Tải bản đầy đủ (.pdf) (378 trang)

Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành án (NXB tư pháp 2006) hoàng thọ khiêm, 378 trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.73 MB, 378 trang )

HOÀNG THỌ KHIÊM
(Chủ biên)

ĐỔI MỠI

TÓ CHiìíC CO QUAN
THI HÀNH ẮN

NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP
HÀ NỘI - 2006


CHỦ BIÊN
Hoàn^ Thọ Khiêm

THAM GIA BIÊN SOẠN
N^uyấn Khắc Hiếu
N^uyển Quang Thái


LỜI GIỠI THIỆU
Thi hành án là hoạt động của Nhà nước nhằm
đàm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án,
bảo vệ quyền, lợi ích hỢp pháp của cá nhân, tổ chức
và lợi ích của Nhà nước. Hoạt động thi hành án có
hiệu quả là sự thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật, của bản án, quyết định của Toà án nhân danh
Nhà nước. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy, song
thực tế không ít người, thậm chí không ít các cơ quan
nhà nước chưa nhìn nhận đúng vị trí, vai trồ của
công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân


sự nói riêng, nên có nơi, có lúc hoạt động thi hành án
dân sự ít được quan tâm, chú trọng, dẫn đến hiệu
quả hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự
chưa cao.
Với việc uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 nhằm thay
thế Pháp lệnh thi hành án dân sự năm ĩ 993, Chính
phủ han hành Nghị định sô'5 0 /2 0 0 5 /NĐ'CP ngày
11 tháng 4 năm 2005 về Cơ quan quản lý thi hành


án dân sự. Có thể thấy, Cơ quan thi hành án dân sự
và cán bộ, công chức làm công tác thi hành ái dân
sự, tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành
án bước đầu đã nhận được sự quan tâm, đánh giá
đúng mức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng, đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp
trong lĩnh vực thi hành án dân sự đang đặt ra ở
nước ta hiện nay.
Đ ể đáp ứng yêu cầu về tài liệu chuyên môn, nghiệp
vụ cho các nhà quản lý, nghiên cứu cũng như ccc độc
giả, Nhà xuất bản Tư pháp giới thiệu cuốn “Đổi
mới tổ chức Cơ quan thỉ h ành ón” của nhÓTi tác
giả đã và đang lầm công tác quản lý hoạt độr.g thi
hành án.
Cuốn sách được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất giới thiệu một số quan điểm cn bản
đặc trưng, vai trò và công tác quản lý nhà nước ìề thi
hành án dân sự;
Phần thứ hai tập hỢp một sô'văn bản hướng dẫn

về tổ chức quản lý thi hành án dân sự và các văi bàn
khác có liên quan.
Hy vọng cuốn sách sẽ là tài liệu đ ể các nhà quản
lý, các độc giả trong và ngoài ngành tham khảo, trao


đổi đ ể góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác
thi hành án dân sự ở Việt Nam.
t



Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọcỉ
Tháng 4 ¡2006
NHÀ XUẤT BẲN Tư PHÁP



Phần ttuĩnhất
NHỮNG VẤN ĐỀ CO BẲN
VỂ TỔ CHỨC CO QUAN THI HÀNH ÁN



1
VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN
DÂN Sự

1. Đối vói các hoạt động tư pháp khác
Hoạt động tư pháp của Nhà nước ta bao gồm bôn loại

hoạt động chính, đó là: hoạt động đỉểu tra, truy tô", xét
xử vì thi hành án. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là
nhữig hoạt động hết sức vất vả, phức tạp và tôn kém,
song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu
nhưbản án, quyết định của Toà án chỉ tồn tại trên giấy
mà Ihông được đưa ra để thi hành trên thực tế. Chính
vì vếy, hoạt động thi hành án nói chung và thi hành án
dân 5ự nói riêng là hoạt động không thể thiếu nhằm biến
kết tuả hoạt động của các cơ quan tô' tụng trước đó trở
thàrh hiện thực, trả lại sự công bằng của pháp luật.
Ngoài ý nghĩa và vai trò đối vối các hoạt động tô'
11


