vệ môi trường cũng bị suy giảm. Các nhà khoa
học đã nhận định mất rừng dẫn đến trọc hoá đất đai là nguyên nhân chính gây
ra các thảm họa như thiên tai, bão lụt và hạn hán.
Theo số liệu thống kê của Cục Kiểm lâm, tính đến đến ngày
31/12/2008 diện tích rừng trên toàn quốc là 13,12 triệu ha, đạt độ che phủ
38,7%; tổng diện tích đất trống đồi núi trọc khoảng hơn 5 triệu ha chiếm
13,01% diện tích đất tự nhiên và chiếm 35,1% diện tích đất có rừng (Quyết
định 1267/QĐ-BNN-KL ngày 04/5/2009 về việc công bố hiện trạng rừng toàn
quốc năm 2008). Ngoài diện tích đất trống đồi núi trọc đã quy hoạch cho lâm


2

nghiệp còn có một số diện tích đất trống trọc đang được sử dụng trong nông
nghiệp chưa được thống kê một cách cụ thể. Phần lớn diện tích đất trống trọc
phát sinh từ các hệ sinh thái rừng đã bị thoái hoá ở các mức độ khác nhau
nhưng vẫn còn tiềm năng cho sản xuất và phủ xanh. Vấn đề đặt ra là thực hiện
như thế nào để phát huy hiệu quả và tiềm năng vốn có của chúng. Nghĩa là
cần có những đánh giá chính xác hiện trạng, nhu cầu và điều kiện kinh tế của
từng địa phương để từ đó xác định chiến lược phủ xanh đúng đắn.
Huyện Lạc Sơn của tỉnh Hoà Bình là một huyện miền núi có tỷ lệ diện
tích đất trống trọc khá cao so với diện tích đất tự nhiên. Điều này có ảnh
hưởng đến chức năng phòng hộ, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường và
phòng tránh thiên tai. Để góp phần khắc phục những tồn tại nói trên, chúng
tôi đề xuất thực hiện đề tài đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng đất trống đồi núi trọc
tại huyện Lạc Sơn tỉnh Hoà Bình và đề xuất giải pháp phủ xanh” nhằm mục đích
đánh giá hiện trạng, tiềm năng đất trống đồi núi trọc và đề xuất giải pháp phủ
xanh hợp lý.



3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
Trong những năm gần đây, diện tích rừng của Việt Nam và các nước
đang phát triển đang bị suy giảm nhanh chóng. Theo tài liệu của Đại hội Lâm
nghiệp diễn ra vào tháng 10 năm 1997 tại Thổ Nhĩ Kỳ, tổ chức Nông lương
thế giới FAO đã thống kê được sự suy giảm diện tích rừng trong những năm
vừa qua là hết sức nghiêm trọng. Theo thống kê, trong giai đoạn 1990 - 1995,
khi Châu Âu và khu vực Bắc Mỹ trồng được 8,50 triệu ha rừng, thì các châu lục
khác bị mất đến 64,90 triệu ha rừng. Nguyên nhân của tình trạng suy giảm diện
tích rừng có nhiều nhưng nguyên nhân trực tiếp vẫn là tình trạng phá rừng để
phát triển sản xuất nông nghiệp theo phương thức quảng canh của các cộng
đồng dân cư tại các nước đang phát triển mà điển hình là hình thức canh tác
nương rẫy, trong đó có Việt Nam. Các nhà khoa học ước tính có khoảng từ
250 đến 300 triệu người trên thế giới đang sống bằng hình thức canh tác nương
rẫy và tác động đến gần một nửa diện tích đất của vùng nhiệt đới. Trong đó, riêng
vùng Châu Á Thái Bình Dương đã có hơn 30 triệu người sống phụ thuộc vào hệ
canh tác nương rẫy trên diện tích khoảng 75 triệu ha (Srivastava, 1986). Như vậy,
đói nghèo và tình trạng phá rừng diễn ra song hành với nhau như “hai chân đi
về một hướng” [20].
Canh tác nương rẫy là một dạng sử dụng đất, có lịch sử lâu đời và tỏ ra
phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng nhiệt đới. Trong hệ thống canh tác
nương rẫy truyền thống chỉ có từ 5% đến 10% diện tích đất được sử dụng
theo đúng nghĩa, còn lại bị bỏ hoang hoá để tự phục hồi gọi là thời kỳ hưu
canh (Fallow). Canh tác nương rẫy xét ở góc độ nào đó thì có thể coi là một
phương thức sử dụng đất bền vững trong điều kiện mật độ dân cư thưa. Người

ta ước tính có khoảng 2,8 triệu ha đất đang hoặc đã qua canh tác nương rẫy,


4

hàng năm có khoảng 30 nghìn ha rừng nguyên sinh bị chặt hạ để làm nương
rẫy, vì vậy vô hình đã biến những diện tích rừng nguyên sinh thành những
vùng đất trống đồi núi trọc chỉ sau một vài chu kỳ canh tác [20].
Canh tác nương rẫy đã gây ra tình trạng xói mòn, thoái hoá đất do vậy
để phục hồi lại những vùng đất bị xói mòn, thoái hoá, đã có nhiều nhà khoa
học quan tâm và nghiên cứu.
1.2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
Trong thời gian gần đây với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, những
nghiên cứu nhằm phục hồi, phát triển đất trống đồi núi trọc đã và đang được
thực hiện tại nhiều nước trên thế giới. Các chương trình đã thực hiện chủ yếu
dựa vào nguồn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.
Trung tâm nghiên cứu Quốc tế về nông lâm nghiệp (ICRAF) trong báo
cáo hàng năm cho biết, trong giai đoạn 1996 – 1998 đã nghiên cứu phủ xanh
đất trống đồi trọc bằng nhiều giải pháp khác nhau. Có thể nêu một sô mô hình
đã thực hiện như sau:
Tại châu Phi: gồm các nước Zambia, Tanzania, Zimbabwe. Các mô
hình đã thực hiện [18]:
- Mô hình thảm cỏ luân phiên (Rotation wooslost) nhằm phủ xanh đất
trong thời kỳ bỏ hoá. Trong mô hình này, người ta đã dùng cây Điển
(Sesbania sesban) một loài cây thuộc họ Đậu trồng để phủ xanh đất trong thời
kỳ bỏ hoang. Sau 2 -3 năm có thể khai thác làm củi. phần còn lại đốt hoặc để
mục để tăng thêm chất mùn và chất dinh dưỡng cho đất.
- Mô hình trồng cây gỗ + cây ăn quả đa tầng (Multi-strata). Trong mô
hình này, các loài cây trồng chủ yếu là cây bản địa sẽ tạo ra một hệ thống
trồng trọt bền vững có nhiều sản phẩm và tăng thu nhập.



