Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ẢNH HƯỞNG THI LUẬN TRUNG QUỐC đối với QUAN NIỆM văn học của NGUYỄN DU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.08 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐH KHXH & NV TPHCM
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HỌC

Chuyên đề:
Tư tưởng lí luận VHCĐ Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản
Đề tài:

ẢNH HƯỞNG THI LUẬN TRUNG QUỐC
ĐỐI VỚI QUAN NIỆM VĂN HỌC CỦA NGUYỄN DU
GVHD: PGS.TS ĐOÀN LÊ GIANG
HVTH: Nguyễn Thị Nhân
Lớp: CH Lí luận Văn học 2016-1

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 1/2017

1


MỞ ĐẦU
“Trong văn học của nhiều nước trên thế giới có những nhà văn mà sự xuất hiện
của họ đánh dấu một trình độ mới của văn học dân tộc. Đó là Đan tê của Ý, Púskin của
Nga. Mác và Ănghen gọi Đan tê là nhà thơ trung đại cuối cùng và là nhà thơ đầu tiên
của thời cận đại. Biêlinxki đã từng gọi Puskin là nhà thơ nghệ sĩ đầu tiên của nước Nga,
người đã đem lại cho nước Nga thơ ca như là một nghệ thuật, chứ không phải chỉ là diễn
đạt hay những tư tưởng cao cả. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Du (1765 –
1820) cũng là một nhà thơ có địa vị như thế”(Trần Đình Sử). Ông là đại thi hào, sáng tác
của ông được coi là kiệt tác, là quốc bảo của văn hóa dân tộc.
Nghiên cứu về Nguyễn Du đã trở thành một khuynh hướng thu hút nhiều nhà
nghiên cứu uy tín nhưng điều đó không khiến người đời sau thôi bị thu hút bởi những
sáng tác của bậc kì tài này. Trong khuôn khổ bài tiểu luận kết thúc chuyên đề “Tư tưởng


lí luận văn học cổ điển Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản”, người viết xin góp phần tìm
hiểu “Những ảnh hưởng của thi luận Trung Quốc nói chung đến quan niệm sáng tác văn
chương của Nguyễn Du” nhằm hiểu thêm về lí luận phê bình văn học cổ điển với trường
hợp Nguyễn Du nói riêng và văn học Việt Nam nói chung .

2


CHƯƠNG I: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ NGUYỄN DU - CUỘC
ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
I.

CUỘC ĐỜI:
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh

Hiên. Tổ tiên Nguyễn Du vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay
thuộc Hà Tây) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh). Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775) và
mẹ là Trần Thị Tần (1740 -1778), quê Bắc Ninh. VợNguyễn Du là con gái Đoàn Nguyễn
Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Nguyễn Du may mắn
được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê khác nhau. Đó là một tiền đề
thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật của nhà đại thi hào dân tộc.
Thời thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống tại Thăng Long trong một gia đình
phong kiến quyền quý. Thân phụ ông đã có lúc giữ chức Tể tướng trong triều đình Lê –
Trịnh. Nhưng mới 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sống
với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (1734 – 1786). Nguyễn Khản từng làm
quan tới chức Tham tụng, nỗi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm và là
người rất mê hát xướng. Trong thời gian này Nguyễn Du có nhiều điều kiện thuận lợi để
mài kinh sử, có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tốc phong kiến
– những điều đó đã để lại dấu ấn trong sáng tác văn học của ông sau này. Sự xuất hiện

khá đậm nét hình tượng những người ca nhi, kĩ nữ với tiếng đàn giọng hát và thân phận
đau khổ của họ trong sáng tác của Nguyễn Du rất có thể là sự ám ảnh từ những gì ông đã
chứng kiến trong gia đình người anh. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường
(tú tài) và được tập ấm nhận một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên. Nhưng cuộc đời yên
ả không kéo dài được bao lâu. Do nhiều biến cố lịch sử, từ năm 1789, Nguyễn Du đã rơi
vào cuộc sống đầy khó khăn gian khổ hơn chục năm trước khi ra làm quan cho nhà
Nguyễn. Những trãi nghiệm trong môi trường quý tộc và cuộc sống phong trần đem lại
cho Nguyễn Du một vốn sống thực tế phong phú, đã thôi thúc ông suy ngẫm nhiều về xã
3


