Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.36 KB, 51 trang )

1
A. MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước
nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây
là một hoạt động tư pháp khá phức tạp liên quan đến quyền cơ bản của con
người và chính sách hình sự của một quốc gia đối với người vi phạm pháp
luật hình sự, do nhiều cơ quan chức năng, nhiều tổ chức chính trị, xã hội phối
hợp thực hiện mà nòng cốt là lực lượng Công an nhân dân.
Những năm qua công tác phòng, chống tội phạm đã được các cấp, các
ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao; các cơ quan bảo vệ pháp luật đã
tiến hành nhiều biện pháp đấu tranh, ngăn chặn. Đặc biệt, kể từ khi Chính phủ
ban hành Nghị quyết 09 và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm
(31/7/1988), công tác phòng ngừa đấu tranh chống các loại tội phạm đã có
những chuyển biến tích cực, các loại tội phạm từng bước được kiềm chế.
Trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 400 vụ phạm tội các loại (trong đó có
khoảng 300 vụ phạm tội về trật tự xã hội, 30 vụ phạm tội về kinh tế, 70 vụ
phạm tội về ma túy). So với các tỉnh lân cận thì tình hình tội phạm ở Hà
Giang chỉ ở mức trung bình. Một số loại tội phạm hình sự nghiêm trọng nhìn
chung có giảm (năm 2015 giảm 13,48% so với năm 2014; so với năm 2013
giảm 7,15% về số vụ. Có những tội giảm đáng kể như: tội phạm giết người
giảm 28,33%, cướp giảm 17,93%, mua bán người, chiếm đoạt trẻ em giảm
21.43%....) nhưng chưa cơ bản, chưa vững chắc. Tình hình hoạt động của các
loại tội phạm nói chung vẫn còn diễn biến phức tạp.
Tính đến tháng 06 tháng đầu năm 2016, số chấp hành xong án phạt tù,
đặc xá trở về địa phương (theo số liệu điều tra khảo sát từ 2002 đến 06 tháng
đầu năm 2016) là 2866 người, trong đó: Số người được xóa án tích là 1734


2
người, số tái phạm tội là 181 người, hiện cơ quan thi hành án hình sự đang


quản lý 1180 người. Số người bị kết án tù là 270 người (trong đó: 45 người
bản án chưa có hiệu lực pháp luật; 184 người bản án đã có hiệu lực nhưng
chưa có quyết định thi hành án; 41 người chờ thi hành án.
Tình hình trên đã gây ra không ít khó khăn, phức tạp cho công tác thi
hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên, với quyết tâm và nỗ
lực các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ thi hành án hình sự đã khắc phục
mọi khó khăn để đạt được những kết quả nhất định.
Thời gian tới, công tác thi hành án hình sự sẽ còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc, số lượng đối tượng phải tổ chức quản lý, giám sát, giáo dục nhiều
và có xu hướng tăng, việc xây dựng hệ thống cơ quan thi hành án hình sự và
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn triển khai thực hiện
công tác thi hành án hình sự; cơ cấu tổ chức, lực lượng, phương tiện, cơ sở
vật chất phục vụ công tác thi hành án hình sự còn nhiều vấn đề bất cập cần tập
trung giải quyết. Theo Luật Thi hành án hình sự, mọi đối tượng chấp hành án
hình sự phải được theo dõi, quản lý, giám sát chặt chẽ, định kỳ phải xem xét,
đánh giá, nhận xét quá trình chấp hành án để làm cơ sở cho việc xét giảm thời
hạn chấp hành án, đặc xá, miễn, giảm thời hạn chấp hành quyết định tư pháp.
Trước yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và các căn cứ pháp lý nêu trên cho
thấy việc xây dựng Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự
trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016 - 2020” là yêu cầu tất yếu khách
quan và cần thiết.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của đề án nhằm đưa hoạt động thi hành án hình sự ngày càng
đi vào nề nếp, hiệu quả phải được nâng cao rõ rệt, toàn diện, có hệ thống, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo


3
người đang chấp hành án hình sự trong trại tạm giam, nhà tạm giữ và ngoài xã

hội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
2.2.1. Về đối tượng chấp hành án hình sự
100% các bản án, quyết định thi hành án có hiệu lực pháp luật của Tòa
án phải được thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.
100% người chấp hành án hình sự trong các trại giam, trại tạm giam,
nhà tạm giữ và ngoài xã hội được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó chấp hành tốt các quy định của
pháp luật, quy chế trại tạm giam, nhà tạm giữ; phấn đấu học tập, lao động cải
tạo trở thành người có ích cho xã hội.
100% người đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phải được
quản lý, giáo dực, theo dõi chặt chẽ, báo cáo đầy đủ, kịp thời khi có yêu cầu
của cơ quan có thẩm quyền; nhanh chóng tổ chức áp giải người chấp hành án
khi có quyết định thi hành bản án của Tòa án.
Đến hết năm 2016, 100% người chấp hành án treo, cải tạo không giam
giữ, cấm cư trú, quản chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định; người chấp hành biện pháp tư pháp, giáo dục tại xã,
phường, thị trấn phải được lập hồ sơ đầy đủ và tổ chức quản lý, giám sát, giáo
dục theo đúng quy định của Luật Thi hành án hình sự. Thực hiện tốt việc
thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất theo đúng thời gian quy định.
100% các bản án, quyết định thi hành án tử hình được thực thi nghiêm
minh, đúng pháp luật.
2.2.2. Về phía cơ quan được giao nhiệm vụ thi hành án hình sự
100% lãnh đạo, chỉ huy, thủ trưởng các sở, ban ngành có liên quan, cán
bộ, sỹ quan, chiến sỹ và những người trực tiếp được giao nhiệm vụ thi hành
án hình sự phải nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.


