Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của đất than bùn và chế độ ngập nước đến sinh khối rừng tràm vườn quốc gia u minh hạ, tỉnh cà mau (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Môi trường đất và nước
Mã ngành: 62 44 03 03

TRẦN THỊ KIM HỒNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẤT THAN
BÙN VÀ CHẾ ĐỘ NGẬP NƯỚC LÊN SINH KHỐI
RỪNG TRÀM Ở VƯỜN QUỐC GIA U MINH HẠ,
TỈNH CÀ MAU

Cần Thơ, 2017


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Người hướng dẫn chính: TS. Dương Văn Ni
Người hướng dẫn phụ: TS. Nguyễn Văn Bé

Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Trường
Họp tại: Phòng Bảo vệ luận án tiến sĩ (Phòng họp 3, lầu 2, Nhà điều hành),
Khu II – Trường Đại học Cần Thơ.

Vào lúc giờ ngày tháng năm

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:


Xác nhận xem lại của
Chủ tịch Hội đồng

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ
Thư viện Quốc gia Việt Nam


CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
Trần Thị Kim Hồng, Nguyễn Bình Long, Dương Văn Ni, Nguyễn Văn Bé, 2015.
Khảo sát sự sinh trưởng cây tràm (Melaleuca cajuputi) ở các độ dày than bùn
Vườn quốc gia U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau. Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ.
Số 40/2015. Trang 92-100.
Trần Thị Kim Hồng, Nguyễn Văn Bé, Dương Văn Ni (2016). Sinh khối rừng
tràm và chất lượng nước ở các điều kiện ngập khác nhau tại Vườn quốc gia U
Minh Hạ, tỉnh Cà Mau. Tạp chí Khoa học Đất. Số 49/2016. Trang 134-139.


Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của luận án
Trong điều kiện biến đổi khí hậu đang là vấn đề cấp thiết thì cây có vai trò
giảm thiểu tác động thông qua hấp thụ CO2 (IPCC, 2003). Đặc điểm chính của cây
tràm có khả năng chịu đựng được điều kiện ngập nước, hạn hán hay nhiễm mặn ở
mức nhẹ, nhiễm phèn (Da, 2012; Sam và Binh, 1999; Okubo và ctv, 2003). Chính vì
vậy mà đã có nhiều nghiên cứu về khả năng thích ứng của cây tràm với biến đổi khí
hậu. Việc giữ cho rừng tràm luôn ngập nước có ảnh hưởng như thế nào đến sự sinh
trưởng và sinh khối cây tràm thì đây là vấn đề cần được quan tâm và nghiên cứu.
Điều kiện tự nhiên của Vườn quốc gia (VQG) U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau là có rừng
tràm trên đất than bùn và than bùn phân bố thành các độ dày khác nhau ở các nơi. Vì
vậy, chất lượng đất than bùn cũng như độ dày tầng than bùn cũng là yếu tố cần xem

xét bên cạnh việc giữ nước phòng chống cháy rừng. Việc giữ nước phòng chống
cháy rừng qua nhiều năm có làm ảnh hưởng đến mật độ tràm và cây tràm có tồn tại
vĩnh viễn để tạo ra môi trường thích hợp cho bảo tồn đa dạng sinh học hay không thì
nghiên cứu tổng hợp về điều kiện môi trường đất và nước là cần thiết để phục vụ cho
công tác quản lý rừng bền vững và lâu dài. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng
của đất than bùn và chế độ ngập nước lên sinh khối rừng tràm ở VQG U Minh Hạ,
tỉnh Cà Mau” được thực hiện.
1.2. Mục tiêu luận án
-

Đánh giá độ dày tầng than bùn và chất lượng than bùn đến sinh khối rừng
Tràm.

-

Xác định mức độ ngập khác nhau và chất lượng nước lên sinh khối rừng
Tràm

-

Đánh giá mức độ dày tầng than bùn và mức độ ngập khác nhau lên sinh
khối và CO2 của rừng Tràm.

-1-


1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại VQG U Minh Hạ, ấp Vồ Dơi, xã Trần
Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Số liệu đất than bùn, nước và cây
tràm được khảo sát và thu thập tại khoảnh 13, 14 tiểu khu II; khoảnh 23, 24,

26, 27 thuộc tiểu khu 4 và khoảnh 3 thuộc tiểu khu 75 của vùng lõi VQG U
Minh Hạ, tỉnh Cà Mau.
1.4 Những đóng góp mới của luận án
Xác định mối quan hệ giữa đất than bùn và sinh khối tràm ở các độ dày
than bùn
Đất than bùn tại VQG U Minh Hạ giàu đạm (0,58 - 1,23%N) nhưng
chưa phải là môi trường tốt cho sự phát triển của cây tràm. Do than bùn dễ
cháy nên việc giữ nước phòng chống cháy rừng đã làm cho rừng tràm bị suy
thoái dần và được thể hiện rõ nhất qua mật độ cây. Khi độ dày than bùn càng
cao thì mật độ cây càng thấp. Sinh khối khô rừng Tràm tại các nghiệm thức độ
dày than bùn dao động từ 72,3 – 95,9 tấn/ha và sinh khối có xu hướng giảm
dần khi độ dày tầng than bùn cao hơn. Giá trị sinh khối rừng cao nhất ở độ dày
than bùn 20 – 40 cm (95,9 tấn/ha), thấp nhất ở độ dày than bùn 60 – 80 cm
(72,3 tấn/ha) và ở độ dày than bùn 40 – 60 cm có giá trị 81,1 tấn/ha.
Xác định mối quan hệ giữa độ sâu ngập và sinh khối tràm ở các mức ngập
Mật độ cây ở các nơi tràm có độ sâu ngập thấp nhất (<30 cm) có giá trị
trung bình cao nhất (1.564 cây/ha±306) và có sự khác biệt so với hai nghiệm
thức ngập nước còn lại (30 – 60 cm và >60 cm). Sinh khối khô bình quân của
rừng Tràm VQG U Minh Hạ từ 75 - 91 tấn/ha ở các độ ngập. Ở độ ngập thấp
(<30 cm) cho giá trị sinh khối cao nhất (91 tấn/ha), sinh khối thấp nhất ở độ
ngập >60 cm (75 tấn/ha) và ở độ ngập 30 – 60 cm là 85 tấn/ha. Điều này
chứng tỏ cây tràm mặc dù có thể chịu đựng được tình trạng ngập nước nhưng
năng suất cao nhất khi cây sống ở điều kiện ngập ít hơn.
Mối quan hệ đa nhân tố giữa các yếu tố môi trường đất – nước và
sinh khối Tràm