hội, về thân phận con người, tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành tài năng và bản lĩnh
sáng tạo văn chương. Hơn mười năm lăn lộn chật vật ở các vùng nông thôn khác nhau
cũng là dịp Nguyễn Du học hỏi, nắm vững ngôn ngữ nghệ thuận dân giang: “ Thôn ca sơ
học tang ma nữ” (Tiếng hát nơi thôn dã giúp ta biết ngôn ngữ trong nghề trồng dâu trồng
gai). Đây là vốn hiểu biết rất cần thiết cho sự hình thành phong cách ngôn ngữ của các
sáng tác bằng chữ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều.
Sau nhiều năm sống hết sức khó khăn chật vật ở các vùng quê khác nhau, đến năm
1802, Nguyễn Du đã ra làm quan cho nhà Nguyễn. Hoạn lộ của Nguyễn Du khá thuận
lợi. Năm 1802, ông nhận chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu,
Hưng Yên), sau đổi sang Tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Tây). Từ năm 1805 đến
1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ, năm 1809, được bổ nhiệm làm Cai bạ
dinh Quảng Bình. Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh
sứ đi Trung Quốc. sang Trung Quốc, Nguyễn Du trực tiếp tiếp xúc với một nền văn hóa
mà từ nhỏ ông đã quen thuộc qua nhiều sử sách và thơ văn. Chuyến đi sứ để lại những
dấu ấn sâu đậm trong thơ văn, đặc biệt góp phần nâng tầm khái quát của những tư tưởng
về xã hội và thân phận con người trong sáng tác của ông. Năm 1820, Nguyễn Du lại được
cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc nhưng lần này chưa kịp lên đường thì ông đã mất vào
ngày 10 tháng 08 năm Canh Thìn (18 – 9 -1820).
Năm 1965, Hội đồng Hòa bình Thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân

văn hóa thế giới và ra quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông.

II.

SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG

1/ Sáng tác bằng chữ Hán: Hiện nay giới nghiên cứu đã sưu tầm được 249 bài thơ
chữ Hán do Nguyễn Du viết vào các thời kỳ khác nhau :
- Thanh hiên Thi tập (tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài viết chủ yếu trong những
-

năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam) có 40 bài viết thời gian
làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh, quê hương
ông.
4


-

Bắc hành tạp lục: (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ
sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông. Các

bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng
buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc
đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc của tư tưởng,
tình cảm Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Thơ Nguyễn Du viết khi đi sứ Trung
Quốc có ba nhóm đáng chú ý:
- Ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản

-

diện;
Phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người;
Cảm thông với những nhân vật nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi. Xét về
đề tài và cảm hứng sáng tác, có nhiều điểm tương đồng giữa Truyện Kiều và các bài
thơ chữ Hán trong Bắc hành tạp lục.

2/ Sáng tác bằng chữ Nôm: Nguyễn Du có Đoạn trường tân thanh (còn gọi là Truyện
Kiều) và Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn)
-Truyện Kiều là truyện thơ viết bằng thể thơ lục bát, được sáng tác trên cơ sở cốt
truyện của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc Kim Vân Kiều truyện. Tuy nhiên,
Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới, với cảm hứng mới, nhận thức lí giải
nhân vật theo cách của riêng ông, với thể loại truyện thơ khác hẳn Kim Vân Kiều
truyện là tác phẩm tự sự văn xuôi. Trên một nền tảng nhân đạo chủ nghĩa vững chãi,
với tài năng điêu luyện, với sự lựa chọn thể loại truyện thơ kết hợp nhuần nhuyễn cả
chất tự sự và chất trữ tình, với sự am hiểu đồng thời cả ngôn ngữ bình dân cũng như
ngôn ngữ văn học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một kiệt tác độc nhất vô nhị
của văn học trung đại Việt Nam.
-Văn chiêu hồn nguyên tên là Văn tế thập loại chúng sinh (Văn tế mười loại chúng
sinh) viết bằng thể thơ song thất lục bát. Bài văn tế thể hiện một phương diện quan
trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác Nguyên Du. Theo quan niệm xưa, hồn của
những người chết bất hạnh cần được siêu sinh tịnh độ. Nguyễn Du viết bài thơ chiêu
5


hồn cho nhiều hạng người khác nhau, kể cả những những người thuộc tầng lớp phong
kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân ái của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ
bé, dưới đáy xã hội như các em nhỏ, các kĩ nữ, những anh học trò nghèo. Do giá trị
nhân đạo sâu sắc mà Văn chiêu hồn đã được phổ biến rộng rãi, kể cả trong phạm vi nhà

chùa.

