Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Văn học viết Tiền Giang từ đầu TK XX - 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.53 KB, 8 trang )

VĂN HỌC VIẾT TIỀN GIANG TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
VĂN HỌC VIẾT TIỀN GIANG
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
VÕ PHÚC CHÂU (biên soạn)
1
***
1. Văn học viết Tiền Giang trên đường hiện đại hóa
Từ đầu thế kỷ XX đến 1945, theo sự vận động chung của nền văn học dân tộc, văn học viết
Tiền Giang cũng làm cuộc chuyển mình trên đường hiện đại hóa.
Lúc này, văn học Việt Nam thực sự thốt khỏi ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Trung Hoa
cổ; chuyển sang tiếp nhận thành tựu tiến bộ của văn hóa phương Tây với tinh thần nhân văn sâu
sắc.
Đây là nền “văn học mới”, còn được gọi là văn học ở các đơ thị. Bởi lực lượng tác giả chủ
yếu là trí thức tân học; cơng chúng là những thị dân. Ở Tiền Giang, đời sống văn học chủ yếu tập
trung ở thị xã Mỹ Tho và Gò Cơng.
Lúc này, sự phát triển của chữ Quốc ngữ, báo chí, nhà in… tiếp sức cho văn học đổi thay
tồn diện. Thay văn tự Hán – Nơm, nhà văn chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ. Thể loại cũ được
cách tân (thơ, tiểu thuyết, tùy bút …), thể loại mới được đẩy mạnh (truyện ngắn, kịch nói, phóng
sự, dịch thuật, phê bình …). Nhà văn cũng mạnh dạn thay đổi cách chọn đề tài, cách nhìn, cách
cảm, cách nghĩ về hiện thực. Lần đầu tiên, viết văn được xem là một nghề; nhà văn có thể sống
nhờ nhuận bút …
Lúc này, do hồn cảnh chính trị – xã hội tác động, văn học phân hóa phức tạp thành nhiều
khu vực (hợp pháp, bất hợp pháp, bán hợp pháp); tách ra nhiều xu hướng (lãng mạn, hiện thực,
cách mạng).
Những đặc điểm trên, nhìn chung, đều hiện diện ở văn học viết Tiền Giang.
2. Điều kiện phát triển thuận lợi của văn học viết Tiền Giang
Văn học viết Tiền Giang nửa đầu thế kỷ XX có nhiều thành tựu là nhờ khởi hành và vận
động trong một mơi trường văn hóa đầy thuận lợi.
2.1. Sự hình thành và phát triển đơ thị – trung tâm kinh tế - văn hóa
Từ đầu thế kỷ XX, Mỹ Tho đã là vùng đất thịnh vượng về cả kinh tế và văn hóa:
“Mỹ Tho ngun tỉnh Định Tường


Phía tiền một dãy phố phường q đơng
Trên bờ hàng hóa thạnh sung
Dưới sơng ghe đậu chật cùng ngồi trong
………
Định Tường danh tiếng ăn chơi
Ruộng vườn phi mỹ rạng ngời thủy sơn”
(Trích Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909) – Nguyễn Liên Phong)
Sự hình thành thị xã Mỹ Tho, chính là khơng gian thuận lợi để chào đón một đội ngũ nhà
văn và người đọc mới - khai sinh nền văn học đơ thị. Đây cũng là nơi văn học dễ tìm thấy đất
sống: báo chí phát hành rộng rãi, nhà in xuất hiện, các thư qn lần lượt ra đời. Sau Mỹ Tho, thị xã
Gò Cơng cũng là một khơng gian văn hóa như vậy.