5

- Mô hình chăn nuôi lâm sinh bằng việc tạo ra thảm cỏ chăn nuôi dưới
tán rừng thứ sinh.
Tại châu Mỹ Latinh gồm các nước: Brazil, Peru, Mexico. Các mô hình
đã được xây dựng đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn lương thực và phủ
xanh đất trống trọc. Những mô hình đã thực hiện gồm:
- Mô hình trồng trọt cải tạo vườn nhà (Homegarden)
Mô hình nông lâm kết hợp đa tầng, nhiều sản phẩm (Multitistrata),
trồng cây ăn quả với cây lấy gỗ theo mô hình đa loài nhiều tầng.
Kỹ thuật sử dụng đất bền vững:
Kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT) là hệ thống canh tác
nhằm sử dụng đất dốc bền vững đã được trung tâm đời sống nông thôn
Bapstit Mindanao Philipin tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ những năm
1970 đến nay. Cho đến năm 1992 đã có 4 loại mô hình tổng hợp về kỹ thuật
canh tác nông nghiệp đất dốc bền vững đã được ghi nhận ứng dụng [22] là:
Mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT1) - với cơ cấu
cây trồng được sử dụng để bảo đảm được sự ổn định và có hiệu quả nhất là
75% cây nông nghiệp và 25% cây lâm nghiệp. Trong cây nông nghiệp thì
50% là cây hàng năm và 25% cây lâu năm.
- Mô hình kỹ thuật canh tác nông súc kết hợp đơn giản (SALT2) - cơ cấu
sử dụng đất thích hợp ở đây là 40% dành cho nông nghiệp, 20% cho lâm
nghiệp, 20% cho chăn nuôi.
- Mô hình kỹ thuật canh tác NLKH bền vững (SALT3) - với cơ cấu sử
dụng đất thích hợp ở đây là 40% nông nghiệp, 60% lâm nghiệp (mô hình đòi hỏi
đầu tư cao).



6

- Mô hình kỹ thuật SXNLN với cây ăn quả kết hợp quy mô nhỏ (SALT4)
- cơ cấu sử dụng đất thích hợp là 60% lâm nghiệp, 15% nông nghiệp, 25%
cây ăn quả (mô hình này đòi hỏi đầu tư cao).
Các mô hình trên đã được nông dân chấp nhận và cũng đã và đang được
kiểm nghiệm ở nhiều nước Đông Nam Á.
Tại châu Á gồm các nước: Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. Các mô
hình đã thực hiện là:
- Nghiên cứu sử dụng tri thức bản địa trong canh tác phủ xanh kết hợp
bảo vệ đất và tăng thu nhập cho hệ nương rẫy.
- Mô hình nông lâm kết hợp để cải tạo thảm cỏ tranh (Imperata
cylindrinca).
- Mô hình trồng cây họ đậu trên đỉnh đồi để chống xói mòn.
- Mô hình sử dụng độ tàn che của cây họ đậu để kiểm soát cỏ dại.
Những nghiên cứu khác cũng đã được thực hiện: phương pháp xây
dựng mô hình nông lâm kết hợp (CH.Trachummok, 1982; L.Roche, 1982),
đào tạo và huấn luyện kỹ năng xây dựng mô hình nông lâm kết hợp để phủ
xanh đất trống đồi núi trọc (R.F.Fisher, 1991).[18]
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Trong những năm gần đây, tình hình phát triển Lâm nghiệp ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nhìn tổng
thể thì quá trình phát triển vẫn còn tương đối chậm, diện tích đất trống đồi núi
trọc, đất không được sử dụng có hiệu quả và hợp lý vẫn không ngừng đã gia
tăng. Trong những năm qua, các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý có
những công trình nghiên cứu và đưa ra các chính sách để phục hồi phát triển và
đưa những diện tích đất trống đồi núi trọc vào sản xuất nhằm phát triển kinh tế
cũng như giải quyết vấn đề nông thôn miền núi.



7

Công cuộc phủ xanh đất trống đồi núi trọc ở nước ta đã được thực hiện
từ những năm 1960. Đến năm 1980 thực sự trở thành vấn đề cấp bách. Điều
đó được thể hiện qua nhiều chương trình, dự án đã và đang thực hiện:
- Dự án PAM - phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
- Chương trình 327 - trồng rừng phòng hộ.
- Dự án trồng rừng trên đất cát ven biển Nam Trung Bộ Việt Nam
(PACSA).
- Dự án trồng rừng phòng hộ đầu nguồn JBIC tại 5 tỉnh miền trung.
- Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng do Quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ 2 Quốc hội khoá X ngày 29/7/1997.
- Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước “phủ xanh đất trống đồi núi
trọc ” mã số 04A (1986 - 1990) do Bộ Lâm nghiệp chủ trì.
- Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước “Khôi phục rừng và phát triển
lâm nghiệp” mã số KN03, Bộ Lâm nghiệp chủ trì.
Theo hướng nghiên cứu này, Trung tâm Khoa học tự nhiên nay là Viện
nghiên cứu khoa học và công nghệ Việt Nam cũng đã đầu tư một số đề tài
nghiên cứu như:
- Nghiên cứu xây dựng mô hình phủ xanh đất trống đồi trọc miền núi
Nghệ An (1993 - 1997), GS.TSKH Trần Đình Lý làm chủ nhiệm.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và xây dựng mô hình phủ xanh đất trống
đồi núi trọc ở Bắc Trung Bộ (1997 -1999), GS.TS Trần Đình Lý làm chủ
nhiệm.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và xây dựng mô hình cải tạo, sử dụng hợp
lý hệ sinh thái vùng cát huyện Gio Linh, Quảng Trị (2001 - 2003), GS.TSKH
Trần Đình Lý làm chủ nhiệm đề tài.
Ngoài các chương trình trên, còn có nhiều đề tài cấp cơ sở thuộc các
viện nghiên cứu chuyên ngành như: Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam,