-2-


Các chỉ tiêu chất lượng môi trường nước như pH, DO, BOD 5, N-NO3-,

N-NH4 và môi trường đất như: dung trọng, pH, tổng đạm, tổng lân, chất hữu
cơ và N-NH4+ đã được đưa vào sử dụng hàm đa biến. Kết quả cho thấy các yếu
tố pH, DO, N-NH4+ trong nước và pH, tổng đạm, tổng lân, N-NH4+ của độ
dày tầng than bùn thì chưa thể hiện rõ sự tác động lên yếu tố sinh khối rừng
Tràm. Yếu tố mức độ ngập, BOD5 và N-NO3- của nước và dung trọng, mùa và
chất hữu cơ của đất có tác động đến sinh khối của rừng Tràm.
+

1.5 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài cung cấp thông tin, số liệu phục vụ công tác quản lý và phát triển
ổn định rừng tràm ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau. Việc bảo tồn hệ sinh thái
đất ngập nước rừng tràm trên đất than bùn là công việc lâu dài và cần có nhiều
giải pháp tổng hợp trong công tác quản lý rừng đặc dụng. Đối với rừng tràm
trên đất than bùn nếu quản lý bằng việc luôn giữ cho rừng ngập quanh năm và
mực nước được giữ càng sâu thì rừng không bị cháy nhưng mật độ cây tràm
càng giảm vì bị chết dần. Do đó, để có thể vừa phòng cháy vừa đảm bảo cho
rừng tràm phát triển ổn định thì độ dày tầng than bùn 20 – 40 cm và độ sâu
ngập thấp hơn 30 cm là điều kiện tối ưu nhất và cho giá trị sinh khối cao nhất.

-3-


Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Nội dung nghiên cứu
- Xác định độ dày tầng than bùn tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau và chất
lượng đất ở các độ dày than bùn khác nhau
- Xác định độ sâu ngập và chất lượng nước ở các độ sâu ngập tại VQG U Minh
Hạ, tỉnh Cà Mau
- Khảo sát, đo đếm một số chỉ tiêu sinh trưởng trên cây tràm ở các độ dày than
bùn và các độ sâu ngập khác nhau

- Đánh giá sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của rừng tràm ở các điều kiện độ
dày than bùn và độ sâu ngập khác nhau
- Đề xuất biện pháp quản lý cho rừng Tràm VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau.
2.2 Phương pháp thực hiện
2.2.1. Thiết lập ô mẫu ngoài thực địa
18 ô mẫu bao gồm 9 ô mẫu trong rừng tràm trên đất than bùn có 3 độ dày
than bùn khác nhau (20 - 40 cm, 40 - 60 cm, 60 - 80 cm) và 9 ô mẫu trong rừng
tràm có 3 độ sâu ngập khác nhau (< 30 cm, 30 - 60 cm, > 60 cm) được thiết lập tại
VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau. Mỗi độ sâu ngập và độ dày than bùn có 3 ô mẫu
và diện tích mỗi ô là 100 m2 (10 m x 10 m).
Bảng 2.1 Các chỉ tiêu thu mẫu và số mẫu thu thập tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau
Địa điểm
Chỉ tiêu
Số ô mẫu Số lần thu mẫu Tổng cộng Tổng cộng
Mẫu đất
Dung Trọng
9
4
36
216 mẫu
TN
9
4
36
TP
9
4
36
CHC
9

4
36
N-NO39
4
36
N-NH4+
9
4
36
pH
9
2
18
Mẫu nước DO
9
5
45
198 mẫu
BOD
9
5
45
N-NH4+
9
5
45
N-NO39
5
45
pH

9
2
18
Mẫu tràm
18
18 ô đo đếm

2.2.2 Phương pháp thu mẫu đất và nước
Dung trọng: dùng ống trụ bằng kim loại có thể tích 100 cm3, dùng tay ấn
mạnh xuống đất cho ngập ống hình trụ, sau đó đậy hai đầu ống trụ đem về
phòng thí nghiệm phân tích.

-4-


Các chỉ tiêu N-NH4+, N-NO3-, Nitơ tổng, Photpho tổng, pH, CHC: sử dụng
khoan tay để khoan lấy 1 kg đất than bùn, cho vào bọc nilon và đưa về phòng
thí nghiệm để phân tích.
- Chỉ tiêu DO: được thu riêng. Sau khi thu, mẫu được cố định bằng 1 ml
MnSO4 và 1 ml KI-NaOH (cho mỗi lọ 125 ml) ngay tại hiện trường và trữ
lạnh ở 40C (trong tối).
- N-NH4+, N-NO3-, BOD5: mẫu được thu bằng can nhựa 2 lít. Khi thu dùng tay
cầm can nhựa nhúng vào dòng nước ở giữa dòng, miệng can hướng về phía
dòng nước tới. Đậy kín miệng can. Sau khi thu mẫu, trữ lạnh ở 40C.
2.2.3 Phương pháp phân tích các chỉ tiêu trong đất
-

Bảng 2.2 Phương pháp phân tích các chỉ tiêu trong đất
STT
1

2
3
4
5
6
7

Chỉ tiêu
Dung trọng
N-NH4+
Nitơ tổng
Photpho tổng
pH
N-NO3CHC

Phương pháp
Phương pháp sấy ở nhiệt độ 105oC
Phương pháp so màu
Phương pháp Kjendhal
Phương pháp so màu
Đo trực tiếp ngoài hiện trường
Phương pháp so màu
Phương pháp nung

Bảng 2.3 Phương pháp phân tích các chỉ tiêu trong đất
STT
1
2
3
4

5

Chỉ tiêu
DO
BOD5
N-NH4+
N-NO3pH

Phương pháp
Phân tích bằng phương pháp Winkler cải tiến
Phân tích bằng phương pháp Oxitop
Đo bằng máy sắc ký ion Thermor 1100, USA
Phân tích bằng phương pháp Thiết Clorua (SnCl2)
Đo trực tiếp ngoài hiện trường

2.2.4 Phương pháp đo đếm các chỉ tiêu cây tràm trong ô tiêu chuẩn
- Mật độ: đếm tất cả số cây sống trong ô mẫu, tính ra cây/ha;
- Đường kính ngang ngực (DBH): dùng thước kẹp đo đường kính
thân cây ở vị trí cách mặt đất 1,3 m;
- Chiều cao dưới cành (Hdc): là chiều cao được tính từ mặt đất đến
đoạn cành phân nhánh đầu tiên của cây, được đo bằng thước đo
chiều cao;
- Chiều cao vút ngọn (Hvn): là chiều cao tính từ mặt đất đến vút
ngọn cây, được đo bằng thước đo chiều cao.
-5-


2.2.5 Phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng chương trình SPSS 20.0 để xử lý và thống kê số liệu.
- Các phương trình được chọn để tính toán số liệu là:


-

-

-

o

Wtổngkhô = 0,144 * D1,3 2,160

o

Ct = 0,066 * D1,3 2,1267

o

CO2= C*44/12 (tấn/ha)

Phân tích hồi qui đa biến cho các số liệu chất lượng môi trường
đất ở các độ dày than bùn và chất lượng môi trường nước ở các
mức ngập với sinh khối để tìm ra các yếu tố có tác động đến sinh
khối rừng Tràm.
Thống kê mô tả: Tính giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, sai số
chuẩn, max, min của các chỉ tiêu thí nghiệm.
Dùng phép thử Duncan so sánh sự khác biệt 1 nhân tố giữa các độ
dày than bùn và các độ ngập đến đường kính, chiều cao, mật độ,
sinh khối và CO2.
Dùng phép thử Duncan so sánh sự khác biệt 1 nhân tố giữa các độ
dày than bùn và các độ ngập đến các chỉ tiêu đất và nước.

Dùng phép thử Duncan so sánh sự khác biệt 1 nhân tố giữa mùa
và các chỉ tiêu đất và nước.
Kiểm định 2 nhân tố tương quan giữa mùa * độ dày than bùn và
mùa * độ ngập nước đến các chỉ tiêu đất và nước.

-6-


Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Chất lượng môi trường đất ở các độ dày than bùn
3.1.1 Dung trọng đất than bùn
Dung trọng đất ở 3 độ dày than bùn: 20 – 40 cm, 40 – 60 cm và 60 – 80 cm tại
VQG U Minh Hạ tương đối thấp, dao động từ 0,19 - 0,37 g/cm3. Dung trọng đất than
bùn có xu hướng giảm khi độ dày than bùn tăng. Trong 3 độ dày than bùn khảo sát,
dung trọng có giá trị cao nhất độ dày than bùn 20 - 40 cm (0,24 g/cm3±0,02 đến 0,34
g/cm3±0,03). Giá trị thấp nhất ở độ dày than bùn 60 - 80 cm (0,20 g/cm3±0,01 đến 0,23
g/cm3±0,02). Dung trọng đất VQG U Minh Hạ ở các nghiệm thức tràm có độ dày than
bùn 20 – 40 cm khác biệt có ý nghĩa so với độ dày than bùn 40 - 60 cm và 60 - 80 cm.
Sự khác biệt này là do ảnh hưởng bởi quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ trong đất
diễn ra chậm trong điều kiện môi trường ngập nước. Vì vậy, đất than bùn càng sâu thì
quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ diễn ra càng chậm.

(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015)
Hình 3.1 Dung trọng của đất than bùn ở các nghiệm thức

Nếu so sánh theo mùa (đợt khảo sát) thì lần khảo sát đợt 3 (giữa mùa khô) dung
trọng có giá trị cao nhất. Điều này do ảnh hưởng bởi đặc điểm của đất than bùn là là
loại đất giàu chất hữu cơ và phân hủy chậm trong điều kiện môi trường ngập nước mà
trong lần khảo sát này, ở 2 tầng đất than bùn 20 - 40 cm và 40 - 60 cm hầu như không
-7-



bị ngập nước vì đây là thời điểm giữa mùa khô (tháng 1), do đó các chất hữu cơ trong
đất phân hủy nhanh hơn, làm tăng dung trọng.
3.1.2 pH của đất than bùn
Đất than bùn tại các nghiệm thức tràm khảo sát đều có tính axit, pH thấp dao
động từ 3,67±0,58 đến 4,46±0,58. Giá trị pH của đất ở 3 độ dày than bùn hầu như
không có sự khác biệt, đất đều có tính axit và cực kỳ chua, loại đất này ảnh hưởng đến
sự sinh trưởng và phát triển của cây tràm. Tràm là loại cây có khả năng chịu phèn tốt,
nhưng không phải ưa phèn. Vì vậy, đất có độ pH thấp sẽ ảnh hưởng đến độ hòa tan và
dạng chất dinh dưỡng hữu dụng có trong đất, do đó có thể gây hạn chế sự phát triển của
cây.

(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015)
Hình 3.2 pH của đất than bùn

3.1.3 Hàm lượng chất hữu cơ trong đất than bùn
Hàm lượng chất hữu cơ trong đất than bùn VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau là rất
cao. Ở 3 độ dày than bùn, hàm lượng chất hữu cơ dao động từ 83,71 - 94,00%. Chất
hữu cơ trong đất ở 3 độ dày than bùn 20 - 40 cm, 40 - 60 cm và 60 - 80 cm không có sự
khác biệt ý nghĩa. Thảm thực vật trong khu vực khảo sát khá giống nhau. Tuy nhiên, ở
độ dày than bùn 60 - 80 cm là có hàm lượng chất hữu cơ cao nhất (90,81 ±0,87 đến
92,75%±0,54), ở độ dày than bùn 40 - 60 cm dao động từ 86,72±3,06 đến
91,75%±0,91 và ở độ dày than bùn 20 - 40 cm hàm lượng chất hữu là 88,21±3,56 đến
91,36%±3,37. Vì đất than bùn có hàm lượng chất hữu cơ cao nên loại đất này có độ
xốp cao, độ nén dẽ thấp. Đất có độ nén dẽ thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng đứng vững
của cây, làm cho cây dễ bị đổ ngã do ngoại lực tác động.
-8-



(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015)
Hình 3.3 Chất hữu cơ của đất than bùn ở các nghiệm thức

Hàm lượng chất hữu cơ trong đất than bùn cao là do đất than bùn trong rừng
tràm được hình thành từ quá trình phân hủy xác bã thực vật dưới tác động của vi sinh
vật và quá trình hình thành than bùn đòi hỏi một thời gian lâu dài hàng trăm hoặc hàng
ngàn năm (Trần Mạnh Trí và ctv., 2010). Đất có hàm lượng hữu cơ cao cũng có thể do
khu vực khảo sát là vùng đất trũng và có độ pH thấp, chất hữu cơ thường bị phân hủy
kém trong điều kiện chua, ngập nước thường xuyên.
3.1.4 Tổng Nitơ trong đất than bùn
Hàm lượng đạm tổng số trong đất than bùn tương đối cao. Ở độ dày than bùn 20
- 40 cm, Nitơ tổng có giá trị dao động khoảng 0,58 - 1,23%N, ở độ dày 40 - 60 cm là
0,69 - 1,07%N và ở độ dày 60 - 80 cm tổng Nitơ có giá trị 0,69 - 0,98%N. Theo Đỗ
Ánh (2003), đất có trên 0,2%N là đất giàu, điều này cho thấy đất than bùn tại VQG U
Minh Hạ, tỉnh Cà Mau là loại đất có độ phì nhiêu tiềm tàng cao, nhờ vào quá trình phân
hủy vật rụng và thảm thực vật trong rừng tràm, tạo điều kiện tốt cho sự sinh trưởng và
phát triển của cây rừng. Qua các đợt khảo sát hàm lượng Nitơ tổng ở độ dày than bùn
20 - 40 cm, 40 - 60 cm và 60 - 80 cm đều không có sự khác biệt. Hàm lượng đạm tổng
số có mối tương quan với hàm lượng chất hữu cơ trong đất, hàm lượng đạm tổng số
thường cao khi hàm lượng chất hữu cơ trong đất cao và ngược lại. Kết quả phân tích về
hàm lượng chất hữu cơ trong đất tại các ô nghiên cứu cho thấy chất hữu cơ cao và
không có sự khác biệt giữa 3 độ dày than bùn. Vì vậy, hàm lượng đạm tổng số trong
đất ở các ô nghiên cứu cũng cao và không có sự khác biệt giữa 3 nghiệm thức.