Đổi mới tổ chức Cd quan thi hành án

tụng nêu trên, hoạt động thi hành án dân sự còn có ý
nghĩa rất to lón đổi với việc xác định rõ tính hiệu quả
hoạt động xét xử của cđ quan Toà án. Trước hết, thông
qua hoạt động của Cđ quan thi hành án dân sự có thể
đánh giá đưdc phần nào hiệu quả hoạt động của cơ quan
Toà án. Bỏi vi nếu bản án tuyên mà đúng với bản chất,
hiện thực khách quan, có lý, có tình thì chắc chắn khi
thi hành án, Cơ quan thi hành án sẽ không gặp phải sự
kháng cự quyết liệt của các bên đương sự. Thực tiễn cho
thấy, rất nhiều trường hỢp đương sự không tự nguyện
thi hành, hoặc gửi đớn khiếu nại, tố cáo đi nhiều nơi
không phải vì Cơ quan thi hành án làm sai mà chủ yếu
vì không đồng tình với quyết định của Toà án nên cố
tình trì hoãn để có điều kiện thời gian khiếu nại lên Toà

án cấp trên nhằm làm thay đổi nội dung của bản án.
Ngoài ra, một sô'bản án tuyên nhưng không có tính khả
thi, không chỉ đơn thuần là gây khó khăn cho hoạt động
của Cơ quan thi hành án mà còn thể hiện năng lực, hiệu
quả hoạt động của Toà án chưa cao. Bên cạnh đó, thông
qua hoạt động thi hành án, các cơ quan thi hành án
cũng phát hiện ra rất nhiều trưồng hđp phán quyết của
Toà án không đúng sự thật hoặc không phù hỢp với
thực tế khách quan. Chính vì vậy, điểm 3 Mục IV Thông
tư liên ngành sô" 981-TTLN ngày 21 tháng 9 năm 1993
của Bộ Tư pháp - Toà án nhân dân tôi cao - Viện kiểm
12


Phân thứ nhất. Những vấn đề cđ bản về tổ chức...

sát rhân dân tối cao hưống dẫn thực hiện một sô" quy
địnhcủâ Pháp lệnh thi hành án dân sự đã quy định:
Khi la quyết định thi hành án hoặc trong quá trình thi
hành án, nếu Cơ quan thi hành án phát hiện thấy bản
án, ạiyết định được thi hành có sai lầm, thi có quyền
kiến nghị với người có thẩm quyền theo quy định của
pháf luật tố tụng xét xử lại bản án, quyết định đó.
2 Đối với việc ổn định an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội
Một bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp
luậtnhiíng không được thi hành trên thực tế cho thấy
sự tiiếu nghiêm minh của pháp luật, gây dư luận
khôig tốt trong xã hội, tạo kẽ hở để các phần tử phản
động lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo, nói xấu chế độ, kích

động thù hận, gây chia rẽ sự đoàn kết nhất trí trong nội
bộ rỉiân dân. Chính vì vậy, hoạt động thi hành án có
hiệuquả sẽ không còn tạo ra “mảnh đất màu mõ' để cho
các 7hần tử phản động lợi dụng, đồng thòi góp phần
củng cấ lòng tin của nhân dân đôi vói đưòng lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
ỉ. Đối vdi sự phát triển của nển kỉnh tế thị trường
7ói chủ trương phát triển nền kinh tế thị trưòng
13