4
Nâng cao năng lực, trách nhiệm của người làm công tác tuyên truyền,

phổ biến giáo dục pháp luật. Phấn đấu đến hết năm 2018, có 80% số người
làm công tác này được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, cập nhật kiến thức pháp
luật và phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thi hành án hình sự
Hoàn thành việc xây dựng, cập nhật thông tin và sử dụng có hiệu quả
phần mềm cơ sở dữ liệu về đối tượng thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà
Giang, phục vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước về thi hành án hình sự và
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh.
Đến năm 2020, công tác thi hành án hình sự cơ bản trở thành một trong
những nhiệm vụ thường xuyên, nề nếp của các cơ quan chức năng có liên
quan, đảm bảo thống nhất, chặt chẽ, đồng bộ, không sót lọt đối tượng ngay từ
khi bản án, quyết định thi hành án có hiệu lực pháp luật cho đến khi đối tượng
chấp hành xong hình phạt.
3. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
3.1. Đối tượng
Đối tượng của thi hành án hình sự là người chấp hành các bản án, quyết
định thi hành án hình sự và quyết định tư pháp và phải chịu hình phạt theo
bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Bao gồm: Người bị kết án tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn, án
treo, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công
dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Người thi hành biện pháp tư pháp: Bắt buộc chữa bệnh; giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, trục xuất.
3.2. Phạm vi về không gian
Đề án được triển khai ở tất cả các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Hà
Giang. Trong đó, trọng điểm ở các vùng sau:


5
- Vùng có nhiều biểu hiện phức tạp về an ninh trật tự, tỉ lệ đối tượng tái
phạm tội cao; điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; tỉ lệ thất

nghiệp cao.
- Vùng có khu đô thị, khu công nghiệp, khu tập trung đông dân cư, địa
bàn có nhiều đối tượng thi hành án hình sự, khu vực, địa bàn trọng điểm về an
ninh trật tự như: Thành phố Hà Giang; các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên,
Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh.
3.3. Thời gian thực hiện Đề án
Từ năm 2016 đến năm 2020
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1. Cơ sở khoa học, lý luận
1.1.1. Khái quát về thi hành án hình sự
a) Khái niệm
Án hình sự: Theo từ điển bách khoa Công an nhân dân thì: Án hình sự
là thuật ngữ dùng trong ngành Công an để chỉ án xử những tội phạm hình sự,
nhằm phân biệt với án chính trị hoặc dân sự
Thi hành án hình sự: Theo từ điểm bách khoa Công an nhân dân năm
2005 thì thi hành án hình sự là việc thi hành những bản án và quyết định về
hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (quy định tại điều 255 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003)
Như vậy, có thể hiểu Thi hành án hình sự là việc cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động theo quy định của pháp luật đối với
người chấp hành án nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định thi hành án hình sự
của Tòa án đã có hiệu lực thi hành được thực thi nghiêm minh.
b) Các hình thức thi hành án hình sự


6
Luật thi hành án hình sự 2010 định nghĩa các loại án phạt như sau:
- Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy
định của luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục,

cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội.
- Thi hành án tử hình là việc cơ quan có thẩm quyền tước bỏ quyền
sống của người chấp hành án theo quy định của luật này.
- Thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định
của luật này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo trong thời
gian thử thách.
- Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có
thẩm quyền theo quy định của luật này giám sát, giáo dục người chấp hành án
tại xã, phường, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nước theo bản án
đã có hiệu lực pháp luật.
- Thi hành án phạt cấm cư trú là việc cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của luật này buộc người chấp hành án không được tạm trú,
thường trú ở một số địa phương nhất định theo bản án đã có hiệu lực pháp
luật.
- Thi hành án phạt quản chế là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của luật này buộc người chấp hành án phải cư trú, làm ăn sinh sống
ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền địa
phương và nhân dân địa phương theo bản án đã có hiệu lực pháp luật
- Thi hành án phạt trục xuất là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của luật này buộc người chấp hành án phải rời khỏi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo bản án đã có hiệu lực pháp luật
- Thi hành án phạt tước một số quyền công dân là việc cơ quan, người
có thẩm quyền theo quy định của luật này tước bỏ một hoặc một số quyền
công dân của người chấp hành án theo bản án đã có hiệu lực pháp luật