-9-


(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015)
Hình 3.4 Nitơ tổng của đất than bùn ở các nghiệm thức


3.1.5 Hàm lượng N-NH4+trong đất than bùn
Ở cả 3 độ dày than bùn, chỉ tiêu N-NH4+ không có sự khác biệt trừ số liệu lần
khảo sát đợt 4. Qua các lần thu mẫu, giá trị N-NH4+ có xu hướng tăng ở các độ dày
than bùn cao. N-NH4+ được hình thành từ quá trình amon hóa ở cả 2 điều kiện hiếu khí
hay yếm khí. Ở độ dày than bùn 20 – 40 cm, hàm lượng N-NH4+ có giá trị thấp nhất
trong 3 nghiệm thức (3,04 - 11,9 mg/kg), tiếp đến độ dày 40 – 60 cm (1,74 - 16,08
mg/kg) và độ dày 60 – 80 cm là cao nhất (3,49 - 17,03 mg/kg), điều này do một phần
N-NH4+ ở lớp than bùn phía trên đã bị oxy hóa thành nitrat, làm cho hàm lượng amon
trong đất giảm.

Hình 3.5 Hàm lượng N-NH4+ trong đất ở các nghiệm thức
- 10 -


3.1.6 Chỉ tiêu N-NO3- trong đất than bùn
Hàm lượng N-NO3- trong đất than bùn dao động từ 0,23 - 2,85 mg/kg. Đạm
nitrat trong đất được hình thành do quá trình nitrat hóa, nhờ vào hoạt động của các vi
sinh vật hiếu khí. N-NO3- có xu hướng giảm ở những độ dày than bùn cao. Giữa 3 độ
dày than bùn khảo sát hàm lượng N-NO3- có sự khác biệt do ảnh hưởng bởi quá trình
oxy hóa khử. Ở các lớp than bùn càng sâu thì lượng oxy trong đất càng giảm, đất sẽ
chuyển dần từ môi trường hiếu khí sang môi trường yếm khí, từ đó làm giảm tính oxy
hóa và tăng tính khử trong đất.Vì vậy, N-NO3- trong đất than bùn có xu hướng giảm
dần khi độ dày than bùn càng cao. Vào thời điểm thu mẫu mùa mưa, rừng tràm bị ngập
nước, hàm lượng N-NO3- trong đất cũng thấp hơn mùa khô.
3.1.7 Photpho tổng trong đất than bùn
Nhìn chung lân tổng cộng không có sự khác biệt ý nghĩa và mức độ dao động
lân trong đất than bùn là tương đối thấp. Ở độ dày than bùn 20 – 40 cm, lân tổng cộng
có giá trị là 0,03 - 0,12%P2O5 và độ dày than bùn 40 - 60 cm và 60 - 80 cm là 0,03 0,07% P2O5. Theo Lê Văn Căn (1968) trong Đỗ Ánh (2003) khi % P2O5 tổng số dưới
0,06 là đất nghèo lân, từ 0,06 - 0,1 là đất trung bình và trên 0,1 là đất giàu lân. Ở 3 độ
dày than bùn khảo sát đất có hàm lượng lân tổng số ở mức trung bình. Theo E.Detrunk

(1931) trong Đỗ Ánh (2003) đất giàu lân mới có độ màu mỡ cao và ngược lại đất có độ
màu mỡ cao đều giàu lân và giữa lân tổng số với năng suất cây trồng có mối tương
quan thuận với nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy đất than bùn là loại đất có độ màu
mỡ ở mức trung bình.

Hình 3.6 Hàm lượng lân tổng cộng trong đất ở các nghiệm thức

Tuy nhiên, giữa các đợt khảo sát thì lân tổng cộng khác biệt có ý nghĩa rõ nhất
là đợt 3. Ở đợt 2, lân tổng cộng có giá trị thấp nhất (0,03 - 0,05%P2O5). Có sự khác biệt
- 11 -


này có thể là do ảnh hưởng bởi quá trình khoáng hóa lân hữu cơ. Đất than bùn ở vùng
nghiên cứu chủ yếu được hình thành từ xác bã thực vật. Vì vậy, lân tồn tại trong đất chủ
yếu là dạng lân hữu cơ, lân hữu cơ sẽ được chuyển hóa thành lân vô cơ nhờ vào hoạt
động của nhóm vi sinh vật phân hủy photpho hữu cơ giúp cây có thể hấp thụ được. Kết
quả cho thấy lân tổng số trong đất thấp, bên cạnh đó pH của đất cũng thấp dẫn đến lân
hữu dụng trong đất cũng sẽ thấp, điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và
phát triển của cây tràm.
3.2 Sinh trưởng và sinh khối cây tràm ở 3 độ dày than bùn
3.2.1 Mật độ tràm
Kết quả đo đếm tất cả các cây tràm trong các ô tiêu chuẩn ở các nghiệm thức
tràm có độ dày than bùn khác nhau cho thấy, mật độ tràm dao động từ 1.100 – 2.000
cây/ha. Tràm ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có mật độ ở mức trung bình.

Hình 3.7 Mật độ tràm ở các nghiệm thức tràm có độ dày than bùn khác nhau

So sánh mật độ cây tràm ở 3 nghiệm thức cho thấy: Mật độ tràm có xu hướng
giảm dần ở các nghiệm thức có độ dày tầng than bùn cao. Đối với độ dày than bùn 20 40 cm, mật độ cây là 1.623±327 cây/ha, độ dày than bùn từ 40 - 60 cm có mật độ
1.048±120 cây/ha và mật độ tràm thấp nhất ở có độ dày than bùn 60 - 80 cm (936±131

cây/ha). Điều này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Thêm (2008) ảnh hưởng
của đất đến rừng là giúp cây đứng vững nhưng đất có độ dày than bùn càng cao thì độ
xốp của đất càng cao làm ảnh hưởng đến khả năng bám của hệ rễ làm cho cây dễ bị đổ
ngã do mưa bão hay là gió mạnh, làm cho cây bị chết.

