Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học QUAN hệ GIỮA xã hội với tự NHIÊN và vấn đề bảo vệ môi TRƯỜNG ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.71 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------•------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI VỚI TỰ NHIÊN
VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Thanh Huyền
Mã SV: 1511110377
Số thứ tự: 63
Lớp: Anh 16, Khối 5 Kinh tế, Khóa 54
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Huy Quang

Hà Nội, 11-2015

MỤC LỤC


Mục

Trang

2


PHẦN MỞ ĐẦU
*Lý do chọn đề tài:
Thế giới của chúng ta sống hiện nay hình thành từ rất nhiều các mối quan hệ, cả
những mối quan hệ vô cơ và những mối quan hệ hữu cơ vô cùng phức tạp. Trong đó, hai
thành phần tự nhiên và xã hội cũng là một trong vô vàn những mối quan hệ ấy. Tự nhiên
và xã hội có mối quan hệ biện chứng, cơ bản. Chúng chính là nền tảng cho sự tồn tại của


thế giới ngày nay. Bởi lẽ thế giới hình thành không chỉ từ các yếu tố tự nhiên để hình
thành các điều kiện sống tất yếu mà còn cần đến xã hội và quy luật của xã hội. Chính vì
vậy, tìm hiểu về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là tìm hiểu điều căn bản nhất trong
quá trình phát triển của lịch sử thế giới.
Bên cạnh đó, sự tác động của con người đối với tự nhiên và xã hội cũng là điểm
đáng chú ý. Từ khi mới xuất hiện, con người đã được tạo hóa ban cho tự nhiên, nơi cung
cấp môi trường sống và những điều kiện cơ bản nhất để tồn tại và phát triển. Qua quá
trình tiến hóa, con người dần trở nên hoàn thiện hơn, ngày càng phát triển hơn. Điều này
mang đến cả những tác động tích cực và tiêu cực cho tự nhiên. Cho đến gần đây, những
tác động tiêu cực đã dần trở nên phổ biến. Phải kể đến đó là sự tàn phá môi trường sinh
thái của con người. Và ở Việt Nam, đây là vấn đề gây nhức nhối và vô cùng cấp thiết,
đáng báo động.

*Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhằm nêu lại quan điểm Triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin về “Quan hệ giữa
xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam”. Bên cạnh đó hy
vọng làm thay đổi nhận thức xã hội nhằm tạo ta những thay đổi tích cực trong hành động
của mỗi cá nhân, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Xem xét những yếu tố tác động đến môi trường, làm rõ mối quan hệ giữa tự nhiên
và xã hội, bàn về tác động qua lại giữa chúng, tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân, hậu
quả ô nhiễm môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời đưa ra những biện
pháp nhằm khắc phục, hạn chế tác động xấu với môi trường.

*Đối tượng nghiên cứu:
3


Bài tiểu luận tập tìm hiểu tổng quan về tự nhiên, xã hội, mối quan hệ giữa tự nhiên và xã
hội, sự tác động giữa tự nhiên và xã hội với con người. Qua đó, vận dụng vào để nghiên
cứu vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện nay, rút ra bài học cho bản thân và đưa ra

phương hướng để giải quyết vấn đề.

PHẦN NỘI DUNG
I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm tự nhiên, xã hội.
1.1. Tự nhiên
Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Nó là một trong những

yếu tố cơ bản và cần thiết nhất cho sự sống, là điều kiện tất yếu và thường xuyên trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội.
Tự nhiên cung cấp cho con người nơi cư trú, cung cấp các điều kiện sống cần thiết
như thức ăn, nước, ánh sáng, không khí,... Đặc biệt, tự nhiên chứa đựng những nguyên
vật liệu giúp con người tiến hành và duy trì hoạt động sản xuất nhằm duy trì sự sống và
phát triển mọi vật chất, tăng cường ý thức, vốn hiểu biết cho con người.
Đặc biệt, con người và xã hội loài người là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Nguồn
gốc của con người là từ tự nhiên, bộ óc con người là sản phẩm cao nhất của vật chất, con
người sống trong tự nhiên như một sinh vật. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và
phát triển của con người.