Đổi mới tổ chức Cơ quan thi hành án

định hưóng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã từng
bưốc thiết lập một khung pháp lý và thể chế nhằm tạo
ra một “sđn chơi công bằng và bình đáng’' cho mọi tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế cùng có
cơ hội như nhau trong sản xuất, kinh doanh. Song
cũng chính do sự phát triển của nền kinh tế thị trưòng
mà các tranh chấp dân sự, kỉnh tê cũng tất yếu nảy
sinh và ngày càng phức tạp. Bên cạnh các yêu cầu giải
quyết kịp thòi, đúng đắn các tranh chấp nảy sinh, thì
vấn đề thi hành các phán quyết của Toà án, của Trọng
tài ngày càng có ý nghĩa thiết thực trong việc lập lại
trật tự kỷ cương, góp phần tạo nên môi trường sông
lành mạnh, an toàn cho mọi ngưòi an cư lạc nghiệp,
hăng hái công tác, phát minh sáng tạo, phát triển sản
xuất kinh doanh, giải quyết tốt các mốỉ quan hệ trong
hành lang pháp luật. Đe thực hiện được các yêu cầu đó
thì việc hoạt động thi hành án có hiệu quả, một mặt

bảo đảm việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước,
thể hiện sự tôn trọng của xã hội, của công dân đối vói
các phán quyết của Toà án nhân danh Nhà nưóc, mặt
khác khi trật tự pháp luật bị phá võ thì pháp luật phải
có cơ chế phục hồi một cách hiệu quả nhằm khôi phục
lại quyền và lợi ích hỢp pháp của các bên bị xâm phạm,
trong trưòng hỢp đó hoạt động thi hành án sẽ là khâu
then chốt để đảm bảo tính hiệu quả của cơ chê phục
14


Phần thứ nhất. Nhữhg vấn đề cơ bản vể tô chức...

hồi đó. Ngoài ra, nếu bảo vệ quyền và lợi ích hỢp pháp
của các chủ thể trong xã hội một cách hữu hiệu sẽ là
nhân tố làm lành mạnh hóa các quan hệ thị trưồng,
trong đó, hoạt động thi hành án nắm giữ khâu quyết
định dựa trên phán quyết, quyết định có hiệu lực pháp
lý của cơ quan tư pháp và cơ quan tài phán. Pháp luật
được coi là công cụ hữu hiệu để thúc đẩy sự phát triển
các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích trong nền kinh tế
thị trường. Trong điều kiện kinh tế thị trưòng, pháp
luật nắm giữ vai trò điều hòa quan trọng, đảm bảo sự
thông nhất và cân bằng giữa yêu cầu tăng trưỏng kinh
tế và trật tự, công bằng xã hội, tôn trọng các quyền, lợi
ích hỢp pháp của công dân. Vối vai trò này thì hoạt
động thi hành án được coi là biện pháp đảm bảo công
lý. Các phán quyết, quyết định của Tòa án phải được
triển khai có hiệu quả thực sự trên thực tế, ngăn chặn
và răn đe các hành vi vượt quá giói hạn mà pháp luật

cho phép, vì lợi ích kinh tế và lợi ích cá nhân, bất chấp
pháp luật để thực hiện. Hoạt động thi hành án sẽ là
công cụ trực tiếp để bảo vệ quyển và lợi ích của công
dân khi bị xâm phạm*^\
Xem TS. Đặng Vũ Huân: Một sốyêu cầu từ nền kỉnh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đổi với công tác thi hành
ấn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số 2 năm 2003, tr. 34.
15


Đổi mới tổ chức Cơ quan thi hành ản

4. Đối với quá trinh hội nhập kỉnh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế được xem là quá trình
tham dự vào sự phân công lao động quốc tế, hợp tác
kinh tế, cạnh tranh mở rộng thị trưòng từ nội địa
sang khu vực và toàn cầu. Trong quá trình này, các
quốc gia tác động qua lại vói nhau, đồng thòi cũng
phụ thuộc nhau về lợi ích. Do đó mà tất yếu phải cùng
nhau để bàn bạc thảo luận để rồi hình thành nên
những ''luật chơi chung". Sự thành bại của mỗi quốc
gia trong quá trình hội nhập quốc tế không chỉ phụ
thuộc vào các giải pháp kinh tế mà đòi hỏi phải có giải
pháp đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội, trong đó có cả vấn đề hoàn thiện tổ chức bộ
máy nhà nưóc, pháp luật nhằm đáp ứng các yêu cầu
của thòi đại.
Trong hội nhập quôc tế, có thế nói chưa bao giò các
quan hệ quốc tế song phương, đa phương cừng với sự
gia tăng của các nguyên tắc ứng xử, các điều ưốc quôc