7
- Thi hành án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của
luật này buộc người chấp hành án không được đảm nhiệm chức vụ, hành nghề

hoặc làm công việc nhất định theo bản án đã có hiệu lực pháp luật
- Thi hành biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là việc cơ quan, người
có thẩm quyền theo quy định của luật này buộc người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội hoặc người đang chấp hành án bị bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhân thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình phải điều trị tại cơ sở chữa bệnh bắt buộc theo bản án, quyết định của
tòa án, viện kiểm sát
- Thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là việc cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của luật này buộc người chưa thành
niên phạm tội nhưng không phải chịu hình phạt phải chịu sự giám sát, giáo
dục tại xã, phường, thị trấn theo bản án, quyết định của tòa án.
- Thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng là việc cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của luật này đưa người chưa thành
niên phạm tội nhưng không phải chịu hành phạt vào trường giáo dưỡng để
giáo dục theo bản án, quyết định của tòa án.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành án hình sự
Đánh giá hiệu quả thi hành án hình sự căn cứ trên các tiêu chí như:
-Số lượng các bản án, quyết định thi hành án có hiệu lực pháp luật của
Tòa án phải được thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.
- Số người chấp hành án hình sự trong các trại giam, trại tạm giam, nhà
tạm giữ và ngoài xã hội được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xác
định rõ quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó chấp hành tốt các quy định của
pháp luật, quy chế trại tạm giam, nhà tạm giữ; phấn đấu học tập, lao động cải
tạo trở thành người có ích cho xã hội.


8
- Số người đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phải được quản
lý, giáo dực, theo dõi chặt chẽ, báo cáo đầy đủ, kịp thời khi có yêu cầu của cơ
quan có thẩm quyền; nhanh chóng tổ chức áp giải người chấp hành án khi có

quyết định thi hành bản án của Tòa án.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý của việc xây dựng Đề án
Công tác thi hành án hình sự nhằm mục đích cảm hóa tư tưởng, giáo
dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động làm cho người chấp hành án trở
thành công dân có ích cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, giáo dục phòng
ngừa vi phạm pháp luật nói chung. Vì thế, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm
đến việc ban hành, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, hệ thống pháp
luật để đảm bảo các bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án đều được thực
thi.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương khoá VII về
việc “bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án, quyết định của Toà
án”.
Ngày 02 tháng 06 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đưa ra mục tiêu,
nhiệm vụ: “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và thủ tục
tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội; giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm; từng bước thực
hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức
không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”,
“Từng bước thực hiện việc công khai hóa các bản án, trừ những bản án hình
sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục.
Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật phải


9
được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của
tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”,

“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”.
Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2015 quy định: “Hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo
dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa
họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp
luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”, “Hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này,
do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân
thương mại đó”.
Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2015 quy định “Bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức,
cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”, “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực hiện
yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết
định của Tòa án”.
Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đòi
hỏi của thực tiễn. Ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội Nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án hình sự,
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2011, đây là cơ sở pháp lý quan trọng,


10
cao nhất, đầy đủ nhất từ trước đến nay về công tác thi hành án hình sự. Bên
cạnh đó nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật đã được
ban hành như:
- Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 của Chính phủ quy định
các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong

án tù.
- Nghị định 10/2012/NĐ-CP hướng dẫn biện pháp tư pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội
- Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban
hành quy chế về tạm giữ, tạm giam (Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày
27/11/2002 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế tạm giữ,
tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998
của Chính phủ).
- Thông tư 25/2012/TT-BCA ngày 02/5/2012 của Bộ trưởng Bộ Công
an quy định Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Cơ quan quản lý thi hành án hình
sự, Cơ quan thi hành án hình sự trong Công an nhân dân
- Thông tư số: 71/2012/TT-BCA ngày 27 tháng 11 năm 2012 Bộ Công
an
quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa các đơn vị công
an nhân dân trong việc thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với
người chấp hành xong án phạt tù
- Thông tư số: 39/2013/TT-BCA ngày 25 tháng 09 năm 2013 Bộ Công
an quy định về giáo dục và tư vấn cho phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt

- Thông tư liên tịch số: 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTCVKSNDTC ngày 15 tháng 05 năm 2013 Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Tòa


11
án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các
quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân
- Thông tư liên tịch số: 11/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTCTANDTC ngày 06 tháng 11 năm 2013 Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tư
pháp - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động thi hành án
hình sự.
Luật Thi hành án hình sự (từ Điều 10 đến Điều 20) quy định về hệ thống

tổ chức thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền
trong thi hành án hình sự, với những nội dung cơ bản sau:
- Hệ thống tổ chức thi hành án hình sự, theo quy định tại Điều 10, có 3
loại:
+ Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng;
+ Cơ quan thi hành án hình sự bao gồm trại giam thuộc Bộ Công an, trại
giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu; cơ quan thi hành án
hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan thi hành án
hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cơ quan thi hành án
hình sự quân khu và tương đương;
+ Cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự bao gồm trại
tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm
giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu; Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn; đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương.
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này:


12
+ Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng được quy định cụ thể tại các điều 11, 12;
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
tỉnh, cấp quân khu, cấp huyện được quy định cụ thể tại các điều 13, 14, 15 của
Luật.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của trại giam (Điều 16). Theo đó, trại giam
được xác định là cơ quan thi hành án phạt tù có 12 nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể (khoản 1 Điều 16).
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi
hành án hình sự được quy định cụ thể tại các điều 17, 18, 19 của Luật
Trại tạm giam (Đ17): có 02 nhiệm vụ:

. Tiếp nhận, quản lý giam giữ người bị kết án tử hình.
. Trực tiếp quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân chấp hành án
tại trại tạm giam theo quy định của pháp luật.
UBND xã (Đ18): thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về giám sát, giáo dục
người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một
số quyền công dân và án treo. Công an cấp xã tham mưu, giúp Ủy ban nhân
dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật
này.
Tuy nhiên, Luật Thi hành án hình sự vẫn chưa thực sự đi vào thực tiễn,
nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật nói riêng, công
tác thi hành án hình sự nói chung vẫn chưa đầy đủ. Do đó, để chủ động triển
khai thực hiện Luật cũng như nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về công tác
thi hành án hình sự cần thiết phải xây dựng đề án