1.2. Xã hội
Xã hội là một bộ phận của tự nhiên, là hình thái vận động cao nhất của vật chất.
Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa
người với người làm nền tảng. “Xã hội không phải gồm các cá nhân mà xã hội biểu hiện
tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của những cá nhân đối với nhau” (C.Mac)

4



Như vậy, xã hội được hình thành thông qua những hoạt động có ý thức của con
người chứ không tự phát như tự nhiên. Qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, tự
nhiên tự có những quy luật của riêng nó và xã hội cũng có lịch sử phát triển của mình, thể
hiện ở sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng trong cơ cấu của xã hội.

2. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội.
2.1. Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên.
Như đã nói, con người và xã hội loài người là bộ phận của tự nhiên. Nguồn gốc
của con người chính là tự nhiên. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống
và theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ
động vật (Về nguồn gốc các loài – Đác-uyn). Con người sống trong tự nhiên như mọi
sinh vật khác vì con người chính là sinh vật của tự nhiên. Ngay cả bộ óc con người cũng
chính là sản phẩm cao nhất của vật chất. Vì vậy, tự nhiên chính là tiền đề cho sự tồn tại
và phát triển của con người.
Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật sinh học, từ tự nhiên mà còn nhờ
lao động. Lao động là một quá trình được tiến hành giữa con người với tự nhiên, trong
quá trình này, con người khai thác, sử dụng và tối ưu tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại
của mình. Qua quá trình lao động, con người dần hoàn thiện cả về vật chất và ý thức. Đó
là sự hoàn thiện về cấu tạo cơ thể và hình thành ngôn ngữ. Chính lao động và ngôn ngữ
đã khiến bộ não con người phát triển vượt bậc so với những động vật khác, tâm lý động
vật đã chuyển thành tâm lý con người.
Cùng với đó là sự hình thành các quan hệ giữa người với người, cộng đồng người
dần thay đổi, từ mang tính bầy đàn sang một cộng đồng mới khác hẳn về chất, đó là xã
hội. Xã hội lấy sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng, “là sự tác động
qua lại giữa những con người”.

5


Xã hội mang tính đặc thù ở chỗ: nhân tố hoạt động là của con người có ý thức,

hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người
không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.

2.2. Tự nhiên – Nền tảng của xã hội.
Xã hội và tự nhiên thống nhất và tương tác với nhau. Đây là mối quan hệ biện
chứng hai chiều. Trước hết, ta xét những tác động của tự nhiên lên xã hội loài người. Tự
nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Bởi tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã
hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Xã hội được hình thành trong sự
tiến hóa của thế giới vật chất. Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì
chính tự nhiên đã cung cấp những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và
cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho các hoạt động sản
xuất xã hội. Vì “con người không thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên,
nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài.
Xã hội và con người được hình thành là nhờ quá trình lao động. Trong khi đó, tự
nhiên là nguồn cung cấp mọi thứ cần thiết cho sự tồn tại của xã hội và cho hoạt động lao
động của con người. Do đó, tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản
xuất xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội.

2.3. Tác động của xã hội đến tự nhiên.
Tự nhiên và xã hội có mối quan hệ khăng khít. Trong sự tác động qua lại giữa
chúng, yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và sự phát triển của xã hội, còn
yếu tố xã hội ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc biến đổi và phát triển của tự
nhiên. Tự nhiên là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và tiến lên của xã hội, của con
người. Vai trò này của tự nhiên không có gì có thể thay thế được và cũng không bao giờ
mất đi, cho dù xã hội có phát triển đến trình độ nào. Bởi lẽ, nếu coi xã hội như một cơ thể
sống, thì tự nhiên là nguồn cung cấp không khí, nước và thức ăn; còn nếu coi nó như một
cỗ máy sản xuất, thì tự nhiên lại là bộ phận đưa nguyên, nhiên liệu vào. Không có không
khí, nước và thức ăn thì cơ thể sẽ còi cọc, ốm yếu rồi tàn lụi; không có nguyên vật liệu thì