tế lại được các bên quan tâm và đặc biệt chú trọng
như trong giai đoạn hiện nay. Các quan hệ quốc tế
không chỉ còn đđn giản bởi các quan hệ ngoại giao mà
còn được đảm bảo bồi các quan hệ, cớ chế và các chế
định pháp lý tương ứng. Cùng với các điều ưốc quốc tế
thì vai trò của các bộ luật ứng xử cũng trỏ nên hết súc
quan trọng đổỉ vối việc điều chỉnh các lĩnh vực quan
16


phần thứ nhất. Nhũng vấn đề C0 bản về tố chức...

trọng của đòi sốhg quốc tế. ở cấp độ này, các nguyên
tắc pháp lý trong tổ chức hoạt động của các tổ chức
quốc tế đóng vai trò là các cơ sở pháp luật không chỉ
cho các quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các
hiệp ưốc quốc tế đa phương, mà còn là các tiêu chí để
xác lập các cd chê giải quyết các xung đột pháp lý giữa
các quốc gia thành viên, các tổ chức quốc tế. Nền kinh
tế Việt Nam đang trên con đường phát triển và
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trưòng định hưóng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đã có nhiểu nỗ lực về mọi mặt,
trong đó có sự nỗ lực to lớn trong công tác ỉập pháp,
lập quy, vấn đề thi hành pháp luật và bảo vệ pháp
luật. Chúng ta phải loại bỏ những tư tưổng áp đặt,
chủ quan dựa trên cơ sở thực hiện bởi các mệnh lệnh
hành chính mà không trên cơ sở pháp luật, phán
quyết của Toà án. Hoạt động thi hành án có hiệu quả
sẽ như một đảm bảo để tạo ra lòng tin và lôi kéo các

nhà đầu tư nưốc ngoài đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam
trong trưòng hđp có phát sinh tranh chấp mà có liên
quan đến hoạt động thi hành án.
II.
NHCNG ĐẶC TRUNG cơ BẢN CỦA THI HÀNH
ÁN DÂN Sự

Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp, quyết
17
2.ĐMTC-A


Đổi mới tổ chức Cơ quan thi hành án

định trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên có liên
quan, đảm bảo tính thực thi của các bản án, quyết
định của Toà án.
vậy, có thể nêu ra một sô' đặc
triftig cơ bản của thi hành án dân sự như sau:
1.
Hoạt động thi hành án dân sự có tính độc lập
tương đối
Đây là một trong những đặc trưng cđ bản của
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động thi hành
án dân sự nói riêng. Tính độc lập trong hoạt động thi
hành án dân sự ồ đây được hiểu •trên cơ sỏ nội dung
bản án, quyết định của Toà án và theo đúng quy định
của pháp ỉuật, chịu trách nhiệm trưóc pháp ỉuật.
Trong quá trình thi hành án, các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, công dân,... không được phép can thiệp

ỉàm ảnh hưồng đến quá trình thi hành án như: làm
cho việc thi hành án không đúng với quyết định của
bản án, chậm thi hành án hoặc thi hành không đúng
theo quy định của pháp luật. Chỉ những ngưòi có
thẩm quyền được quy định cụ thể của pháp luật thì
mối có quyền hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, trả lại đơn
yêu cầu thi hành án.
Tuy nhiên, do hoạt động thi hành án quyết định
trực tiếp trên thực tế đến quyển, lợi ích của các bên có
18
2.ĐMTC>B