6


CHƯƠNG II: TÌM HIỂU CHUNG VỀ LỊCH SỬ THI LUẬN CỔ
ĐIỂN TRUNG QUỐC

Nền văn học cổ điển Trung Quốc với bề dày lịch sử có những ảnh hưởng quan
trọng đến văn học khu vực. Thậm chí có thể nói, sẽ không thể hiểu được thấu đáo bản
thân nền văn học các nước chịu ảnh hưởng sâu đậm như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Triều Tiên,… nếu tách rời với văn học cổ điển Trung Quốc. Lí luận văn học cổ Trung
Quốc cũng đã đạt những thành tựu vĩ đại với những tên tuổi nổi tiếng như : Khổng Tử,
Lão Tử, Trang Tử thời Tiên Tần; Tư Mã Thiên, Tào Phi, Lục Cơ, Lưu Hiệp thời Hán và
Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều; thời Tùy, Đường có Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị; hay
Nghiêm Vũ, Viên Mai ở các đời sau.
Chung qui lại, người viết tán đồng với cách phân chia lịch sử thi luận cổ điển Trung
Quốc của tác giả Đoàn Lê Giang. Theo đó, lịch sử thi luận cổ điển Trung Quốc có ba
khuynh hướng:
1. Khuynh hướng đề cao đạo đức, chính trị, xã hội trong sáng tác văn học. Ở dòng
Nho gia, nó thể hiện trong quan niệm “quan chí”, “quan phong” (Kinh Thi), “thi
ngôn chí” (Thượng thư), theo đó thơ ca không phải là phương tiện để bộc lộ nỗi
lòng tự nhiên của con người mà là phương tiện để thể hiện cái chí của kẻ sĩ, gắn
bó với những vấn đề chính trị, xã hội. Ở dòng Văn gia, Tư Mã Thiên quan niệm
“phát phẫn trứ thư” – văn chương được sáng tác từ sự phẫn uất của người nghệ sĩ;
Hàn Dũ cho rằng “ Vật bất bình tắc minh”- mọi vật vì bất bình mà phải kêu lên,
văn chương là tiếng kêu của người nghệ sĩ vì sự bất bình với thực tại; Âu Dương
Tu lại khẳng định “Thi cùng nhi hậu công”- người cùng thì thơ mới hay. Nói
chung, dòng Văn gia có xu hướng nhấn mạnh vào sự trải nghiệm cuộc sống và sự
bất bình của nghệ sĩ với thực tại xã hội.


7


2. Khuynh hướng đề cao tự nhiên, hư tĩnh trong văn học chịu ảnh hưởng sâu sắc của
tư tưởng Lão Trang. Họ sùng thượng tự nhiên, đề cao cái đẹp Giản, Phác. Đề cao
cái Vô, Hư tĩnh. Nhấn mạnh phải luyện tâm pháp đến trình độ Thần hóa. Trong
sáng tác, cần “đắc ý vong ngôn” (Trang Tử)- sau này phát triển thành thuyết “ngôn
bất tận ý”hay “ý tại ngôn ngoại”. Tóm lại, khuynh hướng sáng tác này để cao trực
giác, cái linh diệu trong sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ.
3. Khuynh hướng đề cao cái tự ngã, thuyết tôn tình và văn chương thông tục.Khuynh
hướng này nêu cao quan niệm “Tôn tình”- đề cao tình cảm, đây là bước đầu khẳng
định cái tôi cá nhân của người nghệ sĩ như một cá thể sáng tạo.Thuyết tính linh của
Viên Hoằng Đạo được Viên Mai làm sống lại với hàm nghĩa tình cảm chân thực
của con người, sự linh diệu trong tâm hồn, tài năng của người làm thơ. Kim Thánh
Thán lại chú ý đến các thể văn thông tục, vốn bị xếp hạng thấp trong quan niệm
trước đây. Nói chung, khuynh hướng này đã đặt nền móng cho sự chuyển mình
của văn học từ thời Trung đại bước sang Hiện đại.