2.2. Sự phát triển của báo chí và sự ra đời các nhà in, thư qn
Ở nhiều nền văn học dân tộc, giai đoạn phơi thai của nền văn học hiện đại thường có sự gắn
bó mật thiết giữa báo chí và văn học. Ở Việt Nam, báo chí là bạn đường, là “bà đỡ” của nền văn
học hiện đại. Báo chí là nơi trình làng, là nơi luyện bút của nhiều nhà văn. Báo chí có cơng tạo ra
và thu hút một đội ngũ cơng chúng mới. Hầu hết tác giả Tiền Giang giai đoạn này có được tên tuổi
nhờ báo chí: Nguyễn Thị Manh Manh và Phụ nữ tân văn; Nguyễn Văn Nguyễn và La Lutte (Sài
Gòn), Dân Quyền; Sơn Vương và Tiếng chng rè cùng nhiều báo khác, …
Bên cạnh vai trò của báo chí là nhà in. Nhà in là nơi khẳng định sự tồn tại chính thức, trọn
vẹn, lâu bền của các tác phẩm văn học. Những trang tiểu thuyết, phóng sự nhiều kỳ trên báo đã
1
Bài viết này đã được biên tập lại và in trong Địa chí Tiền Giang
1
VĂN HỌC VIẾT TIỀN GIANG TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
được nhà in tập hợp lại, cơng bố với tư cách một chỉnh thể nghệ thuật. Nhà in cũng là nơi thay mặt
xã hội, bước đầu khẳng định sự nghiệp và phong cách của nhà văn. Điểm lại một số nhà in quan
hệ mật thiết với các cây bút Tiền Giang: Imprimerie F.H. Schneider, Imprimerie de L’Union, Lửa
Hồng, Tấn Phát, Phan n, Sơng Kiên, Phương Nam, Bốn Phương,… cùng tơn vinh Hồ Biểu
Chánh; Đơng Phương Thư Xã tiếp sức cho Nguyễn Văn Nguyễn; Đức lưu phương khẳng định tầm
vóc Sơn Vương, vẽ chân dung Trần Quang Nghiệp; Xưa và Nay tạo dáng Bửu Đình; …

Sau nữa, thư qn cũng có vai trò tiếp sức cho cơng cuộc hiện đại hóa văn học. Người đọc
biết đến tác phẩm, tác giả nhờ thường xun giao lưu, mua và đọc sách ở các thư qn. Từ 1928
đến 1945, Mỹ Tho có nhiều thư qn: Chiêu Anh thơ qn, Đơng Phương thơ xã, Nam Cường thơ
xã, Ánh sáng thơ viện. Ở Gò Cơng, nổi tiếng nhất là Nữ lưu thơ qn .
2.3. Tinh thần dân tộc của các nhà văn
Lúc này, Nam Bộ là nơi thực hiện tích cực nhất, có hiệu quả nhất chủ trương của các nhà
văn: viết bằng thứ “tiếng An Nam ròng”. Đây là chủ trương đề cao lối văn đơn sơ, dễ hiểu, ít điển
tích, ít chữ Nho. Nó chú ý khai thác những từ ngữ mà mọi người hằng nói. Nó là một cách chống
lại sự ảnh hưởng q sâu đậm của tiếng Hán, là cách hiệp sức để tiêu hóa tình trạng “phát ách
tiếng chệch”. Nó gắn liền với ước vọng chân thành: “muốn cho tiếng nước ta đứng riêng một cõi,
chẳng còn làm mọi Tàu nữa” (Nguyễn Háo Vĩnh), để “cái hồn của tiếng mẹ đẻ” khơng chết mất.
Ủng hộ chủ trương này, các nhà văn đã phổ cập được văn chương đến với rộng rãi nhân dân, nhất
là giới bình dân. Thực tế, các nhà văn Tiền Giang đều định hình văn phong của mình qua “tiếng
An Nam ròng” ấy.