Phẩn thứ nhất. Những vấn để cơ bản vể tổ chức...

liên quan nên nhiều trường hỢp nếu đưđng sự không tự
nguyện thi hành và cần thiết phải có sự cưõng chế để
đảm bảo thi hành thì dễ ảnh hưỏng đến trật tự, an
ninh chính trị ỏ địa phương nên cần phải có sự chỉ đạo
của chính quyền địa phưdng, sự tham gia bảo vệ cưõng
chế của cơ quan Công an... Song phụ thuộc này của Cơ
quan thi hành án cũng không có nghĩa là các cđ quan
có liên quan đến quá trình thi hành án có quyền can
thiệp hoặc yêu cầu Cơ quan thi hành án làm trái nội
dung của bản án, quyết định mà chỉ có tính chất hỗ trỢ,
tạo điều kiện để việc thi hành các bản án, quyết định
của Toà án có hiệu quả hơn, nhanh hơn đồng thòi cũng
phù hợp với tình hình an ninh chính trị địa phương.
2.
Hlộu quả hoạt động thi hành án phụ thuộc chủ

yếu vào val trò cá nhân Chấp hành viồn
Khác vối các hoạt động hành chính, hiệu quả hoạt
động chủ yếu dựa trên cơ sở quyết định của ngưòi
đứng đầu cơ quan hành chính, còn hoạt động thi hành
án dân sự lại dựa trên cơ sỏ chủ yếu các cá nhân Chấp
hành viên. Điều 12 Pháp lệnh thi hành án dân sự
nám 2004 quy định: “ Khi thực hiện nhiệm vụ của
mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án”
19


Đổi mới tể chức Cơ quan thi hành án

3.
Hoạt động thi hành án dân sự đòi hỏi tính chính
xác cao và không cho phép có sự sai sót
Hoạt động thi hành án là hoạt động đưa bản án,
quyết định của Toà án vào thực thi trên thực tế, cho
nên hoạt động thi hành án dân sự không cho phép các
cơ quan thi hành án có sai sót, vì nếu có sai sót sẽ rất
khó, thậm chí có nhiều trường hỢp không thể khắc
phục được. Thực tê chứng minh, nhà đă bán, phá dõ,
cho chuyển nhượng,... thì khó có thể đưa nó trở lại
tình trạng ban đầu. Vì lẽ đó, đã không ít trường hỢp
Chấp hành viên thi hành sai dẫn đến hậu quả không
khắc phục được nên ngoài việc phải nhận các hình
thức kỷ luật còn phải thực hiện trách nhiệm bồi
thưòng thiệt hại theo quy định của pháp luật. Để thi
hành án được đúng và đầy đủ nội dung bản án, quyết

định của Toà án, thì Cờ quan thi hành án phải vận
dụng rất nhiều các quy định của pháp luật. Muốh
tránh được những sai sót, một mặt đòi hỏi Chấp hành
viên phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nắm
vững pháp luật, bên cạnh đó phải có một cơ quan
quản lý chuyên sâu về lĩnh vực pháp luật để tổ chức,
chỉ đạo, hướng dẫn Chấp hành viên và các cơ quan thi
hành án thực hiện đúng bản án và các quy định của
pháp luật về thi hành án.

20


Phần thứ nhất. Những vấn đề cơ bản về tổ chức...