8

Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Viện Sinh thái và tài nguyên
sinh vật Việt Nam đã và đang được thực hiện.
1.2. Xu hướng nghiên cứu phủ xanh đất trống đồi núi trọc
1.2.1. Khái niệm và phân loại đất trống đồi núi trọc
Trong nhiều tài liệu của nước ta hiện nay, đề cập đến ĐTĐNT thì vấn
đề cải tạo, sử dụng hợp lý chúng để đảm bảo sự phát triển bền vững đã trở
thành vấn đề rất được quan tâm. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có tài liệu nào
trình bày rõ nghĩa và chính xác khái niệm này. Vì hiểu khái niệm ĐTĐNT
khác nhau dựa trên những tiêu chuẩn không giống nhau nên cách đánh giá về
số liệu diện tích ĐTĐNT đưa ra không thống nhất. Ví dụ, Bộ Lâm nghiệp (cũ)
và Tổng cục thống kê đưa ra số liệu diện tích ĐTĐNT của cả nước năm 1993
là 11 triệu ha, cũng trong thời gian đó các địa phương cũng đưa ra số liệu về
ĐTĐNT của địa phương mình nhưng khi tổng hợp thì các số liệu đó không
khớp nhau ở cả hai phía. Trong năm 2005 một số tài liệu cho rằng diện tích
ĐTĐNT của Việt Nam là 9,5 triệu ha, một số tài liệu khác nhau lại đưa số liệu
khoảng 11 triệu ha. Sở dĩ có sự sai khác đó là vì không thống nhất về khái
niệm nên việc xác định đối tượng và mức độ tác động để phủ xanh trên các
đối tượng đó cũng khác nhau, mức chi phí và cách thực hiện cũng khác nhau
[26].
Đất trống đồi núi trọc (Denuded hills and waste lands) là đất còn bị
hoang hoá hiện chưa có rừng hoặc chưa có thảm thực bì có giá trị sử dụng
nhất định che phủ hoặc chưa được sử dụng vào canh tác nông lâm nghiệp hay
các mục đích khác [Thuật ngữ lâm nghiệp, nhà xuất bản nông nghiệp 1996].
Có quan niệm cho rằng ĐTĐNT là những vùng đất trống không có cây
mọc. Với quan niệm này thì diện tích ĐTĐNT rất ít, nhất là ở những vùng
nhiệt đới, nơi có mưa nhiều, độ ẩm cao thì những vùng đất không có cây mọc
chỉ là sa mạc, đồi cát. Các bãi biển, đất trơ sỏi đá do xói mòn rửa trôi quá

mạnh hoặc một số dải đất mới bồi tụ.


9

Một số quan niệm thì cho rằng ĐTĐNT là những vùng đất không có
rừng và cũng không có cây trồng nông nghiệp, cây công nghiệp, chỉ có thảm
cỏ cây bụi tự nhiên, thảm cỏ tự nhiên hoặc đất hoang hoá và các núi đá trơ
trọi không có cây mọc. Theo quan niệm này loại bỏ các thảm cây trồng nông
nghiệp, cây trồng công nghiệp và đồng cỏ đã bị suy thoái, năng suất thấp chưa
được cải tạo ra khỏi khái niệm ĐTĐNT.
Trong thống kê lâm nghiệp người ta đã xếp tất cả các trạng thái IA (cỏ,
lau lách), IB (cây bụi, gỗ, tre rải rác), IC (nhiều cây gỗ tái sinh), núi đá không
cây và các bãi cát, lầy, đất bị xâm hại vào nhóm đất trống trọc (Diện tích rừng
và đất rừng chưa sử dụng cho quy hoạch lâm nghiệp năm 2004, Bộ
NN&PTNT, 2005).
Dưới góc độ lâm nghiệp Trần Đình Lý (2003) lại quan niệm ĐTĐNT
là những vùng đất lâm nghiệp nhưng chưa có rừng hoặc rừng đã bị mất do tàn
phá. Nói cách khác là vùng đất lâm nghiệp mà ở đó chưa có hoặc không còn
thảm thực vật mà cây gỗ là chủ yếu, có độ che phủ của cây gỗ hiện có dưới
0,3 và cây có chiều cao 3-5m trở lên chiếm ưu thế. Ở đây cũng cần nhấn
mạnh rằng, rừng không phải chỉ là cây lâm nghiệp mà các kiểu thảm thực vật
khác như cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày (Cao su, Cà phê, Cọ dầu…)
nếu chúng có độ tàn che hơn hoặc bằng 0,3 với chiều cao 3-5m trở lên đều
thuộc khái niệm rừng (rừng xoài, rừng cao su…).[26]
Các đối tượng sau đây được xếp vào loại hình ĐTĐNT:
- Rừng mới bị khai thác kiệt, đất còn tốt
- Rừng bị chặt phá làm nương rẫy sau một thời gian ngắn bỏ hoang
- Thảm cây bụi xen cây gỗ thưa thớt, độ tàn che của cây gỗ dưới 0,3
- Thảm cỏ tự nhiên

- Đất hoang hoá
- Các bãi bồi ở các cửa sông, các dải cát ven biển và nội đồng hiện
không có cây gỗ hoặc có nhưng không đáng kể