3. Đặc điểm, thành tựu của các thể loại
3.1. Truyện ngắn, tiểu thuyết
Đây là lĩnh vực gắn liền với cơng cuộc hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX. Trong văn học
viết Tiền Giang, nó tập hợp được nhiều tác giả nhất, có số lượng tác phẩm nhiều nhất. Những tìm
tòi, đổi mới của các nhà văn Tiền Giang hầu hết được ghi nhận qua lĩnh vực này. Đặc biệt, đây là
nơi các nhà văn thể hiện rõ nhất thứ tiếng “An Nam ròng”. Nó gắn liền các tên tuổi: Hồ Biểu
Chánh, Nguyễn Văn Nguyễn, Sơn Vương, Trần Quang Nghiệp, Bửu Đình, Trần Thiên Trung,
Huỳnh Khắc Dụng, …
3.2. Thơ ca
Đây là thể loại truyền thống của văn học Việt Nam. Hầu hết tác giả Tiền Giang đầu thế kỷ
XX vẫn theo lối mòn xưa cũ của thơ ca trung đại. Phổ biến vẫn là những bài thơ Đường luật, đề tài
ngâm vịnh quen thuộc, chưa phát minh gì về hình thức. Tác giả theo lối thơ này là những người
am tường Hán học: Hồ Biểu Chánh (di cảo), Trần Quang Văn, Võ Thành Ký (Gò Cơng phụng
cảnh vịnh), Trần Phong Sắc (Hậu Lục Vân Tiên), …
Thời gian từ 1932 đến 1945, “Thơ Mới” phát triển mạnh ở miền Bắc và miền Trung nhưng
khơng khí ấy chưa đến được đất Tiền Giang. Có lẽ nơi đây thịnh cho việc bn bán, phát hành báo

chí và cổ súy lối văn chương bình dân hơn là cho thơ ca. Vì vậy, Tiền Giang chỉ có dun đón
chàng cơng chức Xn Diệu đến làm việc, chứ khơng níu giữ được nhà thơ lớn Xn Diệu:
Mỹ Tho, tim của ta ơi
Trái tim ta của một thời tuổi xanh
Gió sơng mát rượi hồn thanh
Con phà Rạch Miễu vòng quanh đảo Rồng
Ba mươi năm trước mơ mòng
Ta vào sống bốn năm ròng tại đây
Cầu Quay phố xá đơi bên
Ta khơng mua bán, chỉ ghiền văn thơ
(Về lại Mỹ Tho – Xn Diệu)
Dẫu sao, trong cuộc “cải lão hồn đồng”, thơ ca Việt Nam cũng kịp ghi tên nữ thi sĩ có cơng
bồi sức sống cho “Thơ mới”: Nguyễn Thị Manh Manh.
3.3. Dịch thuật
2
VĂN HỌC VIẾT TIỀN GIANG TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
Đây là thể loại tuy mới xuất hiện nhưng đáp ứng kịp thời sở thích và khát khao của người
đọc: thưởng thức truyện Tàu, khám phá truyện Tây. Các nhà văn Tiền Giang đầu thế kỷ XX hầu
hết đều có một vốn Hán văn đầy đặn. Họ lại sẵn có một kho từ ngữ “An Nam ròng”. Dang tay tiếp
đón họ là hàng loạt tòa báo, nhà in. Háo hức chờ đọc họ là đội ngũ thị dân mới. Vì vậy, khá nhiều
tác phẩm, tác giả dịch thuật (người Tiền Giang) được ghi nhận trong giai đoạn này: Liêu Trai chí
dị (Trần Thế Vĩnh – q Cai Lậy), Càn Long hạ Giang Nam (Huỳnh Tứ Phú – q Mỹ Tho),
Thanh Xà – Bạch Xà diễn nghĩa (Cao Hải Để – q Cai Lậy), Phản Đường diễn nghĩa (Lê Sum –
q Gò Cơng), Lửa ngúng thình lình (Hồ Biểu Chánh – q Gò Cơng), …
Đặc điểm chung của tác phẩm dịch là văn phong rất bình dân, thậm chí nơm na, thơ mộc.
Hiện tượng câu văn lủng củng, sai chính tả, … khơng hiếm trong nhiều trang sách. Các dịch giả
chưa chú trọng tạo ra phong cách, dấu ấn riêng cho mình.