13
1.3. Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng Đề án
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
trong thời gian qua ở Hà Giang đã có những thay đổi và chuyển biến tích cực,
kinh tế phát triển và tăng trưởng, an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã
hội được đảm bảo, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Bên cạnh
những thành tựu quan trọng nói trên, việc hội nhập và chuyển đổi nền kinh tế
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với những hạn chế
về công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu
cực ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, đáng chú ý là:
- Hoạt động của tội phạm có tổ chức, hình thành các băng, ổ nhóm có
sử dụng vũ khí, hoạt động lưu động, liên tục gây án nhất là trên tuyến biên
giới, tuy không công khai, trắng trợn, lộng hành như trước đây nhưng vẫn
diễn biến phức tạp, có sự móc nối băng nhóm, hoạt động trên nhiều lĩnh vực,

liên quan đến nhiều địa bàn. Các loại tội phạm hình sự nguy hiểm như: giết
người; hiếp dâm; chống người thi hành công vụ; mua bán phụ nữ, trẻ em; tội
phạm xâm hại trẻ em; tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên… còn xảy ra.
Tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội giảm 1,42% so với năm 2014
nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao (28,5%).
- Các loại tội phạm mới hoạt động xuyên quốc gia, có yếu tố nước
ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao… xuất hiện và có chiều hướng gia
tăng, phương thức và thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, thiệt hại gây ra
ngày càng lớn. Đã xuất hiện một số loại tội phạm mới mà trước đây không có
hoặc rất ít như tội phạm là người có chức sắc trong tôn giáo, dân tộc, tội phạm
mang tính quốc tế, người nước ngoài…
- Tội phạm về buôn bán, vận chuyển, sử dụng trái phép các chất ma túy,
đặc biệt là ma túy tổng hợp diễn ra ở nhiều nơi. Đã phát hiện những đường
dây mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy lớn, nhiều người tham gia,


14
trong đó đối tượng người nước ngoài. Số người nghiện ma túy phạm tội, đặc
biệt là ở độ tuổi thanh thiếu niên chiếm tỷ lệ ngày càng tăng. Hiện cả tỉnh có
khoảng trên 700 nghiện ma túy, trong đó gần 40% đã được đưa vào trung tâm
cai nghiện. Bên cạnh đó tình trạng mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện trong
nội bộ nhân dân ở một số địa phương (đặc biệt là khiếu kiện, tranh chấp đất
đai) đã hình thành những điểm nóng ảnh hưởng đến an ninh trật tự. Tệ nạn xã
hội chưa giảm đã tác động không nhỏ đến việc phát triển kinh tế của địa
phương.
Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước
nhằm đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án ra thi
hành trên thực tế. Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng trong các hoạt
động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp luật, trong đó buộc người bị xử
phạt tù phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã quyết định. Một bản án, quyết

định của Toà án có được thi hành nghiêm chỉnh hay không là tuỳ thuộc chủ
yếu vào giai đoạn này. Nếu người chấp hành án không tự nguyện chấp hành
án hoặc bỏ trốn thì việc kết tội họ chỉ mãi là trên văn bản, còn nếu họ tự
nguyện nghiêm chỉnh chấp hành đã thể hiện trật tự kỷ cương xã hội và quyền
lực Nhà nước được tôn trọng. Thực tế hiện nay có nhiều bản án, quyết định
hình sự có hiệu lực pháp luật khi đưa ra thi hành vẫn chưa được thi hành bởi
nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân xuất phát từ phía người chấp hành án, có
nguyên nhân xuất phát từ phía các cơ quan thi hành pháp luật và cũng có
nguyên nhân bắt nguồn từ các quy định của pháp luật đã làm cho hiệu lực
quản lý của Nhà nước bằng pháp luật bị giám sút.
Trước thực trạng đó đặt ra một câu hỏi làm gì để nâng cao chất lượng
công tác thi hành án hình sự, làm gì để các bản án, quyết định hình sự của Toà
án có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành trên thực tế triệt để, đó


15
đang trở thành vấn đề đáng lo ngại của các cơ quan thực thi pháp luật nói
riêng và là mối quan tâm của xã hội nói chung.
2. NỘI DUNG THỰC HIỆN CỦA ĐỀ ÁN
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Hà giang là tỉnh miền núi, có địa hình phức tạp, núi cao, vực sâu, dân
cư phân bố thưa thớt, kinh tế phát triển không đồng đều, giao thông đi, lại khó
khăn, nhưng là địa bàn chiến lược quan trọng về an ninh - quốc phòng; có
điều kiện, tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội. Diện tích tự nhiên 7.884,3
km2, gồm 11 đơn vị hành chính huyện, thành phố, có 195 đơn vị hành chính
cấp xã (05 phường, 13 thị trấn, 177 xã; (trong đó có 34 xã, giáp biên giới
Việt- Trung). Tính đến ngày 31/12/2015, có 747.575 khẩu, mật độ dân số
94.818 người/km2. Có 19 dân tộc cùng sinh sống, nhìn chung điều kiện kinh
tế, xã hội còn nhiều khó khăn; một số nơi trình độ dân trí còn thấp, nhất là các
vùng miền núi, rẻo cao; tình trạng thất nghiệp còn nhiều.

Trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực có những diến biến
phức tạp, khó lường cả về kinh tế và chính trị. Hoạt động khủng bố, xung đột
vũ trang, can thiệp lật đổ, tranh chấp lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi và ngày
càng phức tạp; khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là tâm điểm cạnh
tranh chiến lược và kiềm chế lẫn nhau giữa các nước lớn; tranh chấp chủ
quyền ở biển Đông, biển Hoa Đông diễn ra phức tạp, căng thẳng… kinh tế thế
giới có xu hướng phục hồi, nhưng tốc độ chậm, còn gặp nhiều khó khăn,
thách thức. Ở trong nước bên cạnh những thuận lợi cơ bản của thành tựu gần
30 năm đổi mới, tình hình kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, chịu sự tác
động không nhỏ từ mặt trái của nền kinh tế thị trường; các thế lực thù địch
đẩy mạnh âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”, lợi dụng những vấn đề nhạy cảm có liên quan đến tôn giáo,
dân tộc, dân chủ, nhân quyền để kích động biểu tình gây rối, bạo loạn lật đổ


16
nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội cơ bản được ổn định, song trên một số lĩnh vực vẫn còn xảy ra những
vấn đề phức tạp. Các thế lực thù địch, bọn phản động, đối tượng cơ hội chính
trị lợi dụng các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tuyên truyền lôi
kéo, kích động khiếu kiện đông người, gây rối an ninh trật tự; tình trạng nhân
dân khu vực biên giới xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc lao động tự do
tăng mạnh; tình hình liên quan đến an ninh tôn giáo, dân tộc, mâu thuẫn tranh
chấp, khiếu kiện diễn biến phức tạp. Tình hình tội phạm có diễn biến phức
tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng như: Tội phạm giết người
do nguyên nhân xã hội, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, tội phạm về
ma túy; tệ nạn cờ bạc, mại dâm có xu hướng lan rộng, gây bức xúc trong nhân
dân.

Tình hình trên, là những thách thức không nhỏ, ảnh hưởng đến tư tưởng
chính trị, tinh thần phấn đấu rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
và chất lượng công tác chuyên môn của đảng viên, cán bộ chiến sỹ. Từ đó cho
thấy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng, góp phần xây dựng chi bộ,
đơn vị luôn “Trong sạch, vững mạnh”, thì việc “Nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu chi bộ đảng trong lực lượng Công an nhân dân nói chung, Chi
bộ phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an tỉnh Hà
Giang nói riêng thực sự là rất cần thiết, cấp bách, không những trong thời
điểm hiện tại và cả về sau này.
* Những yếu tố tác động tới việc xây dựng và thực hiện đề án
- Thuận lợi
+ Luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ đảng
ủy - Giám đốc Công an tỉnh, sự phối hợp trong các lĩnh vực công tác giữa đơn


17
vị với các đơn vị nghiệp vụ, Công an các huyện thành phố và các ban, ngành
liên quan.
+ Sự ổn định và phát triển về chính trị, kinh tế, xã hội trong tỉnh đã có
sự tác động tích cực đến sự phát triển, ổn định của đơn vị.
+ Sự đoàn kết, thống nhất của tập thể lãnh đạo và cán bộ, đảng viên
luôn tạo ra sức mạnh tổng hợp, thi đua hoàn thành nhiệm vụ chính trị, là yếu
tố quan trọng đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị quyết chi
bộ.
+ Đảng viên chi bộ chiếm tỷ lệ tương đối cao 27/39, đội ngũ cán bộ
chiến sỹ đa số là trẻ, có trình độ, nhiệt tình, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
luôn vượt mọi khó khăn, thiếu thốn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Khó khăn
+ Đảng viên, cán bộ chiến sỹ trong đơn vị, chi bộ đa số còn trẻ kinh
nghiệm công tác chuyên môn còn hạn chế, trình độ không đồng đều, đa số

chưa qua đào tạo chuyên môn về lĩnh vực thi hành án hình sự và hỗ trợ tư
pháp, do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác.
+ Sự khủng hoảng suy thoái kinh kế toàn cầu, kinh tế trong nước, kinh
tế trong tỉnh, ít nhiều đã ảnh hưởng đến sự phát triển của đơn vị và đời sống
của đảng viên, cán bộ chiến sỹ trong đơn vị.
+ Cơ sở vật chất, phương tiện, công cụ hỗ trợ, máy móc, các trang thiết
bị phục công tác của đơn vị còn nhiều khó khăn, thiếu thốn chưa đáp ứng so
với yêu cầu nhiệm vụ.
+ Chế độ chính sách, tiền lương mà đảng viên, cán bộ chiến sỹ được
thụ hưởng ở nhiều bộ phận còn thấp, do vậy đời sống của cán bộ đảng viên
còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng phẫn đấu rèn
luyện vươn lên của cán bộ, đảng viên.