10

- Các vùng trồng cây ăn quả, cây công nghiệp hay đồng cỏ chăn nuôi
đã bị thoái hoá, năng suất thấp, độ che phủ kém (<0,3), đất bị bào mòn, rửa
trôi mạnh.[26]
Từ góc độ tổng quát về nông – lâm nghiệp và môi trường, Trần Đình
Lý đưa ra định nghĩa “Đất trống đồi núi trọc là những vùng đất chưa có thảm
thực vật cây gỗ là chủ yếu hoặc đã có nhưng bị tàn phá mà trên đó chỉ còn là
những trảng cỏ, trảng cây bụi hoặc các loại cây ăn quả, cây công nghiệp hay
đồng cỏ chăn nuôi bị thoái hoá, năng suất thấp, không ổn định” [25]. Đây là
định nghĩa đầu tiên về đất trống trọc ở nước ta. Tác giả cũng đã căn cứ vào
thành phần thực vật, cấu trúc phẫu diện và độ phì của đất, phân chia đất trống
trọc ở nước ta thành 3 nhóm như sau:
- Nhóm I: gồm những diện tích do rừng bị khai thác kiệt hoặc do bị đốt,
chặt phá rừng để trồng cây nông nghiệp sau 2 – 3 vụ (đôi khi hơn ) rồi bỏ hoá.
- Nhóm II: là các loại đất trống đồi trọc được hình thành do rừng bị
chặt, đốt để lấy đất trồng cây nông nghiệp ngắn ngày lặp đi lặp lại nhưng
không có biện pháp bảo vệ để giữ gìn độ phì của đất, làm cho đất bị xói mòn
rửa trôi thoái hoá mạnh.
- Nhóm III: gồm các bãi cát ven biển và nội đồng, các loại núi trọc trơ
sỏi đá mà lớp đất mặt còn rất mỏng hoặc đất phát sinh chưa hoàn chỉnh.
1.2.2. Giải pháp phủ xanh đất trống đồi núi trọc
Trước đây quan niệm phủ xanh là trồng rừng trên đất trống đã bị mất
hoặc chưa có rừng. Nhưng đến đầu những năm 1980, cùng với trồng rừng, các
biện pháp khác như nông lâm kết hợp, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp đều

được coi là phủ xanh đất trống đồi trọc.
Trong quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về mục tiêu, chính sách và tổ chức thực hiện chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng đã nêu rõ nhiệm vụ đến năm 2010 phải đạt được các chỉ


11

tiêu trồng mới 5 triệu ha rừng. Trong đó rừng phòng hộ và rừng đặc dụng 1
triệu ha, khoanh nuôi có trồng bổ sung 1 triệu ha, trồng mới rừng sản xuất 2
triệu ha, trồng cây công nghiệp và cây ăn quả 1 triệu ha.
Như vậy, phủ xanh đất trống đồi trọc không chỉ có trồng rừng, mà nó
còn có giải pháp khác. Đó là thực hiện canh tác theo mô hình nông lâm kết
hợp, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, xây dựng vườn rừng, đồng cỏ chăn
nuôi…
Phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng trồng rừng
Từ những năm 1976, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu thực hiện những
chương trình trồng rừng rộng lớn. Hàng năm trồng được 150.000 ha, chi phí
cho trồng rừng là 3 triệuVND/ha (Nguyễn Văn Đẳng, 1998), từ năm 1998
chúng ta thực hiện chương trình 661 trồng rừng trên quy mô toàn quốc. Trải
qua thực hiện giai đoạn 1998-2005, Dự án đã thu được kết quả nhất định; một
số mục tiêu dự án đạt kết quả chưa cao, tiến độ của dự án chỉ mới thực hiện
tốt đối với trồng rừng phòng hộ, đặc dụng (đạt 63 % nhiệm vụ dự án), trong
khi đó trồng rừng sản xuất còn chậm (đạt 34 % nhiệm vụ dự án). Diện tích
rừng tự nhiên có chiều hướng tăng lên nhưng chất lượng rừng còn tăng chậm,
diện tích rừng trồng tăng lên về số lượng nhưng năng suất còn tăng chưa đồng
đều (Báo cáo tổng kết Dự án 661 giai đoạn 1998 - 2005).
Đối với việc trồng rừng (rừng sản xuất, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ)
bằng các loài cây nhập nội, các nghiên cứu thường tập trung vào việc tuyển
chọn và khảo nghiệm giống, nghiên cứu điều kiện lập địa, phương thức trồng,

sinh trưởng phát triển của các loài, cấu trúc rừng phục vụ cho công tác chăm
sóc tu bổ.
Đối với việc trồng rừng nhằm mục đích phòng hộ và bảo vệ môi
trường, các tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu phục hồi các hệ sinh thái rừng
nhiệt đới theo hướng đa loài nhiều tầng bằng các loài cây bản địa.


12

Trần Ngũ Phương (2000) đã mô tả quy luật cấu trúc và quá trình phục
hồi của các kiểu rừng nhiệt đới ở Việt Nam và đưa ra giải pháp tái sinh nhân
tạo bằng trồng rừng hỗn loài nhiều tầng kết hợp cây lấy gỗ, cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây đặc sản và các sản phẩm phi gỗ khác. Theo mô hình này, tầng
trên (tầng cây gỗ) là các loài cây gỗ bản địa có giá trị thương mại cao. Tầng
dưới (tầng ưu thế sinh thái) là các loài cho quả, cây đặc sản. Tầng dưới tán là
các loài cây thuốc, cây làm thức ăn gia súc và cây lương thực.
Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Bá Chất, Vũ Đức Năng (2005) đã có thông
báo về kết quả xây dựng mô hình trồng rừng hỗn loài tại Cầu Hai – Phú Thọ.
Mô hình được xây dựng theo phương thức kết hợp cây phụ trợ để bảo vệ cây
non mới trồng. có 2 mô hình đã thực hiện sau đây:
- Cây phụ trợ là Keo, cây trồng chính là Vạng trứng + Trám trắng + Re
gừng.
- Cây phụ trợ là Cốt khí, cây trồng chính là Vạng trứng + Trám trắng +
Re gừng.
Kết quả cho thấy sau 2 – 3 năm cây sống 80 – 93%, mô hình có thể
hình thành rừng hỗn loài.
Đặng Văn Thuyết, Triệu Thái Hưng (2005) đề xuất kết cấu mô hình
rừng nhiều tầng hỗn loài cho đai rừng phòng hộ trên đất cát ven biển, sử dụng
cây Phi lao và các loài Keo chịu hạn làm cây trồng chính cho các mô hình
này.

Phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng khoanh nuôi phục hồi rừng
Phục hồi rừng trước hết là phục hồi lại thành phần thành phần chủ yếu
của rừng là thảm thực vật cây gỗ. Sự hình thành nên thảm cây gỗ này sẽ tạo
điều kiện cho sự xuất hiện các thành phần khác của rừng như tầng cây bụi,
tầng cỏ quyết, khu hệ động vật, vi sinh vật… và các yếu tố khác của rừng như
chế độ nhiệt, chế độ ẩm,…[7]. Vì vậy khái niệm phục hồi rừng sẽ có ý nghĩa


13

rộng lớn hơn là phục hồi lại cả một quần lạc sinh vật hay một hệ sinh thái
rừng hoàn chỉnh. Trong thực tế quá trình phục hồi rừng được đánh giá bằng
sự xuất hiện và chất lượng của thế hệ mới các cây gỗ.
Phục hồi rừng là một quá trình sinh học gồm nhiều giai đoạn và kết
thúc bằng sự xuất hiện một thế hệ mới thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép tán.
Quá trình phục hồi sẽ tạo điều kiện cho sự cân bằng sinh học xuất hiện, đảm
bảo cho sự cân bằng này tồn tại liên tục và cũng vì thế mà chúng ta có thể sử
dụng liên tục.
Phục hồi rừng sau nương rẫy là quá trình phục hồi lại hệ sinh thái rừng
trên đất nương rẫy bỏ hoá.
Khoanh nuôi phục hồi rừng là một giải pháp quan trọng để tái tạo lại
rừng. Đó là việc lợi dụng triệt để quy luật tái sinh và diễn thế đi lên của thảm
thực vật với sự can thiệp hợp quy luật của con người nhằm thúc đẩy quá trình
phục hồi lại rừng trong một thời gian xác định theo mục đich đề ra. Mục đích
của khoanh nuôi phục hồi rừng là biến những vùng đất lâm nghiệp hiện chưa
có rừng hoặc không còn rừng mà điều kiện thổ nhưỡng và khả năng tái sinh tự
nhiên cho phép thành các loại rừng phòng hộ, sản xuất hoặc rừng đặc dụng
trong khoảng thời gian không quá 10 năm.
Cho đến nay, khoanh nuôi phục hồi rừng đang là một giải pháp tích cực
để tăng nhanh độ che phủ của rừng nước ta. Vấn đề này đã được nhà nước đặc

biệt quan tâm, thể hiện qua việc ban hành 2 quy phạm nhằm lợi dụng năng
lực tái sinh tự nhiên cho phục hồi rừng:
Quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất và rừng
đặc dụng (QPN 14 - 92) và Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc
tiến tái sinh (QPN 21 - 98).
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về khả năng phục hồi tự nhiên của
thảm thực vật đã bị thoái hoá cần phải phủ xanh (Nguyễn Bá Chất và cộng sự,


14

1993; Lâm Phúc Cố, 1996; Nguyễn Ngọc Công, 2002…). Kết quả nghiên cứu
của các tác giả cho thấy thảm thực vật đã bị suy thoái đến thảm cỏ, thảm cây
bụi đều có khả năng phục hồi thành rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên.
vấn đề là thời gian và chất lượng rừng được phục hồi.
Lê Đồng Tấn và các cộng sự đã nghiên cứu xây dựng mô hình khoanh
nuôi tái sinh tại một số địa phương: Kon Hà Nừng (giai đoạn 1990 - 1995),
Con Cuông - Nghệ An (giai đoạn 1992 – 1996); Sơn La (giai đoạn 1990 2000); Lai Châu (giai đoạn 2000 - 2002) và gần đây là tại Trạm Đa dạng sinh
học Mê Linh (giai đoạn 2001 – 2005) cho thấy khả năng phục hồi tự nhiên
của thảm thực vật không cao. Trên đất tốt sau 8 – 9 năm nếu không bị lửa
rừng, chặt phá hay chăn thả thì từ thảm cỏ có thể phục hồi thành rừng non đáp
ứng được yêu cầu phòng hộ. Còn về phương diện kinh doanh thì không đáp
ứng được yêu cầu phòng hộ. Về phương diện kinh doanh không đáp ứng được
do tỷ lệ các loài cây có giá trị kinh tế không nhiều. Trên đất xấu quá trình lâu
hơn, có thể mất 14 – 16 năm (ở Sơn La, Mê Linh – Vĩnh Phúc) mới có thể
hình thành rừng. Tuy nhiên, nếu có biện pháp lâm sinh thích hợp (phát luỗng,
vệ sinh, trồng dặm) thì quá trình sẽ nhanh hơn.
Đinh Hữu Khánh (2005) đã nghiên cứu khoanh nuôi thảm cỏ (trạng thái
IC) cho thấy sau 2 – 5 năm áp dụng giải pháp khoanh nuôi đã tăng độ che phủ
của thảm thực vật cây bụi. Tổ thành thực vật cũng thay đổi theo chiều hướng

cây gỗ chiếm ưu thế, sinh trưởng của cây tái sinh cũng tăng lên đáng kể.
Tái sinh tự nhiên: một vài nhà khoa học ủng hộ việc sử dụng tái sinh tự
nhiên, hỗ trợ hoặc không trái với quan điểm chung của các nhà hoạch định
chính sách, đó là rừng phải được trồng và phát triển một cách triệt để trong
điều kiện có thể. Sự thực là có một khả năng to lớn về tái sinh tự nhiên ở một
số vùng, như vùng Sông Đà (Hoà Bình), điều này đảm bảo cung cấp gỗ có chất
lượng tốt hơn (mặc dù các loài cây khác nhau). So sánh phạm vi giới hạn những
cây mọc nhanh sử dụng trong trồng rừng cho thấy các loài cây bản địa đòi hỏi
giá trị đầu tư cao hơn so với những cây ngoại lai đã được thuần hóa, do vậy biện