Do vậy, kết quả lĩnh vực dịch thuật chỉ tính bằng lượng chứ chưa có chất.
3.4. Phóng sự, biên khảo,…
Hai thể loại này đến với bạn đọc nhanh nhất, phù hợp nhất qua con đường báo chí. Nhiều

nhà văn đã nhạy bén lập danh bằng cách viết phóng sự và biên khảo. Bấy giờ, hiện thực đời sống
phong phú, đa dạng giúp các nhà văn rộng đường khai thác. Nhiều vấn đề văn hóa – xã hội trong
di sản và hiện tại vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, số nhà văn đeo đuổi và thành đạt ở lĩnh vực này
khơng nhiều. Có thể kể: Thu Giang – Nguyễn Duy Cần (đề tài tâm lý, rèn nhân cách,…); Hồ Biểu
Chánh (đề tài các nhân vật lịch sử), Nguyễn Thị Manh Manh (đề tài đời sống phụ nữ tân thời),
Nguyễn Văn Nguyễn (đề tài Cơn Đảo), Phù Ngọc Lũy (đất và người Phan Thiết), Phan Văn Gia
(đề tài Khám Lớn Sài Gòn), …
4. Những gương mặt văn học tiêu biểu
Từ đầu thế kỷ XX đến 1945, văn học viết Tiền Giang quy tụ được một lực lượng tác giả
nhiệt tình, có học thức. Họ có q qn ở Tiền Giang hoặc được sinh ra trên đất Tiền Giang. Đó là
Nguyễn Văn Nguyễn, Thu Giang, Ngơ Tấn Lương, Trịnh Hồi Nghĩa… ở Mỹ Tho; Hồ Biểu
Chánh, Nguyễn Thị Manh Manh, Sơn Vương, Trần Quang Văn, Lê Sum … ở Gò Cơng; Trần
Quang Nhiễu, Trần Quang Nghiệp ở Chợ Gạo; Phan Văn Gia ở Châu Thành … Đặc biệt, nhà văn
Bửu Đình người gốc Huế nhưng lấy vợ Gò Cơng, được vợ động viên, chăm sóc, càng thêm nhiệt
tình sáng tạo. Ơng là con rể của đất Tiền Giang.
Về tư tưởng, các tác giả Tiền Giang đều có nền tảng Hán học vững chắc, có kiến thức Tây
học rất bài bản từ nhà trường. Về nghề nghiệp xuất thân, họ là giáo viên trung học, ký lục, luật sư ,
nhà báo … Phần lớn họ mới có tác phẩm riêng lẻ chứ chưa đủ bút lực để trình làng một sự nghiệp
đầy đặn, một phong cách nghệ thuật riêng. Tuy nhiên, một số đã thành cây bút nổi tiếng khắp khu
vực và cả nước.
Dưới đây là lai lịch, sự nghiệp của một số nhà văn Tiền Giang tiêu biểu.
4.1. Hồ Biểu Chánh
Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958) tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, là nhà văn, nhà báo
theo xu hướng hiện thực. Bút hiệu khác: Thứ Tiên.
Ơng sinh ngày 1/10/1885 (Ất Dậu), (theo khai sinh là 15/8/1884) tại làng Bình Thành, tỉnh
Gò Cơng. Là con thứ năm trong số 12 anh chị em. Nhà nghèo, thuở nhỏ chịu nhiều vất vả, thiếu
thốn. Chín tuổi, học chữ Nho. Mười tuổi, học quốc ngữ. Sau vào trường trung học Mỹ Tho và Sài
Gòn. Năm 1905, đậu Thành chung, thi vào ngạch ký lục của Sối phủ Nam Kỳ. Từ 1906, làm việc
trong Dinh Thượng thơ ở Sài Gòn. Năm 1911, bị nghi thân thiện với nhóm “nghịch Pháp” của
Trần Chánh Chiếu, bị đổi đi Bạc Liêu. Năm 1912, xuống Cà Mau làm việc tám tháng rồi đổi đi

Long Xun. Đến 1918, trở lại Gia Định làm việc. Năm 1921, thi đậu Tri huyện. Năm 1927, được
thăng Tri phủ, nhậm chức chủ quận ở Càng Long (Vĩnh Long), Ơ Mơn, Phụng Hiệp (Cần Thơ).