- 12 -


3.2.2 Đường kính ngang ngực (DBH) và chiều cao (Hdc, Hvn)
Ở nghiệm thức tràm có mật độ càng cao, không gian sống càng bị thu hẹp nên
các cá thể phải vươn cao để cạnh tranh về ánh sáng, mật độ càng dày thì cây chủ yếu
phát triển theo chiều cao nên đường kính sẽ nhỏ. Mặt khác, với mật độ thưa có đủ ánh
sáng nên cây phát triển theo chiều ngang nhiều hơn điều này ảnh hưởng đến đường
kính trung bình của cây trong các nghiệm thức. Nghiệm thức tràm có độ dày than bùn
từ 20 - 40 cm thì cây có đường kính trung bình là 15,93 cm±3,35 thấp hơn và khác biệt
có ý nghĩa so với nghiệm thức tràm có độ dày than bùn cao hơn. Tràm có đường kính
cao nhất là ở độ dày than bùn 40 – 60 cm (17,95 cm±4,33), còn ở độ dày than bùn 60 –
80 cm đường kính ngang ngực ở mức trung bình (17,85 cm±4,06).
So với kết quả về mật độ thì giá trị đường kính cho kết quả gần như ngược lại: ở
độ dày than bùn 20 – 40 cm có mật độ cây cao hơn 2 độ dày than bùn còn lại thì đường
kính có giá trị thấp hơn. Điều này là do tràm có mật độ càng cao, không gian sống càng
bị thu hẹp nên các cây cá thể phải vươn cao để cạnh tranh về ánh sáng nên mật độ càng
dày thì cây chủ yếu phát triển theo chiều cao nên đường kính sẽ nhỏ.
Đối với chiều cao vút ngọn và chiều cao dưới cành của cây tràm không có sự
khác biệt ở các độ dày than bùn do mật độ cây ở đây thuộc vào nhóm có mật độ trung
bình và thưa nên sự phát triển của cây cá thể không cạnh tranh nhiều về ánh sáng và
dinh dưỡng nên chiều cao cây tương đối đồng đều. Chiều cao dưới cành ở độ dày than
bùn 20 – 40 cm có số liệu từ 6 – 14 m, tiếp theo ở độ dày 40 – 60 cm (4 – 14 m) và độ
dày than bùn 60 – 80 cm có giá trị từ 5 – 14 m. Mặc dù giữa các nghiệm thức không có
sự khác biệt về giá trị này nhưng trong từng ô mẫu thì chiều cao cây có sự chênh lệch

khá lớn. Chiều cao tới ngọn tràm ở độ dày than bùn 20 – 40 cm có giá trị trung bình là
13,6 m±2, tiếp theo ở độ dày 40 – 60 cm tràm có chiều cao vút ngọn trung bình cao
nhất (14,3 m±2) và ở các nghiệm thức tràm có độ dày than bùn 60 – 80 cm có giá trị
thấp nhất (13,8 m±1,9).
3.2.3 Sinh khối khô cây tràm và sinh khối rừng tràm tại VQG U Minh Hạ
Sinh khối khô cây tràm tại VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau khác biệt có ý nghĩa
giữa đất tràm có độ dày than bùn 20 – 40 cm và hai độ dày than bùn còn lại. Ở độ dày
than bùn 20 – 40 cm, sinh khối cây tràm có giá trị thấp nhất (60,7 kg/cây). Ở hai
nghiệm thức còn lại (40 – 60 cm và 60 - 80 cm), sinh khối cây có giá trị lần lượt là 78,9
kg/cây và 77,4 kg/cây. Các cây tràm ở hai nghiệm thức này có đường kính ngang
ngực lớn nên dẫn đến sinh khối cây lớn. Sinh khối cây tràm tập trung phần lớn là ở thân
cây, tràm có tuổi càng cao có xu hướng cho sinh khối càng lớn. Kết quả này cũng phù
- 13 -


hợp với những nhận xét của nhiều tác giả khác trong nghiên cứu về sản lượng và sinh
khối của các loài cây gỗ ở Việt Nam và thế giới.

Hình 3.8 Sinh khối khô rừng tràm ở các nghiệm thức

Sinh khối rừng phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu sinh học của cây tràm và
mật độ tràm tại vùng nghiên cứu. Trong kết quả nghiên cứu, sinh khối khô của rừng
Tràm tại các nghiệm thức dao động từ 72,3 – 95,9 tấn/ha và sinh khối có xu hướng
giảm dần khi độ dày tầng than bùn cao hơn. Giá trị sinh khối rừng cao nhất ở độ
dày than bùn 20 – 40 cm (95,9 tấn/ha), thấp nhất ở độ dày than bùn 60 – 80 cm
(72,3 tấn/ha) và ở độ dày than bùn 40 – 60 cm có giá trị 81,1 tấn/ha.
3.2.4 Các loài thực vật bậc cao trong rừng tràm ở các độ dày than bùn khác nhau
Khảo sát thành phần loài thực vật bậc cao trong rừng tràm VQG U Minh Hạ,
tỉnh Cà Mau cho thấy có 27 loài. Số lượng loài tăng dần khi độ dày than bùn càng cao.
Ở độ dày than bùn từ 20 – 40 cm có số lượng loài thấp nhất (9 loài), kế tiếp là độ dày

than bùn từ 40 – 60 cm (12 loài) và số lượng loài nhiều nhất ở độ dày than bùn từ 60 80 cm (14 loài). Nguyên nhân có thể là ở độ dày than bùn thấp mật độ tràm còn cao, vì
vậy các loài thực vật bậc cao khác phải cạnh tranh với cây tràm để giành không gian
sống và các yếu tố về dinh dưỡng, ánh sáng,…Khi độ dày than bùn tăng, mật độ tràm ở
đây đã giảm xuống kết hợp với điều kiện ẩm ướt và độ tơi xốp cao của đất than bùn tạo
điều kiện thích hợp cho sự phát triển các loài thực vật bậc cao và cây bụi, dây leo sẽ
chiếm ưu thế dần (Thái Văn Trừng, 1998). Nhóm thực vật thân gỗ gồm có cây tràm
(Melaleuca cajuputy), tràm bông vàng (Acacia auriculiformis), trâm (Eugenia
- 14 -