8


CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG THI LUẬN TRUNG QUỐC VỚI
QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU
I. NGUỒN GỐC VĂN CHƯƠNG: NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY...
Trong sáng tác Nguyễn Du, có lần ta bắt gặp những phút giây thảnh thơi của bậc
hiền triết ẩn cư, tìm niềm vui trong việc đi săn:
Y quan đạt giả chí thanh vân
Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần
Giải thích nhàn tình an tại hoạch

Bính trừ dị loại bất phương nhân
(Liệp)
(Những người làm quan hiển đạt, chí ở đường mây
Còn ta, ta vui với lũ hươu nai
Đi săn, cốt sao tâm tình thư thái, chứ không cốt bắt được nhiều thú
Mà dù có giết giống khác, cũng chẳng hại đến lòng nhân).
Hay phong vị Lão Trang khi tìm về với thiên nhiên:
Trần thế bách niên khai nhãn mộng,
Hồng sơn thiên lý ỷ lan tâm.
(Cuộc trần thế trăm năm chỉ là giấc mộng khi mắt mở,
Tựa lan can, lòng nhớ núi Hồng nơi ngàn dặm)
(La Phù giang thuỷ các độc toạ)
Thế nhưng nét nổi bật trong sáng tác Nguyễn Du lại khác. Là một nhà Nho, được
nuôi dưỡng trong bầu không khí Hán học ngay từ nhỏ, nếu như những nhà nho Việt Nam
thời trung đại, thường làm thơ để nói “chí”, để “tỏ lòng”, Nguyễn Du lại đề cao xúc cảm,
đề cao “tình” trong sáng tác văn chương. Tiếng thơ Nguyễn Du cất lên từ “Những điều
trông thấy mà đau đớn lòng”. Tư tưởng này chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của dòng Văn gia
mà đậm nét nhất là ở nhà văn, nhà sử học thời Tây Hán- Tư Mã Thiên với quan niệm
“Phát phẫn trứ thư”- văn chương được sáng tác từ sự phẫn uất của người nghệ sĩ. Hàn
Dũ thời Trung Đường cũng phát triển nguyên lí sáng tác này bằng quan niệm “Vật bất
bình tắc minh”, xem văn chương là tiếng kêu lên của người nghệ sĩ vì sự bất bình với
9


thực tại. Quả thực trong trang viết Nguyễn Du từ thơ chữ Hán đến những sáng tác chữ
Nôm, ta bắt gặp hiện thực cuộc đời hiện lên rõ mồn một. Đó chính là nguồn cơn cho xúc
cảm để ông viết nên những kiệt tác.
Bản thân đời ông từng trải qua những cảnh cùng cực. Những năm lưu lạc từ nơi này
đến nơi khác, ăn nhờ ở đậu nhà anh trai rồi đến nhà anh vợ, lại có những lúc đói rét phải
nhận lòng thương hại của mọi người nên Nguyễn Du, hơn ai hết, ý thức cái nghèo rất rõ:

Tam xuân tích bệnh bần vô dược,
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân.
(Ba xuân mang bệnh, nghèo không thuốc
Cuộc phù sinh ba mươi năm, vì có thân mà phải lo)
Hay:
“Giang nam giang bắc nhất nang không”
(Mạn hứng - bài 2)
(Một chiếc đáy rỗng không, đi hết phía nam sông, lại phía bắc sông)
Đến cay đắng:

Văn tự hà tằng vi ngã dụng?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên.
(Khất thực)
(Văn chương chữ nghĩa nào đã từng ích gì cho ta?
Không dè đói rét phải nhận lòng thương hại của người)

Vì lẽ đó, ông thông cảm với nỗi đau của quần chúng lao khổ:
Thôn ca sơ học tang ma ngữ,
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh
(Trong tiếng hát nơi thôn xóm, ta bắt đầu học được những câu chuyện về trồng dâu,
trồng gai,
Trong tiếng khóc nơi đồng ruộng, ta nghe có tiếng dội của chiến tranh).
Nguyễn Du khi đã là một ông quan đường bệ, vẫn đồng cảm được với cái vất vả,
cơ cực của người phu đẩy xe mà không hề cách biệt :
Hà xứ thôi xa hán
10


Tương khan lục lục đồng
(Bác phu xe kia ở đâu?