18
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết
2.2.1. Cơ cấu tổ chức Cơ quan thi hành án hình sự
Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Hà Giang được thành lập
ngày 01/4/2011, do 01 đồng chí phó Giám đốc Công an tỉnh là thủ trưởng cơ
quan thi hành án, đồng chí trưởng phòng PC81 là phó thủ trưởng thường trực,
01 đồng chí phó trưởng phòng PC81 và đồng chí giám thị trại tạm giam là
phó thủ trưởng.
Cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh (Phòng PC81 - là cơ quan thường
trực): gồm 39 đồng chí, trong đó: thạc sỹ 02; Đại học: 11; Cao đẳng: 03;
Trung cấp: 11, Chiến sỹ phục vụ có thời hạn: 12
Trại tạm giam, tổng quân số 123 đồng chí, trong đó: Đại học 29; Trung
cấp: 38; Chưa qua đào tạo: 8; Chiến sỹ phục vụ có thời hạn: 48
Cơ quan thi hành án cấp huyện (gồm 11 huyện, thành phố) gồm 162
đồng chí, trong đó: Đại học 29; Trung cấp: 51; chiến sỹ phục vụ có thời hạn:
82 đồng chí

Chức năng, nhiệm vụ:
Tham mưu cho Ban Giám đốc Công an tỉnh, quản lý, chỉ đạo công tác
thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác
thi hành án hình sự đối với trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự cấp
huyện; tổng kết công tác thi hành án hình sự và thực hiện chế độ thống kê,
báo cáo theo hướng dẫn cửa cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ
Công an. Tiếp nhận quyết định thi hành án hình sự của Tòa án có thẩm quyền;
hoàn tất thủ tục hồ sơ và danh sách người chấp hành án phạt tù để báo cáo, đề
nghị cơ quan, người có thẩm quyền quyết định. Đề nghị Tòa án có thẩm
quyền xem xét, quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, giảm thời hạn
chấp hành án phạt tù. Tổ chức thi hành án trục xuất; tham gia thi hành án tử
hình; quản lý số phạm nhân phục vụ việc tạm giam, tạm giữ theo quy định


19
của luật thi hành án hình sự. Ra quyết định truy nã và phối hợp tổ chức lực
lượng truy bắt phạm nhân bỏ trốn khỏi trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án
hình sự cấp huyện, người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù,
người chấp hành án trục xuất bỏ trốn. Quyết định trích xuất hoặc thực hiện
lệnh trích xuất theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. Cấp giấy
chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt theo thẩm quyền. Giải quyết khiếu
nại, tố cáo về thi hành án hình sự theo quy định của luật thi hành án hình sự
Hướng dẫn, kiểm tra Công an các huyện thành phố thực hiện tốt công
tác thi hành án hình sự và hòa nhập cộng đồng; công tác quản lý tạm giữ, tạm
giam; công tác hỗ trợ tư pháp và quản lý kho vật chứng.
Các cơ quan phối hợp thực hiện công tác thi hành án hình sự:
- Tòa án nhân dân
- Viện Kiểm sát nhân dân
- Sở Tư pháp
- Sở Y tế

- Sở Tài chính
- Sở Lao động Thương binh và Xã hội
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Thông tin và Truyền thông
- Sở Kế hoạch Đầu tư
- Đài phát thanh và Truyền hình tỉnh Hà Giang
- Báo Hà Giang
- Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh và các tổ chức thành viên
- Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh
- UBND các huyện, thành phố
- Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
2.2.2. Thực trạng thi hành án hình sự tại tỉnh Hà Giang


20
Năm năm qua (2011 - 2015), cơ quan điều tra các cấp đã điều tra khám
phá 675 vụ phạm tội các loại, triệt phá 83 băng nhóm tội phạm hình sự gồm
136 đối tượng, lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục 18 đối tượng, trường giáo
dưỡng 5 đối tượng. Viện Kiểm sát các cấp đã truy tố 643 vụ với 752 bị can.
Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 621 vụ án với 708 bị cáo (tuyên
phạt 5 bị cáo tử hình; 47 bị cáo bị tù chung thân; 83 bị cáo bị tù từ trên 10
năm đến 20 năm; 210 bị cáo bị tù từ trên 7 năm đến 10 năm và 368 bị cáo bị
tù từ 7 năm trở xuống).
Thi hành án phạt khác ngoài hình phạt tù là 908, trong đó: phạt tù cho
hưởng án treo 848; cải tạo không giam giữ: 47; thi hành án cấm đi khỏi nơi cư
trú 03; quản chế: 01; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định 02; số người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh 01; số
người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dục và giáo dưỡng 06 người.
Về tình hình và kết quả thi hành hình phạt tù:
- Về việc thực hiện chế độ quản lý tạm giam, tạm giữ, phạm nhân.

Toàn bộ số người bị tạm giữ, tạm giam, người bị kết án tù đã được đưa
vào nhà tạm giữ, trại tạm giam đúng trình tự, thủ tục pháp luật; thi hành các
biện pháp tư pháp tước bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội mới, giảm số
phạm nhân trốn khỏi nơi giam giữ, bảo vệ tuyệt đối an toàn nhà tạm giữ, trại
tạm giam, góp phần quan trọng vào công tác phòng chống tội phạm, giữ vững
trật tự kỷ cương xã hội, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Thường xuyên làm tốt công tác quản lý giam giữ; quản lý phạm nhân được
kiểm tra, chấn chỉnh thường xuyên và toàn diện nên mặc dù số lượng phạm
nhân tăng, tính chất phạm tội nguy hiểm nhưng trại tạm giam vẫn được bảo vệ
tuyệt đối an toàn, không xảy ra bạo động, gây rối, đánh tháo phạm nhân và
các tình huống đột xuất, bất ngờ khác; ngăn chặn có hiệu quả các vụ việc như
đánh nhau, trốn, tự sát trong trại tạm giam, nhà tạm giữ. Đổi mới công tác