zeylanica), bùi (Ilex thorelli) và móp (Alstonia spathulata) chiếm tỉ lệ 18,5 % số loài
khảo sát được. Nhóm thảm tươi cũng chiếm tỉ lệ 22,2 % số loài khảo sát bao gồm sậy
(Phragmites karka),choại (Stenocholena palustris), dớn (Blechnum serrulentum), cỏ 3
cạnh (Cyperus compactus), mây nước (Flagellaria indica), cỏ bắc (Leersia hexandra).
Nhóm thân leo, bò chiếm tỉ lệ cao nhất 40,7 % gồm cứt quạ lớn (Gymnopetalum
integrifolium), bòng bong (Lygodium microphylum), chìa vôi (Cissus modeccoides),
dây giác (Cayratia trifolia),….Nhóm cây thân bụi có tỉ lệ thấp 18,5 % bao gồm bình
bát (Annona glabra), bí bái (Evodia lepta), múi (Glochidion littorale),…
Ở các độ dày than bùn khác nhau mức độ đa dạng loài thực vật bậc cao cũng
khác nhau: Đa dạng loài cao nhất ở độ dày than bùn 60 - 80 cm (H=3,95), kế tiếp là độ
dày than bùn 40 - 60 cm (H=2,77) và thấp nhất là độ dày than bùn 20 - 40 cm (H=1,5).
Như vậy, khi độ dày than bùn càng cao, mật độ cây thân gỗ (tràm) càng thấp và số loài
cây bụi, dây leo sẽ nhiều hơn.
3.2.5 Hồi qui đa biến của sinh khối rừng ở các độ dày than bùn và các chỉ tiêu
chất lượng môi trường đất
Khi xem xét mô hình hồi qui tuyến tính đa biến của sinh khối rừng ở các độ dày
than bùn và các chỉ tiêu chất lượng môi trường đất như dung trọng, pH, tổng đạm, tổng
lân, chất hữu cơ, N-NO3- và N-NH4+ cho thấy: các chỉ tiêu dung trọng và chất hữu cơ
tác động rõ đến sinh khối khô của rừng Tràm (P<0,05). Khi dung trọng càng tăng và
khi hàm lượng chất hữu cơ giảm thì sẽ làm cho sinh khối khô của rừng Tràm gia tăng.

Các chỉ tiêu khác như pH, tổng đạm, tổng lân, N N-NO3- và N-NH4+ của độ dày tầng
than bùn thì chưa thể hiện rõ sự tác động lên yếu tố sinh khối. Có ảnh hường theo mùa
(sig.=0,072 < 0,1) nên chấp nhận trong các hàm đa biến vì sig.< 0,05 như trong tính
toán xây dựng phương trình.
Skthanbun=138,927*dungtrong–18,7mua-2,753*CHC
(Ghi chú: Skthanbun: Sinh khối tràm ở các độ dày than bùn; Dungtrong: Dung trọng;
Mua: Mùa; CHC: Chất hữu cơ)

Như vây, yếu tố dung trọng, mùa và chất hữu cơ có ảnh hưởng đến sinh khối.
3.3 Môi trường nước và các chỉ tiêu cây tràm ở các độ ngập
3.3.1 Chất lượng môi trường nước trong rừng tràm ở các độ ngập
3.3.1.1 Mức độ ngập nước của rừng tràm ở VQG U Minh Hạ
Do điều kiện VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau là rừng đặc dụng và rừng tràm trên
đất than bùn nên việc phòng chống cháy rừng là một trong những việc quan trọng trong
công tác quản lý. Chính vì vậy mà việc giữ nước trong rừng tràm đã được thực hiện.
- 15 -


Trong năm, mực nước trong rừng tràm được quản lý và phân thành 3 cấp: thấp, trung
bình và cao. Vào mùa mưa, lượng mưa kéo dài trong 6 tháng phân bố tương đối đều,
mưa nhiều, bốc hơi ít nên mặt đất rừng trong toàn khu vực đều bị ngập nước. Toàn bộ
rừng bị ngập bởi lượng nước mưa giữ lại, thời gian bắt đầu từ tháng 6 đối với những
khu vực đất sét và tháng 8,9 đối với khu vực đất than bùn. Độ ngập bình quân 70 – 80
cm, nơi ngập sâu nhất là khu vực đất sét 1,2 m, nơi ngập ít nhất là khu vực đất than bùn
20 – 30 cm, chế độ ngập giảm dần vào mùa khô và khô kiệt vào tháng 3, 4. Kênh
mương trên toàn bộ lâm phần khu vực VQG U Minh Hạ có tổng chiều dài hơn 70 km,
trung bình khoảng 1 km có 1 kênh chính với chiều ngang 8 – 10 m và sâu bình quân
1,5 – 2 m. Hệ thống này được thiết lập với mục tiêu chính là giữ nước lại trong mùa
khô để hạn chế cháy rừng và tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông, vận chuyển.
Rừng tràm ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau thường xuyên được giữ nước ít nhất là 3

tháng trong năm vào mùa mưa và mực nước dao động từ 0 đến hơn 60 cm tùy vị trí.
3.3.1.2 Chỉ tiêu pH và DO trong nước
pH trong nước dao động từ 4,21- 4,83 và không có sự khác biệt giữa các mức
độ ngập. Tuy nhiên, khi so sánh giữa mùa mưa và mùa khô thì giá trị pH mùa mưa thấp
hơn mùa nắng. Ở môi trường pH tương đối thấp như VQG U Minh Hạ thì không thuận
lợi cho các vi sinh vật phát triển, làm quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ diễn ra
chậm hơn. pH trong nước thấp là do ảnh hưởng bởi pH trong đất, qua phân tích ở trên
cũng cho thấy đất than bùn là loại đất chua, có pH thấp, do vậy đã ảnh hưởng trực tiếp
đến độ pH của nước mặt trong rừng tràm.
Nguồn nước mặt trong rừng ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có hàm lượng
DO rất thấp. DO trong nước ở tất cả các ô nghiên cứu chỉ dao động trong khoảng 1,12 3,76 mg/l, DO thấp là do vi sinh vật cần sử dụng nhiều oxy hòa tan để phân giải các
chất hữu cơ có trong nước và trong đất, hơn nữa nước trong rừng tràm là dạng nước
tĩnh, ít được trao đổi, rừng tràm nhiều tuổi nên có độ tán che cao, ánh sáng mặt trời
không chiếu được trực tiếp vào mặt nước. Điều này làm quá trình phân hủy các hợp
chất hữu cơ có trong nước diễn ra chậm hơn. DO trong nước ở các độ sâu ngập khác
nhau không có sự khác biệt ở các đợt thu mẫu 2,3 và 4 nhưng có sự khác biệt
(P<0,05) ở đợt 1 (tháng 9/2014) và đợt 5 (tháng 11/2015). Đây là thời điểm mùa
mưa nên lượng vật chất hữu cơ được rửa trôi và hòa tan trong nước nhiều hơn mùa
khô. Lượng oxy hòa tan trong nước cao hơn ở những nơi ngập nhiều do sự pha
loãng vật chất hữu cơ. Đối với các ô tiêu chuẩn có độ sâu ngập <30 cm hàm lượng
DO trong nước dao động từ 1,37 mg/l±0,16 đến 3,26 mg/l±0,29, độ sâu ngập 30 - 60
- 16 -


cm là 1,33 mg/l±0,27 đến 2,75 mg/l±0,77 và ở các ô tiêu chuẩn có độ sâu ngập lớn hơn
60 cm hàm lượng DO là 1,55 mg/l±0,39 đến 3,40 mg/l±0,33.