Năm 1936, được thăng Đốc phủ sứ. Ngày 1/1/1937, xin hưu trí nhưng được trưng dụng đến cuối
tháng sáu năm 1941. Tháng 8/1941, được cử làm Nghị viên Hội đồng liên bang Đơng dương. Từ
1942 đến 1944, làm Nghị viên Hội đồng Quản trị Sài Gòn Chợ Lớn. Năm 1946, nhận lời làm Cố
vấn và Đổng lý Văn phòng cho Chính phủ Nam kỳ Cộng hòa Tự trị (thực chất là chính phủ bù
nhìn do Pháp giật dây). Mấy tháng sau, chính phủ này tan rã, ơng về ẩn dật và mất ở Phú Nhuận,
Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh).
3
VĂN HỌC VIẾT TIỀN GIANG TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
Về chính trị, tuy theo con đường thân Pháp nhưng ơng làm việc rất thanh liêm và tận tụy
giúp đỡ đồng bào. Sang lĩnh vực văn chương, ơng càng hết lòng đứng về phía nhân dân lao động,
bênh vực người nghèo. Bút danh Hồ Biểu Chánh đã thể hiện quan điểm sáng tác và phương châm
sống cao đẹp ấy của ơng: biểu dương chánh nghĩa.
Nhìn chung, cuộc đời Hồ Biểu Chánh chia thành hai chặng: thời sĩ hoạn (1906 – 1946); thời
hưu trí (1946 – 1958). Riêng sự nghiệp sáng tác có 5 giai đoạn: tập sự viết văn, làm thơ (1907 –
1917); viết báo (1918 - 1925); chun viết tiểu thuyết (1925 – 1941); làm báo, biên khảo (1942 –
1955); trở lại viết tiểu thuyết (1953 – 1958).
Là nhà văn, nhà báo có bút lực dồi dào, Hồ Biểu Chánh sáng tác khơng mệt mỏi. Ơng xơng
xáo thử sức qua nhiều lĩnh vực, với khối lượng tác phẩm đáng kể: 64 tiểu thuyết, 8 đoản thiên tiểu
thuyết, 3 tập truyện ngắn, 2 truyện dịch, 5 vở hài kịch, 4 vở hát bội, 3 vở cải lương, 3 bài văn vần,
5 bài tùy bút - phê bình, 6 bài hồi ký, 8 bài diễn thuyết. Ngồi ra, ơng còn hai tập di cảo thơ: Tâm
hồn tơi và Biểu Chánh thi văn. Trong đó, ơng sáng tác và dịch được 192 bài thơ luật, 4 bài song
thất lục bát, 4 bài ca khúc, 2 bài lục bát, 1 bài thơ tự do; kèm theo 16 câu đối, 9 bài văn tế, 3 bài
thư tín.
Xét qua khối lượng sáng tác, Hồ Biểu Chánh tự khẳng định sở trường của ơng ở lĩnh vực
tiểu thuyết. Tác phẩm lấy khung cảnh chủ yếu ở các thành thị và miền q Nam Bộ. Về đề tài gia
đình, nổi trội là cảnh hơn nhân éo le: ép gả, vụ lợi, tiền dâm hậu thú, mơn đăng hộ đối, bất đồng
tín ngưỡng, đa thê … Kế đến là cảnh tranh giành gia tài, cảnh mẹ ghẻ cha ghẻ … Về đề tài xã hội,
ở thành thị là cảnh khổ của thợ thuyền, trẻ bán báo, gái điếm; … cảnh xa hoa phè phỡn của giới

thơng ngơn ký lục, giới thượng lưu trưởng giả… Ở nơng thơn là cảnh khổ của tá điền, là tội ác của
bọn điền chủ, cường hào ác bá, hương chức hội tề… Ngồi ra, có một số tác phẩm tuy lấy bối
cảnh ở Việt Nam nhưng được phóng tác từ tiểu thuyết phương Tây.