Nhìn ra thấy vất vả như nhau)
(Hà Nam đạo trung khốc thử)
Bài “Sở kiến hành” là nỗi xót xa của tác giả trước cảnh khốn cùng của mấy mẹ
con tha hương sắp chết đói mà ông gặp bên đường lúc đi sứ sang Tàu :
Mẫu tử bất túc xuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kỳ thống tại tâm đầu,
Thiên nhật giai vị hoàng.
(Mẹ chết đã đành rồi
Trông con thêm đứt ruột.
Nỗi lòng đau đớn lạ thường
Mặt trời cũng vì người mà vàng úa)
Đối lập với những con người nghèo khổ phải chết đói thê thảm là hình ảnh yến
tiệc linh đình chốn dinh thự nhà quan:
Trướng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bất khí vô cô tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
(Quan trên không chọc đũa,
Kẻ dưới chỉ nếm qua.
Bỏ mứa không đoái tiếc,
Chó hàng xóm chán cao lương.)
Bài thơ khiến ta bất giác nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ:
Quan lớn trong triều ngấy rượu thịt
Bọn dân mảnh vải tấm tranh không
(Tuế án hành)
Hay cái hiện thực khốc liệt tương tự trong bài thơ Khinh phì của Bạch Cư Dị
11



Uống, toàn là rượu quý,
Ăn, bày đủ món ngon.
Quít Động Đình trái ngọt,
Cá Thiên Trì gỏi thơm,
Ních no lòng thấy khoái
Năm ấy Giang Nam hạn,
Cổ Châu người ăn người.
Chén khướt khí thêm oai!
Khác nhau về thời đại vẫn khiến Nguyễn Du gặp gỡ tiền nhân ở tấm lòng chân
thành, trân trọng, thương yêu dành cho những phận đời bất hạnh- một mạch chủ lưu trong
sáng tác của mình.
Không chỉ quan tâm người sống, Nguyễn Du còn quan tâm đến cả những linh hồn
đã khuất. Trong tác phẩm Văn chiêu hồn, một tác phẩm dành riêng cho các cô hồn không
ai hương khói, không có nơi nương tựa, lay lắt nơi bờ bụi, ngòi khe. Với 184 câu thơ
song thất lục bát, tác phẩm khởi hành từ cõi dương thế, trong bối cảnh đầu thu “mưa dầm
sùi sụt” để nhìn về âm phủ. Não nùng trước bao khổ nạn, nhà thơ kêu gọi những linh hồn
vất vưởng cùng về dự đàn giải thoát. Cảm xúc ngày càng thống thiết, Tố Như khóc
thương cho hơn mười loại người bất hạnh khi chết phải chịu cảnh“hồn đơn phách chiếc
lênh đênh quê người”. Cái nhìn thấu hết sáu cõi của nhà thơ đã bao quát cõi nhân sinh mà
khóc thương cho đủ hạng người: từ những kẻ "tính đường kiêu hãnh" tham danh vọng mà
quên mạng sống, những kẻ giàu sang sống trong "màn loan trướng huệ" tự kiêu, tự mãn
về nhan sắc, những kẻ làm quan to "mũ cao áo rộng" khi sống nắm quyền sinh sát trong
tay, những tướng sĩ "bài binh bố trận" "đem mình vào cướp ấn nguyên nhung" đến những
kẻ tính đường "rắp cầu chữ quý", thương buôn đường xa, lìa bỏ quê nhà, vào sông ra bể,
trong sóng gió hiểm nguy để mong được giàu sang hay những người hành khất "sống nhờ
hàng xứ, chết vùi đường quan",…. Đủ mọi kiếp người, dưới ngòi bút nhân đạo Nguyễn
Du, khi sống dù có phân chia ra sang hay hèn, phú quí hay cơ cực, vinh quang hay nhục
nhã nhưng khi chết rồi, cùng một kiếp cô hồn dã quỷ, cùng đáng thương bởi nơi cõi u
12