21
quản lý hạn chế đáng kể những sai sót, tồn tại trong hoạt động giam giữ và thi
hành án.
- Về việc thực hiện chế độ giáo dục, cải tạo phạm nhân
Thực hiện nghiêm túc chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước,
trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng trại tạm giam vẫn cố gắng thực
hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quy định về ăn, mặc, sinh hoạt, chữa bệnh cho
phạm nhân. Tổ chức cho phạm nhân lao động làm ra của cải, vật chất cải
thiện và nâng cao đời sống. Nơi ở của phạm nhân sạch sẽ, thoáng mát đảm
bảo đúng quy định của pháp luật. Công tác chăm sóc sức khỏe cho can phạm
nhân cũng có nhiều tiến bộ, đã khám chữa bệnh cho hàng trăm lượt phạm
nhân, không để xảy ra dịch bệnh và suy kiệt.
Công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân có nhiều tiến bộ, mang ý nghĩa
nhân văn, thể hiện sâu sắc chính sách nhân đạo của Đảng và nhà nước. Thực
hiện phương châm: “Trấn áp kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với
giáo dục, cải tạo. Giáo dục bằng chính trị kết hợp với giáo dục bằng lao động,

dạy văn hóa, dạy nghề cho phạm nhân” những năm qua Công an tỉnh đã phối
hợp chặt chẽ với các ngành chức năng, các cấp chính quyền, các đoàn thể xã
hội từ tỉnh đến cơ sở tổ chức tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng,
giáo dục pháp luật, giáo dục công dân cho trên 200 lượt phạm nhân; xóa mù
chữ cho trên 78% số phạm nhân không biết chữ; tổ chức nhiều hoạt động
phong trào như thi tay nghề, hội diễn văn nghệ, thể thao, thi tìm hiểu các Bộ
luật Dân sự, Hình sự, thành lập các tổ hòa giải, hội đồng tự quản trong nội bộ
phạm nhân, xây dựng quy chế dân chủ trong trại tạm giam…Đầu tư, nâng cấp
các cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục, cải tạo. Mở trung tâm dạy
nghề và tổ chức dạy nghề thủ công cho hàng trăm lượt phạm nhân tạo điều
kiện cho họ tìm kiếm việc làm và ổn định cuộc sống khi ra trại.


22
Thực hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, từ năm 20112015, đã phối hợp xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho 322 phạm
nhân, làm thủ tục và đề xuất đặc xá và tha tù trước thời hạn cho 289 phạm
nhân.
- Cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện phục vụ công tác thi hành hình
phạt tù từng bước được tăng cường, bảo đảm phục vụ yêu cầu giam giữ, giáo
dục, cải tạo phạm nhân. Hiện tại trại tạm giam và nhà tạm giữ đều có điện
lưới quốc gia, hệ thống giao, phương tiện thông tin liên lạc thông suốt;
phương tiện phục vụ công tác, chiến đấu, vận tải hàng hóa, cấp cứu phạm
nhân từng bước bổ sung và trang bị hoàn thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, công tác tổ chức và
thi hành án phạt tù cũng còn nhiều vấn đề cần đặt ra để xem xét tháo gỡ. Đó
là:
+ Công tác quản lý nhà nước về thi hành án phạt tù còn nhiều sơ hở,
thiếu sót, số đối tượng có án phạt tù nhưng đang còn ở ngoài xã hội, số trốn
thi hành án, trốn trại từ trước đến nay chưa được giải quyết, thanh loại, truy
nã triệt để.

+ Chất lượng công tác giáo dục cải tạo phạm nhân có tiến bộ song vẫn
còn thấp so với yêu cầu. Nội dung, chương trình giáo dục, cải tạo phạm nhân
còn bất cập; việc hướng nghiệp dạy nghề cho phạm nhân chưa được đầu tư
đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra, nhiều phạm nhân ra trại
không có điều kiện sử dụng ngành nghề đã được trang bị. Sự phối hợp Công
an, chính quyền, các tổ chức xã hội của địa phương trong việc quản lý, giúp
đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng thiếu đồng bộ,
nhiều khi mới chỉ dừng lại ở mức độ trao đổi, thông báo trên giấy tờ dẫn đến
tình trạng tái phạm còn nhiều (Theo số liệu khảo sát năm 2015 của tỉnh thì tỷ
lệ này chiếm khoảng 10 đến 13%).