Về tư tưởng, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vận dụng triết lý của cả Nho, Phật và Đạo giáo. Tuy
nhiên, ơng tập trung đề cao đạo làm người: nhân ái hiếu nghĩa, trong sạch thẳng ngay. Ơng xây
dựng nhân vật và giải quyết vấn đề theo quan điểm: lòng thương người, sự rộng lượng, sự tu thân
lập chí, sự hiếu hạnh, sự cải tà quy chánh, ở hiền gặp lành, thiện ác đáo đầu chung hữu báo…
Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thường có tính cách điển hình. Tên nhân vật
thường nhất qn hoặc nghịch với tính cách, phẩm chất (Thủ Nghĩa trong Chúa tàu Kim Quy ăn ở
thủy chung, thằng Được trong Cay đắng mùi đời là đứa trẻ xí được, Kỳ Tâm trong Tỉnh mộng có
tâm tính khác thường, Thái Dương trong Hai khối tình lại có những hành vi ám muội …). Nhân
vật là những mẫu người thực, đa diện, nhiều dục vọng, sản phẩm đích thực của xã hội thuộc địa
miền Nam đầu thế kỷ XX.
Về nghệ thuật, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thường chọn những cốt truyện gay cấn, éo le với
những biến cố ly kỳ, tai họa bất ngờ nhưng rồi kết cục hợp lý, ln có hậu. Cách kể vẫn nghiêng
về truyền thống, theo kiểu phân tuyến và thời gian trình tự. Văn phong của ơng thực sự là “tiếng
An Nam ròng”, đậm đặc từ ngữ địa phương và khẩu ngữ. Ơng thích dùng nhiều thành ngữ, tính từ,
từ láy, từ tượng hình, tượng thanh. Hạn chế của ơng là thỉnh thoảng dùng chữ khơng đúng nghĩa
hoặc sai chính tả.
Nhiều tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được người đọc các thế hệ u mến, gần đây được
dựng thành phim. Riêng Con nhà nghèo và Cha con nghĩa nặng được chọn giảng dạy trong nhà
trường.
Nhìn chung, về lĩnh vực tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh là nhà tiểu thuyết bình dân, đã sớm khơi
dậy khơng khí sáng tác và tiếp nhận tiểu thuyết giữa lúc truyện ngắn và đoản thiên bằng tiếng Việt
còn ít ỏi và lạ lẫm. Ơng có cơng góp phần hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phơi
thai bằng chữ Quốc ngữ.
Ở lĩnh vực báo chí và biên khảo, Hồ Biểu Chánh quan tâm đặc biệt đến các vấn đề lịch sử –
xã hội. Làm báo, ơng thường bênh vực quyền lợi thương mãi cho đồng bào nhà nơng. Viết biên
khảo, ơng nêu cảm nhận của mình về tư tưởng, sự nghiệp của các nhân vật lịch sử như Pétain, Võ
Tánh, Hai Bà Trưng, Mạc Đăng Dung, Gia Long… Các bài viết tuy còn nặng cảm tính chủ quan,

thiếu khoa học… nhưng chứng tỏ một kiến thức sâu rộng, một tấm lòng thiết tha với tiền đồ văn
học, văn hóa nước nhà. Văn phong biên khảo của ơng giản dị như lời nói thường.