15

pháp tái sinh tự nhiên là phương án được lựa chọn đầu tiên cho công tác phục
hồi phát triển rừng.
Phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng các giải pháp nông lâm kết hợp
Ở Việt Nam, tập quán canh tác nông lâm kết hợp đã có từ lâu đời, như
các hệ thống canh tác nương rẫy truyền thống của đồng bào các dân tộc ít
người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên cả nước. Xét ở
khía cạnh mô hình và kỹ thuật thì nông lâm kết hợp ở Việt Nam đã phát triển
không ngừng [1].
Từ những năm 1960, hệ sinh thái Vườn-Ao-Chuồng (VAC) được nông
dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả nước với nhiều
cải tiến khác nhau để thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể. Sau đó là hệ
thống Rừng-Vườn-Ao-Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát triển mạnh
mẽ ở các khu vực dân cư miền núi. Các hệ thống rừng ngập mặn-nuôi trồng
thuỷ sản cũng được phát triển mạnh mẽ ở vùng duyên hải các tỉnh miền Trung
và miền Nam. Các dự án ODA cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất
dốc theo đường đồng mức (SALT) ở một số khu vực miền núi. Theo đó, cho
đến nay các mô hình nông lâm kết hợp bao gồm: các mô hình NLKH vùng

đồi núi, các mô hình NLKH vùng ven biển.
Trước đây, sự kết hợp NLN đã đóng góp cho nền kinh tế tự cung tự
cấp. Thực tế hiện nay ở nhiều vùng núi hẻo lánh ở nước ta, NLKH đang tạo ra
những sản phẩm lương thực tại chỗ nhằm duy trì cuộc sống của đồng bào địa
phương; Một số nơi, sản phẩm NLKH đã trở thành hàng hoá. Đây là tiềm
năng và cơ hội cho sự thoát nghèo của người dân. Do vậy, các cấp ban ngành
liên quan cần tạo điều kiện thuận lợi để nông nghiệp, nông thôn miền núi có
cơ hội phát triển và hội nhập.
Trong những năm gần đây, tình hình phát triển Lâm nghiệp ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nhìn tổng
thể thì quá trình phát triển vẫn còn tương đối chậm, diện tích đất trống đồi núi


16

trọc, đất không được sử dụng có hiệu quả và hợp lý vẫn không ngừng đã gia
tăng. Trong những năm qua, các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý có
những công trình nghiên cứu và đưa ra các chính sách để phục hồi phát triển và
đưa những diện tích đất trống đồi núi trọc vào sản xuất nhằm phát triển kinh tế
cũng như giải quyết vấn đề nông thôn miền núi [20].
Từ những năm 1980 đã có nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng mô
hình nông lâm kết hợp để phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Theo Phan Xuân Đợt (1994), sử dụng đất trống đồi núi trọc theo
phương thức nông lâm kết hợp nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng lao động và
tài nguyên rừng phục vụ các nhiệm vụ kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường.
Lâm Công Định (1982, 1984) đã có một số công bố trong đó trình bày
cơ sở khoa học và cơ cấu sản xuất nông lâm kết hợp, những phương pháp
trong nông lâm kết hợp và giới thiệu một số mô hình nông lâm kết hợp có thể
thực hiện được ở nông thôn miền núi để phủ xanh đất trống đồi trọc.
Những nghiên cứu về cơ cấu cây trồng trong hệ canh tác nông lâm kết

hợp đã được nhiều tác giả nghiên cứu và thử nghiệm như: Đàm Tạ Quang
(1984) – nghiên cứu về cơ cấu cây trồng theo phương thức nông lâm kết hợp
ở Thanh Hoá; Phan Thanh Hội (1986) – Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp
ở bản Tẩu, Cao Bằng; Nguyễn Ngọc Bình (1990) – Xây dựng mô hình nông
lâm kết hợp trên một số địa bàn đất trống đồi núi trọc; Trần Đình Đại và cộng
sự (1990) - Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp tại Sơn La; Trần Đình Lý
(1996, 2000, 2003) – Nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế sinh thái trên
vùng đồi tại các tỉnh Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Bình.
Theo hướng xây dựng mô hình kinh tế môi trường, Nguyễn Hải Tuất và
cộng sự (1993) đã nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế môi trường bền vững
ở vùng thượng nguồn sông Trà Khúc. Lê Trần Chấn (1994) xây dựng mô hình
nông lâm kết hợp 3 tầng: tầng vượt tán là cây công nghiệp, tầng ưu thế sinh
thái là Cam Bù và tầng dưới tán cây chịu bóng đa tác dụng.


17

Phan Anh (2004) đã xây dựng mô hình Vườn – Ao - Chuồng (VAC),
mô hình Vườn – Ao - Chuồng - Rừng (VACR) nhằm nhanh chóng phủ xanh
đất trống đồi trọc ở Bản dân tộc Vân Kiều – Phú Lộc, xã Xuân Lộc, huyện
Phú Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Trên cơ sở kết quả đạt được tác giả đề
xuất giải pháp phát triển vườn cây lâu năm theo hướng vườn đồi, vườn rừng,
phát triển lâm nghiệp theo hướng nông nghiệp để làm vườn đồi, vườn rừng.
Các mô hình tương tự như hệ thống canh tác vườn - ao - chuồng (VAC)
hoặc luân canh rừng, rẫy và bãi chăn thả là những mô hình kỹ thuật nông lâm - súc kết hợp đơn giản nhưng rất hiệu quả cũng đã được thực hiện ở nhiều
địa phương.
VAC là mô hình lập vườn để trồng cây, đào ao để thả cá và làm chuồng để
chăn nuôi. Đây là hệ thống theo chu trình khép kín, các bộ phận bổ sung và hỗ trợ
nhau. Quy mô không lớn, nhưng lợi ích thì nhiều, phù hợp với mọi nhà, mọi nơi.
Luân canh rừng - rẫy - bãi chăn thả cũng là một mô hình kết hợp đơn

giản. Song ngoài việc lựa chọn kỹ các loài cây trồng và vật nuôi phù hợp còn
bố trí thời gian quay vòng sao cho đất dốc có điều kiện phục hồi và phải áp
dụng biện pháp chăn dắt, có hàng rào cây xanh bảo vệ, ...
1.3. Những nghiên cứu phủ xanh đất trống đồi trọc tại tỉnh Hoà Bình
Tại Hoà Bình, công tác phủ xanh đất trống đồi núi trọc chủ yếu được
thực hiện qua các chương trình do Nhà nước đầu tư: Dự án trồng rừng PAM,
Dự án trồng rừng 327, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, dự án hỗ trợ phát
triển rừng sản xuất giai đoạn 2007 - 2015, Dự án LNXH Sông Đà, Dự án
trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch ở huyện Cao Phong, Dự án phát triển
vùng nguyên liệu cà phê tại một số xã vùng cao của huyện Lạc Sơn… Và mới
đây nhất có 2 huyện Cao Phong và Đà Bắc đang triển khai dự án D&G trồng
rừng nguyên liệu Keo tai tượng.
Nhìn chung những nghiên cứu về phủ xanh đất trống đồi núi trọc còn
rất hạn chế.