minh đó “mảnh thân chiếc lá biết là về đâu”. Với Văn chiêu hồn Nguyễn Du khóc cho
những kiếp người đã chết nhưng vẫn thấy hiển hiện một xã hội đầy rẫy những khổ đau
của cõi nhân sinh.
Trong số những con người bất hạnh, nhà thơ đặc biệt quan tâm và bênh vực những
người phụ nữ. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du, số bài dành cho người phụ nữ khoảng 25
bài trong tổng số 250 bài, chiếm khoảng một phần mười. Văn Chiêu hồn hai trăm câu thì
có khoảng 20 câu thơ nói về người phụ nữ. Truyện Kiều là cả cuốn bi kịch về thân phận
người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận bất hạnh, mười lăm năm luân lạc chịu nhiều
gian truân và khổ ải. Những Thúy Kiều, Thúy Vân, Đạm Tiên, Dương Quí Phi, Tiểu
Thanh… trong thơ Nguyễn Du đã lấy đi biết bao nước mắt của người đọc. Xã hội trọng
nam khinh nữ, người phụ nữ dù tài hoa, xinh đẹp, cần mẫn lam làm vẫn phải chịu bất
hạnh. Và oái oăm thay, dường như họ càng tài hoa, càng xinh đẹp, càng cần mẫn, lam làm
lại càng bất hạnh. Kiệt tác Truyện Kiều được ông đặt cho tên gọi “Đoạn trường tân thanh”
– tiếng kêu đứt ruột ấy phải chăng chính là tiếng than thấu cửu trùng cho số kiếp của họ:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Lòng cảm thông sâu sắc của nhà thơ với cuộc sống và con người như một lẽ tự
nhiên khiến ông bộc lộ sự phẫn nộ với bản chất tàn bạo của xã hội. Đi sứ sang Trung
Quốc, tận mắt chứng kiến những cảnh đau lòng, ông mỉa mai cay đắng:
Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân!
(Thái Bình mại ca giả)
(Nghe nói Trung Hoa no ấm cả,
Trung Hoa cũng có cảnh này sao?)
Ngẫm về thời cuộc, ông viết Phản “Chiêu hồn”, khuyên hồn Khuất Nguyên
không nên quay về bởi trên cõi đời này, đâu đâu cũng đầy những tên quan lại độc ác,
những dòng sông oan nghiệt:
13



Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La
( Người đời sau ai cũng là Thượng Quan
Trên mặt đất, đâu cũng có dòng Mịch La)
Nếu Văn chiêu hồn mang cảm hứng nhân đạo theo tinh thần Phật giáo thì Phản
“Chiêu hồn” lại mang ý nghĩa xã hội, có sức khái quát và tố cáo xã hội phong kiến sâu
sắc của Nguyễn Du.
Truyện Kiều đâu chỉ được Nguyễn Du viết lại từ cốt truyện vay mượn. Chính cộng
hưởng từ suy nghiệm của thân phận đã trải qua một cuộc bể dâu để gặp phải những điều
trông thấy mà đau đớn lòng mới khiến Tố Như từ cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
xuất thần ra ngòi bút mình kiệt tác của văn học dân tộc.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của chính ông là một minh chứng cho quan
niệm “Thi cùng nhi hậu công”-Người cùng thì thơ mới hay. Quan niệm văn chương có
được từ nghịch lí và nỗi đau ấy cũng được ông phát biểu trực tiếp qua chiêm nghiệm về
đời thực oan nghiệt mà đời thơ lẫy lừng của Khuất Nguyên:
“Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ,
Hà hữu Li Tao kế Quốc Phong ?”
(Ví như hiến lệnh được ban hành trong thiên hạ
Làm sao có được Li Tao nối tiếp Quốc Phong?)
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu)
Và cũng với quan niệm như thế, trước mộ Đỗ Thiếu Lăng, ông viết:
“Nhất cùng chí thử khởi công thi”
(Cùng khốn đến thế phải chăng vì hay thơ?)
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ)
II.VAI TRÒ CỦA THI CA: CỦA TIN CÒN MỘT CHÚT NÀY…
Sống trong thời trung đại, Nguyễn Du cũng như những nhà Nho khác, đều không
có mục đích lập thân bằng văn chương. Viết Truyện Kiều, bao tâm huyết là thế mà kết lại
vẫn hạ bút một câu đầy khiêm nhường:
Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh.
Thậm chí trong mười năm gió bụi, lúc cơ hàn quá, ông còn tự dày vò:
Văn tự hà tằng vi ngã dụng ?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!