4
VĂN HỌC VIẾT TIỀN GIANG TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
Ở lĩnh vực thơ ca, ơng hồn tồn theo lối cũ (thể Đường luật, hình ảnh ước lệ, từ ngữ cổ xưa,
đăng đối chặt chẽ…). Ơng làm thơ chỉ với mong muốn con cháu ngày sau hiểu được tâm chí
mình: con người trong sạch, khơng chuộng lợi danh, ước mong cảnh đồn tụ, hòa thuận một nhà…
Có thể nói, tính cả những thành tựu và hạn chế, Hồ Biểu Chánh là nhà văn có cơng khai phá
thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại vào buổi phơi thai, là người góp phần đặt nền móng cho sự
hình thành trào lưu hiện thực phê phán (1930 – 1945). Sự hiện diện của ơng trên văn đàn đã khiến
nền văn học dân tộc có được một ngòi bút sung sức, rặt chất Nam Bộ, viết bởi thứ “tiếng An Nam
ròng”.
4.2. Nguyễn Thị Manh Manh
Nguyễn Thị Manh Manh (1914 - ?) tên thật Nguyễn Thị Kiêm, là nhà báo, diễn giả, nhà thơ
theo xu hướng lãng mạn (giai đoạn 1932 – 1945). Bút danh khác: Mym, Nguyễn Văn Mym,
Nguyễn Thị Kim…
Bà sinh tại Gò Cơng, tỉnh Tiền Giang. Cha là Nguyễn Đình Trị, làm tri huyện và nghị viên
thành phố Sài Gòn – Gia Định. Người mẹ thơng thạo cả Nho học lẫn Tây học, sớm định hướng
cho các con hấp thụ một nền giáo dục tồn diện.
Thuở nhỏ, bà học ở Nữ học đường Sài Gòn (Trường áo tím). Đậu Thành chung, bà dạy một
thời gian tại trường này. Thích hoạt động xã hội, bà tham gia nhiều chương trình văn nghệ từ thiện
với vai trò diễn viên. Bà chun viết cho Phụ nữ tân văn, cộng tác với các báo: Cơng luận, Việt
Nam, Nữ lưu … Nhiều phóng sự, bút ký, nghị luận, phê bình… của bà từng bước gây được tiếng
vang. Bà có cơng cổ động thành lập Hội Cựu học sinh nữ học đường Sài Gòn (ra mắt cuối 1933,
do bà làm Tổng thư ký), Nữ lưu học hội, Hội Dục anh. Bà cũng là thành viên trong ban tổ chức
Hội chợ phụ nữ ở Sài Gòn 1933.
Vào những năm ba mươi, bà sáng tác “Thơ mới”. Số lượng khơng nhiều (chỉ tám, chín bài
đăng trên Phụ nữ tân văn). Tác phẩm chịu ảnh hưởng rõ nét lối thơ hiện đại phương Tây. Thơ bà
cất lên nhiều giọng điệu: trữ tình, trần thuật, suy tưởng, nghị luận - đối thoại… Câu thơ, nhịp thơ
đa dạng: thơ bảy chữ xen tám chữ; biến thể của lục bát, song thất lục bát; thơ tự do… Bà thích

dùng lối lặp đi lặp lại nhóm từ ngữ hoặc cả câu thơ để gợi tả tâm trạng phức tạp của những cơ gái,
chàng trai tân thời: vấn vương, hồi tưởng, nhớ nhung, xao xuyến, trăn trở, chơi vơi … Dường như
bà làm thơ chỉ để nhằm chứng minh sự trẻ trung, linh hoạt của “Thơ mới” chứ khơng nhằm định
hình phong cách riêng cho mình.
Điểm lại vài vần thơ. Đây là dòng suy tưởng của người khách đến căn phòng xưa, nơi ở của
người bạn u q cố:

“Gió lọt phòng khơng
Tạt hơi đơng
Lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Ngày xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng
Gió lọt phòng khơng
Tạt hơi đơng
Lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Tình xưa phất phưởng
Ấm dịu cõi lòng”
(Viếng phòng vắng)
Còn đây là nỗi lạnh vắng của một tâm hồn cơ đơn lúc canh tàn:

“Canh tàn, nghe lòng nghe
Gió đêm thống qua cửa
Lụn tàn một góc lửa
Lạnh ngắt chốn buồng the
5

×