23
+ Công tác tổ chức cán bộ đã được củng cố, tăng cường nhưng so với
quy định thì biên chế của lực lượng thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp vẫn
còn thiếu, nhất là cán bộ quản giáo phải phụ trách hàng chục phạm nhân, có
thời gian quản giáo phải kiêm nhiệm cả tuần tra, canh gác, dẫn giải. Tình
trạng làm thêm ca, thêm giờ là phổ biến, dẫn tới vi phạm chế độ lao động, ảnh
hưởng đến quyền lợi, sinh hoạt và đời sống của cán bộ, chiến sỹ. Các biểu
hiện vi phạm chế độ, nguyên tắc quản lý phậm nhân tuy không nhiều nhưng
vẫn xảy ra, còn để phạm nhân trốn, gây mất trật tự; chế độ lao động và học
tập của phạm nhân có nơi, có lúc chưa nghiêm túc
+ Bên cạnh đó các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thi hành án
hình sự mới chỉ quan tâm đến việc thi hành án phạt tù, tử hình, trục xuất mà
chưa quan tâm nhiều đến việc tổ chức thi hành các án phạt khác, như: án treo,
cải tạo không giam giữ, quản chế, cấm cư trú, giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định… các loại án phạt này tuy đã được giao cho chính quyền địa phương nơi
người bị kết án cư trú tổ chức thực hiện, nhưng nhìn chung chưa được quan
tâm đúng mức, còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu sót; một số chính quyền cơ sở

chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình, thậm chí còn chủ quan coi
đây là nhiệm vụ của ngành Công an; công tác phối hợp chưa được chú trọng
dẫn đến việc quản lý người chấp hành án hình sự còn lỏng lẻo, sơ hở; nhiều
đối tượng chấp hành án ngoài xã hội đi đâu, làm gì không rõ, quá trình chấp
hành án như thế nào chưa được giám sát, đánh giá; chế độ quản lý hồ sơ; chế
độ thông tin, báo cáo chưa đầy đủ, thiếu chính xác làm hạn chế hiệu quả, hiệu
lực quản lý Nhà nước về công tác thi hành án hình sự. Đội ngũ cán bộ làm
nhiệm vụ thi hành án hình sự phần lớn còn thiếu về số lượng, năng lực, trình
độ còn hạn chế, chế độ chính sách đối với người làm công tác này chưa thoả


24
đáng; cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí chưa được đầu tư, chưa tương
xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra
2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác thi hành án hình sự và
nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án hình sự còn
một số tồn tại, hạn chế:
- Số người bị kết án phạt tù tăng nhanh, tính chất tội phạm nguy hiểm,
diễn biến phức tạp hơn đã tạo áp lực rất lớn cho công tác giam giữ, giáo dục
phạm nhân và ngân sách đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, biên chế cán bộ các
trại giam, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ trong giai đoạn hiện nay.
- Số người bị kết án phạt tù mà bản án đã có hiệu lực pháp luật còn ở
các Trại tạm giam, Nhà tạm giữ để chờ hoàn tất thủ tục đưa đi chấp hành án
rất lớn. Số phạm nhân phạm tội mới trong thời gian chấp hành án phạt tù còn
cao. Số phạm nhân tự sát, chết do đánh nhau hoặc do công tác quản lý còn sơ
hở vẫn còn khá nhiều.
- Công tác tổ chức giam giữ người bị kết án tử hình còn dàn trải ở 63
tỉnh, thành phố nên phân tán về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, biên chế cán
bộ, chưa áp dụng thống nhất các chế độ theo hướng cải thiện các điều kiện

cho người bị kết án tử hình trong giai đoạn chờ thi hành án.
- Chất lượng công tác giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân vẫn còn rất
nhiều khó khăn, nhất là xây dựng các chương trình, nội dung giáo dục, dạy
nghề phù hợp với từng loại phạm nhân. Hiện nay, việc tổ chức giao dục, dạy
nghề cho phạm nhân chủ yếu là các trại giam thực hiện, ngân sách đầu tư cho
công tác hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân còn hạn chế.


25
- Công tác thi hành án tại xã, phường, thị trấn, công tác tái hòa nhập
cộng đồng tại một số địa phương chưa thật sự được quan tâm. Công tác phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan công an và chính quyền
cơ sở ở nhiều địa phương trong việc theo dõi, quản lý các đối tượng tại ngoại,
hoãn chấp hành án phạt tù thiếu chặt chẽ, kịp thời, sơ hở dẫn đến đối tượng
trốn thi hành án hình sự còn nhiều.
- Cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí tuy chưa bảo đảm, còn thiếu cơ
sở giam giữ. Nhiều công trình, phương tiện phục vụ giam giữ, giáo dục – dạy
nghề chưa được đầu tư xây dựng cơ bản và bảo đảm an toàn trại.
- Lực lượng chuyên trách làm nhiệm vụ thi hành án và hỗ trợ tư pháp
còn thiếu, trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ; chưa có chế độ, chính sách đặc thù cho cán bộ cấp xã
làm công tác thi hành án hình sự và tái hòa nhập cộng đồng.
- Công tác quản lý chỉ đạo thực hiện công tác thi hành án hình sự tại xã,
phường, thị trấn vẫn còn nhiều hạn chế, UBND và các cơ quan chuyên môn ở
cấp huyện chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo, kiểm tra đối với UBND và Công
an cấp xã trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình được quy định trong Luật
Thi hành án hình sự, chưa tạo được sự phối hợp chặt chẽ, sự gắn kết giữa lực
lượng Công an cấp xã với các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương trong
công tác thi hành án hình sự nhất là trong việc giám sát, cảm hóa, giáo dục
giúp đỡ những người chấp hành án hình sự tại cộng đồng dân cư; UBND các

xã, phường, thị trấn chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác thi
hành án hình sự, chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho các ngành có liên quan phối
hợp với lực lượng Công an làm tốt công tác giám sát, giáo dục, động viên
giúp đỡ người chấp hành án hình sự tại xã, phường, thị trấn.


×