4.
Hoạt động thí hành án là hoạt dông phúc tạp đòi
hỏí phải có một cơ chếgiẳi quyết liên ngành ở trung Udng
Thực tế cho thấy, có nhiều vụ việc vưống mắc
ngay trong nội dung bản án hoặc có những vấn đề
thực tiễn đặt ra trong quá trình thi hành án mà các
văn bản pháp luật chưa đề cập đến nhưng lại cần
phải được giải quyết ngay do việc thi hành án quá
phức tạp, có liên quan đến nhiều địa phương nên Thủ
tưống Chính phủ đã phải thành lập Ban chỉ đạo Thi
hành án trung ương do Phó Thủ tưóng làm Trưỏng
ban. Tất cả những vấn đề thực tiễn đó đã đặt ra một
cơ chế, muốh giải quyết đúng pháp luật, đảm bảo
quyền lợi của các bên thì không thể để tình trạng các
địa phương tự giải quyết mà phải giải quyết bằng

Nghị quyết liên ngành ở trung ương. Chính vì vậy,
Chỉ thị sô' 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ
tưóng Chính phủ về việc táng cường và nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự đã chỉ thị Bộ Tư
pháp phối hỢp với Toà án nhân dân tốỉ cao, nhà nưốc
khác tổ chức giao ban để kịp thòi rút kinh nghiệm.
Hàng năm có kế hoạch kiểm tra liên ngành về công
tác thi hành án trong toàn quốc.

21


Đổi mới tổ chức Cơ quan thi hành án

5.
Hoạt động thi hành án dân sự là iĩnh vực hoạt
động đòi hỏi sự quản lý tập trung thống nhất công tác
tổ chức và có nhiều nội dung không thể phân cấp
Hoạt động thi hành án là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nưốc, quyết định trực tiếp đến quyền cơ
bản của công dân, đảm bảo về pháp chê thông nhất ỏ
hiệu lực của bản án, nên đòi hỏi hoạt động của Cd
quan thi hành án phải có tính độc lập tương đôl.
Chính vì vậy, pháp luật quy định Chấp hành viên có
thể sử dụng ngay quyền lực đưỢc pháp luật quy định
để buộc tất cả các chủ thể có nghĩa vụ (cho dù người
đó là ai, vối chức vụ quyền hạn
phải thực hiện
nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Toà
án đã tuyên. Trong quá trình thi hành án Chấp hành

viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước
pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Muốn thực hiện
được yêu cầu đó thì phải có một cơ chế hợp lý để Chấp
hành viên có thể có được tính độc lập tưdng đôl trong
hoạt động của mình, tránh bị chi phối hoặc bị điều
chỉnh bởi nguyên tắc mệnh lệnh hành chính làm cho
việc thực hiện các bản án, quyết định của Toà án và
các quyết định khác thiếu khách quan, gây thiệt hại
đến quyển, lợi ích hđp' pháp của các bên trong thi
hành án.
22


Phẩn thứ nhất. Những vấn đề cơ bẳn về tổ chức...

6. Hoạt động thỉ hành án không có sự phân biệt
đối xử
Bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào (cho dù cá
nhân đó giữ cương vị lãnh đạo nào, cơ quan nhà nưóc,
tổ chức đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ trang,...) nếu có
liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nghĩa vụ thi
hành án nào đó mà Tòa án đã tuyên thì đều phải thực
hiện nghĩa vụ thi hành án bình đẳng như nhau. Đặc
điểm này có liên quan trực tiếp đến việc xác định cơ
chế quản lý và tổ chức bộ máy hoạt động của các cớ
quan thi hành án.
7. Đẳm bảo hiệu lực chung của bản án, quyết định
của Toà án và các quyết định khác
Cũng như các hoạt động khác (điều tra, truy tô'
xét xử), hoạt động thi hành án cũng là hoạt động

mang tính quyền lực chung, thống nhất trong phạm
vi toàn quốc. Một bản án, quyết định có hiệu lực của
Toà án sẽ không thể thi hành ở mỗi địa phương, mỗi
đơn vị hành chính khác nhau thì có mỗi kiểu khác
nhau mà chỉ có thể thực hiện theo một nguyên tắc
thống nhất và có hiệu lực chung trong toàn quốc đốỉ
với bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có liên quan.
Đây cũng chính là yêu cầu chung của nguyên tắc xây
23


Đổi mới tổ chức Cd quan thì hành án

dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được quy định
trong Hiến pháp nước ta. Thể hiện rõ nhất của đặc
trưng này chính ỉà cơ chế uỷ thác thi hành án mà hiện
nay các cơ quan thi hành án đã, đang và sẽ tiếp tục
thực hiện.