(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015, Đợt 5: 11/2015)
Hình 3.9 Nồng độ DO trong nước ở các nghiệm thức


3.3.1.3.Chỉ tiêu BOD5 trong nước
BOD là lượng oxy cần thiết để vi sinh vật oxy hoá các chất hữu cơ có trong
nước. Kết quả phân tích cho thấy, chỉ tiêu BOD5 trong các nghiệm thức hầu như không
có sự khác biệt, độ sâu ngập <30 cm chỉ tiêu BOD5 có giá trị trung bình là 8,79 - 25,43
mg/l, độ sâu ngập 30 - 60 cm là 8,00 - 39,20 mg/l và các ô tiêu chuẩn có độ sâu ngập
>60 cm là 9,00 - 53,20 mg/l. Chỉ tiêu BOD5 trong nước tại các ô tiêu chuẩn có sự dao
động tương đối lớn và có giá trị cao do ảnh hưởng bởi hàm lượng các chất hữu cơ có
trong nước và đất tại rừng tràm ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau.

- 17 -


(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015, Đợt 5: 11/2015)
Hình 3.10 Nồng độ BOD5 trong nước ở các nghiệm thức

Do tính đặc thù của rừng tràm, hợp chất hữu cơ trong nước chủ yếu là các hợp
chất cacbon hữu cơ và nitơ hữu cơ, do đó BOD5 ở đây chủ yếu là nhu cầu oxy sinh học
cho quá trình Nitrat hóa và oxy hóa cacbon. Vi sinh vật cần nhiều oxy để phân hủy các
hợp chất hữu cơ, vì vậy chỉ tiêu BOD5 tại các nghiệm thức tràm nghiên cứu luôn cao.
Mặt khác, trong các ô tiêu chuẩn có cùng độ sâu ngập nước chỉ tiêu BOD5 cũng có sự
dao động lớn (độ lệch chuẩn lớn). Sự dao động này có thể là do hàm lượng các chất
hữu cơ có trong nước ở mỗi ô tiêu chuẩn khác nhau. Điều đó cho thấy chỉ tiêu BOD5
phụ thuộc rất nhiều vào sự có mặt của các chất hữu cơ trong nước, ở các ô tiêu chuẩn
có hợp chất hữu cơ cao thì vi sinh vật cần nhiều oxy hòa tan hơn.
3.3.1.4 Nồng độ N-NO3- trong nước
Nồng độ N-NO3- ở các độ sâu ngập khác nhau hầu như không có sự khác biệt
trừ lần thu mẫu đợt 5. Nồng độ N-NO3- trong nước tại các ô tiêu chuẩn dao động
khoảng 0,02 - 0,43 mg/l. Mặc dù sự khác biệt chưa rõ ràng nhưng số liệu cho thấy ở
các nghiệm thức có độ sâu ngập nước càng cao thì N-NO3- có xu hướng càng tăng, điều
này là do ảnh hưởng bởi sự có mặt của các vi khuẩn nitrat hóa trong nước.


- 18 -


.
(Ghi chú: Đợt 1: 9/2014, Đợt 2: 11/2014, Đợt 3: 1/2015, Đợt 4: 9/2015, Đợt 5: 11/2015)
Hình 3.11 Nồng độ N-NO3- trong nước ở các nghiệm thức

Các ô tiêu chuẩn có độ ngập nước <30 cm nồng độ N-NO3- là thấp nhất (0,12 0,29 mg/l), các ô tiêu chuẩn có độ sâu ngập 30 - 60 cm dao động lớn 0,14 - 0,40 mg/l
và nồng độ N-NO3- cao nhất là ở có độ sâu ngập >60 cm (0,09 - 0,34 mg/l).
3.3.1.5 Nồng độ N-NH4+ trong nước
Đạm amon hiện diện trong nước dưới dạng ion amon hay ammonia, nước mặt
tại các nghiệm thức rừng tràm VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau có pH <7 nên đạm amon
hiện diện trong nước chủ yếu là dạng ion amon, đây là dạng đạm mà cây có thể dễ dàng
hấp thụ. N-NH4+ trong nước dao động từ 0,12 - 3,13 mg/l..

Hinh 3.12 Nồng độ N-NH4- trong nước ở các nghiệm thức
- 19 -


Đạm amon trong nước gần như không có sự khác biệt ở các nghiệm, vì đạm
amon được hình thành từ quá trình sinh hóa phân hủy nitơ bởi các vi sinh vật trong điều
kiện hiếu khí hay kỵ khí. Mặt khác, nồng độ N-NH4+ ở các ô tiêu chuẩn có có cùng độ
sâu ngập có sự chênh lệch khá lớn, có thể là do ảnh hưởng bởi sự hiện diện của các chất
hữu cơ có trong nước ở các ô tiêu chuẩn là khác nhau.
Qua các đợt khảo sát, nồng độ N-NH4+ có sự khác biệt. Đợt 3 nồng độ N-NH4+
có giá trị cao nhất (2,38 - 3,13 mg/l). Đợt 3 là lần khảo sát vào giữa mùa khô (tháng
1/2015) nên trong thời điểm này, các vi sinh vật phân hủy nitơ với tốc độ nhanh hơn
các thời điểm khác trong năm. Số liệu thấp nhất là đợt khảo sát 4 (tháng 9/2015), hàm
lượng N-NH4+ dao động khoảng 0,12 - 0,81 mg/l. Như vậy, mặc dù ở các độ ngập

khác nhau, hàm lượng N-NH4+ không có sự khác biệt rõ ràng nhưng quan sát số liệu
theo mùa thì có sự khác biệt giữa mùa khô và mùa mưa. Mùa khô có hàm lượng NNH4+ cao hơn do các vi sinh vật trong giai đoạn này hoạt động mạnh hơn.
3.3.2 Sinh trưởng và sinh khối cây tràm ở 3 độ ngập
3.3.2.1 Mật độ tràm
Kết quả đếm tất cả số cây trong 18 ô tiêu chuẩn (diện tích 100 m2/ô) ở các vị trí
có độ ngập khác nhau cho thấy: Mật độ tràm tại khu vực nghiên cứu được xếp vào
nhóm trung bình và có xu hướng thay đổi theo độ ngập, độ ngập càng thấp thì mật độ
tràm càng cao và ngược lại.