14


(Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ?
Đâu ngờ phải đói rét để người thương!)
(Khất thực)
Nhưng rồi, với cái nhạy cảm của người nghệ sĩ, Nguyễn Du vẫn khẳng định và đề
cao chức năng của thơ ca: làm đẹp cho đời, bất tử hóa cái đẹp của đời sống. Trong Bắc
hành tạp lục, ông không tiếc lời đề cao văn chương Thôi Hiệu: nhờ bài thơ "Hoàng Hạc
lâu" mà cây Hán Dương, cỏ bãi Anh Vũ truyền lại đến ngày nay. Cây cỏ đó, nhờ có thơ
của Thôi Hiệu mà trở thành bất hủ:
“Thi thành thảo thụ giai thiên cổ”
(Thơ làm xong thì cỏ cây cũng được đẹp và truyền đến ngàn năm )
(Hán Dương vãn diểu)
Hay trong một bài thơ khác, Nguyễn Du đã mượn hình ảnh một con bướm chết
trong sách để nói lên giá trị bất hủ của văn chương:
Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch,
Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.
( Mệnh tuy bạc, nhưng cũng phải có duyên mới lưu lại với sách,
Hồn tàn không có nước mắt mà khóc văn chương. )
(Điệp tử trung thư)
Sách Tả truyện nhắc đến tam bất hủ: lập đức, lập công, lập ngôn. Lập thân bằng
văn chương là khát khao rất chính đáng của người nghệ sĩ- “Mỗi phạn bất vong duy trúc
bạch/ Lập thân tối hạ thị văn chương”(Viên Mai)
Vậy nên, Nguyễn Du hay lên tiếng minh oan cho thơ:

Vị hữu văn chương sinh nghiệp chướng
Bất dung trần cấu tạp thanh hư
(Chưa bao giờ có văn chương gây ra nghiệp chướng
Không để cho bụi bặm lẫn vào nơi trong sạch)
(Ngọa bệnh)
Trân trọng thơ văn, với Nguyễn Du, việc sáng tác văn chương không bao giờ là
chuyện bông lơn, đơn thuần giải trí. Ông tiếc nuối khi thấy cảm hứng văn chương càng
ngày càng leo lắt. Trên đường đi sứ, ông than thở: “Lão khứ văn chương diệc tị nhân”
(Già rồi, văn chương cũng xa lánh người) rồi lại xót xa: “Văn chương tàn tức nhược như
tơ” (Hơi tàn, văn chương mảnh như sợi tơ).

III. NGƯỜI NGHỆ SĨ: PHONG VẬN KÌ OAN…
15


Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Du được coi là người đầu tiên đã nêu
lên một cách tập trung nhất vấn đề về thân phận những tài năng văn chương nghệ thuật
(thơ, nhạc,…).Trân trọng những giá trị tinh thần, Nguyễn Du cũng kêu gọi phải trân
trọng những chủ thể sáng tạo ra những giá trị tinh thần đó.
Ông xót xa với ông già mù đi hát rong ở châu Thái Bình, tỉnh Quảng Tây :
Khẩu phún bạch mạt thủ loan súc,
Khước tọa liễm huyền cáo chung khúc.
(Miệng xùi bọt mép, tay mỏi rã rời,
Ông già ngồi xuống, xếp đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong)
Cái nhìn của nhà thơ đầy thương cảm với người nghệ sĩ hát rong, hát mệt nhọc là
thế mà rốt lại chỉ được năm sáu đồng tiền, và như thắt lòng trước cảnh ông già chào
“khán giả” của mình ra về:
Tiểu nhi dẫn đắc hạ thuyền lai,
Do thả hồi cổ đảo đa phúc.
(Đứa bé đã dẫn ông ra khỏi thuyền,

Ông còn quay lại ngỏ lời chúc tụng)
Tố Như khóc thương cho Thúy Kiều và cung đàn Bạc mệnh vận suốt đời nàng.
Tiếng đàn của Kiều là tinh huyết đời nàng, khi đánh đàn cho người trong mộng- Kim
Trọng, tiếng đàn của nàng đã đạt đến mức độ “Thần hóa”:
So dần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung, thương.
Khúc đâu Hán, Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt , tiếng vàng chen nhau.
Khúc đâu Tư Mã Phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng !
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng Lưu thủy, hai rằng Hành vân.
Quá quan này khúc Chiêu Quân,
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
16


Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Khi phải đánh đàn trong lúc đớn đau, đánh đàn hầu rượu cho Thúc Sinh- Hoạn
Thư hay lúc bị Hồ Tôn Hiến ép đánh đàn, tiếng đàn của Kiều chính là tiếng lòng khóc
than thảm thiết:
Bốn dây như khóc, như than,
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng!
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm!
……
Một cung gió thảm, mưa sầu,

Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay
Không riêng gì nàng Kiều, Nguyễn Du còn thấu cảm với thân phận ca nhi của
Đạm Tiên, của nàng Cầm- người đánh đàn đất Long Thành suốt một đời mua vui cho
thiên hạ. Đặc biệt, Nguyễn Du ngược thời gian ba trăm năm để khóc cùng Tiểu Thanh,
khóc cho “văn chương vô mệnh” vẫn phải “lụy phần dư”. Rồi tự nhận mình là người
đồng bệnh, cùng hội cùng thuyền với người mắc án oan lạ lùng vì nết phong nhã:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
(Mối hận từ xưa đến nay thật khó mà hỏi ông trời.
Ta tự coi như người cùng một hội, một thuyền [với nàng]
là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng)
(Độc Tiểu Thanh kí)
Văn chương thi phú là món nợ trời đày, tư tưởng này của Nguyễn Du không thể
không khiến người đọc nghĩ đến Đỗ Phủ với những băn khoăn đầy đớn đau về mối quan
hệ giữa thơ ca và thân phận, số mệnh của người nghệ sĩ:
Văn chương tăng mệnh đạt
(Văn chương thường ghét những người có số phận tốt)
Hay như:
Ngâm thành ngũ cá tự
Dụng phá nhất sinh tâm
(Được câu thơ năm chữ
Phá nát tâm một đời)
17


Nhưng dù có phá nát tâm một đời, như cái nghiệp đeo đẳng, người nghệ sĩ Nguyễn
Du vẫn tâm niệm:
Văn đạo dã ưng cam nhất tử,
Dâm thư do thắng vị hoa mang.
(Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam,

Ham mê sách còn hơn đắm đuối vì hoa)
(Điệp tử thư trung)
Đó là cái bất hạnh của người nghệ sĩ, mà cũng là cái may mắn của người nghệ sĩ
vậy.

18


KẾT LUẬN
Cuộc đời riêng thăng trầm chịu nhiều biến động do bão táp thời đại, Nguyễn Du có
cơ hội hiểu rõ con người trong cõi nhân sinh. Thế giới thơ Nguyễn Du là cả một bức
tranh toàn cảnh về bao kiếp đời trong xã hội. Họ có thể là người nông dân, anh đẩy xe,
người nghệ sĩ hay những đồng cảm cùng tiền nhân. Ngòi bút thắm đượm tình cảm của
Nguyễn Du đã bày tỏ từ nỗi thương xót, đớn đau, đồng cảm đến căm phẫn, khinh ghét.
Nhãn quan xa rộng và nhạy cảm nghệ sĩ khiến Nguyễn Du đã đi trước thời đại mình một
khoảng cách khá xa với những tư tưởng tiến bộ, nhân văn về con người nói chung hay
người phụ nữ, người nghệ sĩ nói riêng. Có thể nói ở Nguyễn Du, tư tưởng thi luận cổ điển
Trung Quốc có ảnh hưởng vừa sâu sắc vừa linh hoạt. Bên cạnh một Nguyễn Du Nho gia
là một Nguyễn Du văn gia, bên cạnh một Tố Như với khuynh hướng đề cao đạo đức,
chính trị trong sáng tác văn học là một Tố Như đề cao cái tự ngã, tôn tình. Tất cả điều đó
hòa trộn thật nhuần nhị và tự nhiên để làm nên một Nguyễn Du đại thi hào, danh nhân
văn học hàng đầu của dân tộc(Trần Đình Sử)

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Khảo luận về Kim Vân Kiều, Đại học sư phạm Sài Gòn, 1963.
2. Lê Bảo, Nguyễn Du – nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, NXB Giáo Dục, tái bản
lần thứ 3, 2001.

3. Cảm hứng nghệ thuật trong “Thanh Hiên thi tập” và “Nam trung tạp ngâm” của
Nguyễn Du, Công trình dự thi sinh viên nghiên cứu khoa học, 2007.
4. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán, Tạp chí
văn học, tháng 11 – 1966.
5. Trương Chính, Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, Theo Tuyển tập Trương
Chính, NXB Văn học, Hà Nội, 1997.
6. Đoàn Lê Giang, Tư tưởng lí luận văn học cổ Trung Quốc, chuyên luận, 2003.
7. />8. />%E1%BA%B7c-bi%E1%BB%87t-t%C6%B0%E1%BB%9Fng-ni%E1%BB%87mnguy%E1%BB%85n-du/th%C6%A1-ch%E1%BB%AF-han-c%E1%BB%A7anguy%E1%BB%85n-du-quach-t%E1%BA%A5n/

20



×