24


lllillpjiüfti

ÎÎ'lSSSËÂilL
ứ.;

lii


I. VÀI NÉT VỂ QUẢN LÝ THI HÀNH ÁN DÂN sự
TRONG LỊCH s ử

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng vối
việc quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức các cơ
quan Tư pháp, sắc lệnh sô" 13, ngày 24/01/1946 của
Chủ tịch Chính phủ lâm thồi Việt Nam dân chủ cộng
hoà quy định Ban tư pháp xã có quyền “thi hành
những mệnh lệnh của Thẩm phán cấp trên" bao gồm
các bản án, quyết định của Toà án. sắc lệnh số 130
ngày 19 tháng 7 năm 1946 của Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định: “Trong các xã,
thị xã, hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký
đều chịu trách nhiệm thỉ hành những lệnh, mệnh lệnh
hoặc án của các Toà án. Bản án ấy sẽ tuỳ từng việc,
chỉ định một nhân viên đ ể giao cho việc thỉ hành lệnh,
mệnh lệnh hoặc án"; “ơ những nơi nào đã có Thừa
25


Đổi mới tổ chức Cơ quan thi hành én

phát lại riêng thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát
lại riêng thỉ hành mệnh lệnh”.
Có thể nói, ngay từ những năm đầu của chính
quyền cách mạng, mặc dù phải đưđng đầu vói rất
nhiều khó khăn, song trong các hoạt động của cơ quan
Tư pháp Chính phủ vẫn không ngừng quan tâm đến
việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, quản lý công tác thi
hành án dân sự.



Đến năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh
sô' 85/SL “ũề cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng”, theo
đó; ''Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý
có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi
thường hay bồi hoàn các án hộ, mà chính Toà án
huyện hay Toà án trên đã tuyên"^^\
Năm 1960, Luật tổ chức Toà án được ban hành
quy định:
“Tại các Toà án nhân dân địa phương có
nhân viên Chấp hành án làm nhiệm vụ thi
hành những bản án và quyết định dân sự,
những khoản xử về bồi thường và tài sản
trong các bản án, quyết định hinh sự'.
‘“Việt Nam quốc dân công báo năm 1950.
26


Phần thứ nhất. Những vấn đề cơ bản vể tổ chức...

Ngày 13/10/1972, Chánh án Toà án nhân dân tôì
cao đã ra Quyết định sô" 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của Chấp hành viên. Tên gọi Chấp hành
viên ra đời và tồn tại từ đó cho đến nay.
Đến năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự
đưỢc ban hành. Đây là văn bản pháp lý quan trọng
tạo cơ sỏ cho việc tăng cường, hoàn thiện về tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sỏ đó, Quy
chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị

định sôT 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ
trưởng. Theo Pháp lệnh thi hành án và quy chê Chấp
hành viên, thì chỉ có Chấp hành viên là ngưòi được
Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án,
quyết định của Toà án. Với việc ban hành Pháp lệnh
thi hành án dân sự, cơ chế thi hành án đã có bước
thay đổi cơ bản.
Nhìn lại cơ chế quản lý công tác thi hành án trong
lịch sử có thể thấy, có thòi điểm việc quản lý công tác
thi hành án do Bộ Tư pháp đảm nhiệm, có thồi điểm
việc quản lý công tác thi hành án do Toà án nhân dân
các cấp đảm nhiệm. Sự chưa thống nhất trong việc
tìm ra một cơ chê quản lý thi hành án dân sự kéo dài
trong nhiều năm đã phần nào làm ảnh hưỏng đến
hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự ỏ nưốc ta, do
27


×