Hình 3.13 Mật độ trung bình cây tràm ở các nghiệm thức
(Giá trị là số liệu trung bình ở các ô tiêu chuẩn giữa các nghiệm thức. Các cột có cùng ký tự a, b hoặc
c không khác biệt ý nghĩa ở mức 5% phép thử Duncan)

- 20 -


Ở độ ngập <30 cm, mật độ tràm trung bình là 1.564 cây/ha±306, ở nghiệm thức
tràm có độ ngập 30 - 60 cm, mật độ thấp hơn (1.415 cây/ha±351) và mật độ tràm thấp
nhất là ở nghiệm thức độ ngập >60 cm (1.348 cây/ha±282). Mật độ tràm ở các ô mẫu
ngập <30 cm có sự khác biệt so với hai nghiệm thức còn lại. Điều này là do tràm sinh
trưởng ở những khu vực ngập nước càng cao sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ rễ,
theo kết quả khảo sát thì tràm ở độ sâu ngâp >60 cm có hiện tượng nổi gốc và sống
thành cụm, rễ không ăn sâu xuống lòng đất, vì vậy cây tràm sinh trưởng ở khu vực
ngập nước cao sẽ dễ bị đổ ngã hơn. Hơn nữa, trong quá trình sinh trưởng, tràm và các
loài thực vật khác trên cùng giá thể đất than bùn có sự cạnh tranh về không gian, dinh
dưỡng, ánh sáng…, dẫn đến những cây sinh trưởng kém dần sẽ bị loại bỏ làm cho mật
độ cây có sự chênh lệch giữa các nghiệm thức.
3.3.2.2 Chiều cao cây tràm ở các độ ngập
Chiều cao trung bình cây giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt, chiều
cao vút ngọn trung bình dao động từ 13,8±1,6 m đến 14,3±1,6 m. Chiều cao dưới cành

dao động từ 10,1±1,8 m đến 10,4±1,2 m. Ở cả 3 độ ngập nước có chiều cao cây tràm
chênh lệch tương đối thấp (<1m). Điều này có thể giải thích là do các nghiệm thức
khảo sát là tràm tự nhiên và tràm đã trưởng thành, vì vậy sự phát triển về chiều cao và
đường kính chậm, nên giữa các vị trí cây khảo sát không có sự khác biệt về đường kính
và chiều cao.
3.3.2.3 Đường kính của cây tràm
Cũng giống như chiều cao, giá trị đường kính của cây tràm ở các nghiệm thức
không có sự khác biệt. Đường kính cây dao động từ 7,7 – 23,6 cm. Mặc dù ở 3 độ ngập
đều có mật độ khác nhau nhưng sinh trưởng về đường kính và chiều cao có xu hướng
giống nhau. Đối với rừng trồng thì ưu thế sinh trưởng cây cá thể sẽ thuộc về rừng có
mật độ cây trồng thưa (Phạm Xuân Quý, 2006) nhưng trong điều kiện của VQG U
Minh Hạ, tỉnh Cà Mau là rừng tự nhiên thì mật độ mặc dù có sự khác biệt giữa các vị
trí đo đạc nhưng đều cùng nằm trong nhóm có giá trị trung bình nên chưa thấy rõ sự
khác biệt sinh trưởng cây cá thể về chiều cao và đường kính.
3.3.2.4 Sinh khối khô cây tràm
Sinh khối khô trung bình của cây tràm ở các độ ngập khác nhau không có sự
khác biệt. Ở độ ngập thấp < 30 cm, sinh khối khô trung bình là 62,7 kg/cây ±32,7; độ
ngập 30 – 60 cm là 61,6 kg/cây ±27,7 và độ ngập hơn 60 cm là 66,5 kg/cây ±31,6.
3.3.2.5 Sinh khối của rừng tràm

- 21 -


Từ số liệu của từng cây tràm trong các nghiệm thức, sinh khối rừng tràm ở
VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau được tính toán. Sinh khối bình quân của rừng Tràm
VQG U Minh Hạ từ 75 - 91 tấn/ha. Sinh khối rừng Tràm ở độ ngập thấp (<30 cm)
cho giá trị cao nhất (91 tấn/ha), thấp nhất ở độ ngập >60 cm (75 tấn/ha) và ở độ
ngập 30 – 60 cm là 85 tấn/ha. Nếu so với các rừng tràm khác ở ĐBSCL đã được
các tác giả khác nghiên cứu thì sinh khối khô rừng Tràm ở VQG U Minh Hạ, tỉnh
Cà Mau thấp hơn các nơi khác như xã Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng

Tháp là 157,09 ± 19,41 tấn/ha (Viên Ngọc Nam và Lư Ngọc Trâm Anh, 2011) hay
ở rừng Tràm Trà Sư là 240,68±26,55 tấn/ha (Nguyễn Minh Hoàng và Viên Ngọc
Nam, 2016) và cao hơn rừng Tràm trồng ở tỉnh Sóc Trăng là 64,04 ± 9,55 tấn/ha
(Nguyễn Khánh Toàn và Viên Ngọc Nam, 2017).
Trần Văn Thắng và Trần Quang Bảo (2011) nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ
ngập nước đến sinh trưởng cây tràm và đa dạng thực vật ở VQG U Minh Thượng, tỉnh
Kiên Giang cũng cho rằng: Sinh trưởng về đường kính và chiều cao của cây tràm tái
sinh ở mực nước ngập tối đa 25 cm là tốt nhất, khi mực nước ngập tối đa từ 50 cm trở
lên tràm có hiện tượng đỗ ngã và chết. Ở những khu vực nước ngập sâu 75 cm trở lên tỉ
lệ cây tốt không vượt quá 60%. Từ kết quả sinh khối rừng như trên cho thấy, số liệu
sinh khối rừng tràm ở VQG U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau trong các điều kiện ngập nước
khác nhau có thể bị ảnh hưởng bởi mật độ, chiều cao và đường kính của cây tràm. Như
vậy, nếu muốn cây rừng sinh trưởng tốt và rừng đạt sinh khối cao thì việc giữ nước ở
các độ ngập hơn 60 cm với thời gian hơn 6 tháng/năm cần được điều chỉnh lại cho hợp
lý hơn.

- 22 -


×