18

1.4. Một số nhận xét chung
Từ những phân tích trên, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Trên thế giới những nghiên cứu phủ xanh đât trống đồi trọc chủ yếu là
xây dựng mô hình nông lâm kết hợp theo hướng đa loài, nhiều tầng, nhiều sản
phẩm, cải tiến các hệ canh tác nông lâm nghiệp bằng việc sử dụng các loài
cây đa chức năng (trong đó chủ yếu là cây họ đậu) để tăng năng suất cây
trồng và bảo vệ đất.
Ở trong nước, phủ xanh đất trống đồi núi trọc là nhiệm vụ cấp thiết.
Điều đó được thể hiện qua các chương trình đầu tư cho trồng rừng của Nhà
nước, các chương trình nghiên cứu từ cấp Nhà nước đến cấp Bộ, cấp cơ sở đã
và đang thực hiện tại các trung tâm, viện nghiên cứu khoa học.
Có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung phủ xanh đất

trống đồi núi trọc đã được công bố . Phần lớn các công trình là những bài báo
được đăng trên các tạp chí khoa học, tuyển tập các công trình nghiên cứu, kỷ
yếu của các Hội thảo, báo cáo của các đề tài nghiên cứu khoa học nhưng chưa
có chuyên khảo nào về lĩnh vực này.
Các nghiên cứu đã tập trung theo 3 hướng giải pháp: phủ xanh đất
trống đồi trọc bằng trồng rừng, phủ xanh đất trống trọc bằng khoanh nuôi tái
sinh tự nhiên, phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng các giải pháp NLKH. Mặc
dù đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc phủ xanh đất trống
đồi trọc nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề thời sự cần được
giải quyết như sau:
- Trước hết, đó là việc định lượng, đưa ra tiêu chí xác định và đánh giá
một cách chính xác về diện tích và tiềm năng đất trống đồi trọc. Đây là vấn đề
khó khăn nhất đối với công tác quy hoạch và thực hiện các giải pháp phủ
xanh đất trống đồi trọc hiện nay ở nước ta. Như trên đã trình bày, Bộ
NN&PTNT đã xếp tất cả các trạng thái thực bì từ IA đến IB, IC, núi đá không


19

cây, bãi cát, bãi bồi vào đất trống trọc. Nghĩa là chỉ căn cứ vào hiện trạng
thảm thực vật, còn đất đai - một số điều kiện quyết định sự sinh trưởng và
phát triển của thực vật lại chưa được quan tâm. Điều đó đã gây ra khó khăn
cho các địa phương khi thực hiện giao đất giao rừng và thực hiện phủ xanh.
- Cho đến nay, Bộ NN&PTNT đã ban hành 2 quy phạm: Quy phạm các
giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất và rừng đặc dụng (QPN 14 - 92)
và Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh (QPN 21 98). Nhưng việc thực hiện các quy phạm này còn rất nhiều bất cập. Trong đó
chủ yếu là quy trình thực hiện như thế nào cho đúng và phù hợp với mỗi
vùng, mỗi địa phương.
- Những nghiên cứu đã thực hiện chủ yếu tập trung vào khâu kỹ thuật.
Ví dụ: đối với các mô hình nông lâm kết hợp là tuyển chọn loài cây, thiết kế

xây dựng mô hình, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây. Đối với các mô hình
khoanh nuôi là các biện pháp lâm sinh (phát tỉa, trồng dặm) nhằm nâng cao
năng suất và chất lượng rừng. Trong khi những nghiên cứu về yêu cầu xã hội,
quy trình thực hiện, quyền lợi nghĩa vụ của người dân, đầu tư về khoa học kỹ
thuật, về vốn còn chưa được quan tâm thích đáng. Những thiếu sót này là
những nguyên nhân làm cho các mô hình ít đi vào cuộc sống và thường thất
bại sau khi hết kỳ hạn của chương trình, dự án.
- Các giải pháp phủ xanh cho từng đối tượng chưa rõ ràng, dẫn đến hiệu
quả không cao. Thực tế cho thấy có những vùng đất trống đồi trọc nếu phủ
xanh bằng giải pháp nông lâm kết hợp, làm kinh tế trang trại thì sẽ cho hiệu
quả cao hơn rất nhiều so với khoanh nuôi phục hồi rừng. Nhưng cũng có
những khu vực nếu phủ xanh bằng giải pháp làm kinh tế trang trại, vườn rừng
hay nông lâm kết hợp thì sẽ thu được lợi nhuận rất cao, nhưng vì tính cấp
thiết thì cần phải phủ xanh bằng phục hồi rừng. Đây cũng là vấn đề tồn tại cần
được giải quyết.


20

Tất cả những nội dung trên đã được đề cập đến trong báo cáo năm 2005
của Bộ NN&PTNT trình Chính phủ về việc thực hiện chương trình trồng mới
5 triệu ha rừng giai đoạn 1998 – 2004.
- Huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình là một huyện miền núi thuộc vùng
miền núi phía Tây Bắc nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu về phủ xanh đất
trống đồi trọc còn rất ít, đặc biệt là những nghiên cứu về giải pháp và quy
trình thực hiện nhiệm vụ phủ xanh đất trống đồi trọc tại địa phương.
- Phần lớn diện tích đất trống đồi trọc của huyện đều phân bố ở những
xã vùng sâu, vùng xa, địa hình dốc. Điều này có ảnh hưởng đến khả năng
phòng hộ và bảo vệ nguồn nước cũng như phòng tránh thiên tai không chỉ cho
các xã trong huyện mà còn đối với toàn tỉnh cũng như các địa phương lân cận.

- Huyện Lạc Sơn tỉnh Hoà Bình là cái nôi nền văn minh đất Mường.
Các dân tộc sống trong vùng đều có tinh thần lao động cần cù nhưng đến nay
cuộc sống của những người dân vẫn còn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao trong
khi tiềm năng đất đai vẫn còn khá lớn. Vì vậy, nghiên cứu tìm ra giải pháp
đúng để phủ xanh đất trống đồi trọc là một biện pháp tích cực góp phần cải
thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nâng cao đời sống cho người dân.


21

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu khoa học
Nghiên cứu hiện trạng, xác định nguyên nhân, đánh giá tiềm năng và
khả năng phủ xanh đất trống đồi núi trọc; thống kê và đánh giá hiệu quả của
các mô hình làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp phủ xanh đất
trống đồi trọc ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
2.1.2. Mục tiêu thực tiễn
Nghiên cứu tìm ra giải pháp phủ xanh hợp lý để chống xói mòn rửa
trôi, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao
góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân địa phương.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đất trống đồi núi trọc hiện có trên địa bàn
huyện.
- Địa điểm nghiên cứu: huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình.
2.3. Nội dung
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận văn tập trung vào các
nội dung nghiên cứu sau:

- Đánh giá hiện trạng thảm thực vật.
- Phân loại đất trống trọc và đánh giá tiềm năng đất trống đồi trọc.
- Đánh giá thực trạng của công tác phủ xanh đất trống đồi trọc.
+ Tình hình giao đất giao rừng.


22

+ Đánh giá về đầu tư cho phủ xanh đất trống trọc (chủ trương chính
sách, vốn, khoa học công nghệ...).
+ Các hoạt động phủ xanh đất trống trọc khi được giao quyền sử dụng
đất.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình phủ xanh đất trống trọc.
+ Điều tra phân loại các mô hình phủ xanh.
+ Hiệu quả của các mô hình phủ xanh.
- Đề xuất giải pháp phủ xanh đất trống đồi trọc.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp điều tra thu thập số liệu
Điều tra ngoài thực địa được thực hiện theo phương pháp điều tra tuyến
và ô tiêu chuẩn theo phương pháp ngẫu nhiên.
Tuyến điều tra được thiết lập vuông góc hoặc song song với đường
đồng mức. Đã thực hiện 5 vùng nghiên cứu như sau:
- Vùng 1: đi qua các xã Miền Đồi, Tuân Đạo, Tân Lập, Mỹ Thành,
Nhân Nghĩa, Quý Hoà và Văn Nghĩa.
- Vùng 2: đi qua các xã Phú Lương, Phúc Tuy, Văn Sơn, Chí Đạo,
Chí Thiện và Thượng Cốc.
- Vùng 3: đi qua các xã Yên Nghiệp, Tân Mỹ, Vũ Lâm, Bình
Chân, Bình Cảng và Ân Nghĩa.
- Vùng 4: đi qua các xã Ngọc Lâu, Tự Do, Ngọc Sơn.
- Vùng 5: đi qua vùng trung tâm huyện gồm các xã Liên Vũ, Vụ

Bản, Hương Nhượng, Yên Phú, Định Cư, Bình Hẻm và Xuất
Hoá.
Ô tiêu chuẩn có kích thước 400m2 (20x20m) cho đối tượng nghiên
cứu là thảm cỏ, cây bụi và kích thước 1600m2 (40x40m) cho đối tượng
nghiên cứu là rừng thứ sinh và rừng già (rừng trưởng thành). Ô tiêu chuẩn


23

được bố trí dọc theo tuyến điều tra, mỗi tuyến điều tra bố trí 6 ô tiêu chuẩn
400 m2 và 3 OTC 1600 m2 để thu thập số liệu. Số lượng ô tiêu chuẩn điều
tra như sau:
- Trạng thái thảm cỏ, thảm cây bụi: 30 OTC
- Trạng thái rừng thứ sinh: 15OTC
Thu thập số liệu (chiều cao, đường kính cây, độ tàn che) trên ô tiêu
chuẩn được thực hiện theo các phương pháp điều tra đang được áp dụng hiện
nay.
Đánh giá hiệu quả của các mô hình phủ xanh, dọc theo các tuyến điều
tra tiến hành thống kê, thu thập số liệu của các mô hình phủ xanh. Các mô
hình đã nghiên cứu gồm:
- Mô hình nông lâm kết hợp.
- Mô hình vườn rừng.
- Mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng.
Số liệu thu thập trong mô hình gồm: tên mô hình, địa điểm, diện tích,
thời gian xây dựng mô hình; những đặc trưng chính của mô hình như chủng
loại cây trồng, phương thức trồng trọt, mức đầu tư, thu nhập; các sản phẩm
của mô hình, tình hình tiêu thụ sản phẩm... theo phương pháp phỏng vấn kết
hợp kế thừa số liệu.
Áp dụng phương pháp điều tra có sự tham gia của người dân (PRA) để
thu thập số liệu về kinh tế xã hội, đánh giá hiệu quả kinh tế sinh thái của các

mô hình phủ xanh. Cụ thể đã làm việc với Ban lãnh đạo của Hạt Kiểm lâm,
Ban quản lý rừng phòng hộ huyện để thu thập số liệu về rừng và đất rừng, các
thông tin về việc thực hiện dự án 661, số liệu giao đất giao rừng, các biện
pháp kỹ thuật áp dụng trong khoanh nuôi phục hồi rừng. Thực hiện phỏng vấn
và làm việc với lãnh đạo các cấp xã, thôn, cán bộ chuyên môn về lâm nghiệp,
khuyến nông, khuyến lâm để tìm hiểu tình hình chăm sóc bảo vệ rừng, mức


×