6



cái máy cũng chỉ là thứ bỏ đi. Ngày nay, với khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
con người đã chế tạo được ra những vật liệu mới vốn không có sẵn trong tự nhiên, nhưng,
suy đến cùng, thì những thành phần tạo nên chúng cũng lại đều xuất phát từ tự nhiên. Xã
hội dù có phát triển đến trình độ nào thì cũng vẫn không thể thoát ra ngoài cái vòng tự
nhiên, vì mọi hoạt động xã hội đều diễn ra trong tự nhiên, lấy tài liệu từ tự nhiên và có
đạt kết quả hay không cũng lại phụ thuộc vào tự nhiên ấy. Tự nhiên có thể tác động thuận
lợi hoặc cản trở sản xuất xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động, do đó thúc
đẩy hoặc làm chậm nhịp độ phát triển xã hội.
Xã hội loài người gắn bó với tự nhiên nhờ có các dòng vật chất, năng lượng và
thông tin, nhờ sự kết hợp giữa lao động với thiên nhiên. Nếu tự nhiên là nguồn cung cấp
các tư liệu sinh hoạt và sản xuất cho xã hội, thì xã hội là bộ phận tiêu thụ, biến đổi tự
nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả những thành phần khác của chu trình
sinh học. Xã hội có thể sử dụng tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển: từ động,
thực vật đến vi sinh vật: từ đất, đá, sỏi, cát đến các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt; từ
những nguồn vật chất có hạn và tái tạo được đến những nguồn vật chất như ánh sáng,
không khí, nước v.v..Thông qua lao động của con người trong xã hội, tự nhiên được biến
đổi và bị biến đổi. Đó chính là sự tác động trở lại của xã hội đối với tự nhiên, và sẽ quyết
định hướng phát triển tiếp theo của tự nhiên.
Nhưng, dù có vai trò khác nhau, thì cả hai yếu tố tự nhiên và xã hội đều cùng nhau
hợp thành hệ thống Tự nhiên - xã hội . Sự thống nhất của hệ thống này được xây dựng
trên cơ sở cấu trúc liên hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được bảo đảm bởi cơ chế hoạt
động của chu trình sinh học - đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa
các hệ thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. Hoạt động
của chu trình này tuân theo những quy luật và những nguyên tắc tổ chức chung (nguyên
tắc tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ) mà cả hai yếu tố cùng phải nhất loạt
tuân theo thì mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững được.

7



2.4. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội
Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội trong đó quan
trọng nhất là trình độ phát triển của xã hội và độ nhận thức, vận dụng quy luật tự nhiên,
xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người.
Quan hệ xã hội với tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội: Thông
qua các hoạt động của con người, lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đã trở nên gắn bó và
quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định này phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã
hội mà tiêu chí để đánh giá là phương thức sản xuất. Sự ra đời của những phương thức
sản xuất mới quyết định sự biến chuyển về chất của xã hội loài người. Chính phương
thức sản xuất quy định tính chất của mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương
thức sản xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác nhau để khai thác giới tự
nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục
đích sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội
và tự nhiên cũng thay đổi theo. Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi
trường sống mà còn là đối tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng môi
trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống của nhân loại. Để tồn tại và phát
triển con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử với tự
nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - nguồn
gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm
vụ của tất cả mọi người.
Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng
các quy luật trong hoạt động thực tiễn: Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể
hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó
mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận
thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn. Một nhận thức tốt đi
kèm với những hành động theo quy luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hỏa,
thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai


8


thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự
nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người
sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận
thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn. Thời đại ngày nay
khoa học kĩ thuật phát triển, nhận thức đã được nang lên nhiều vấn đề còn lại là phải hành
động cho đúng. Để tuân theo các quy luật tự nhiên thì việc xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa là con đường duy nhất.

2.5. Con người với tự nhiên và xã hội
Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội: Con người là
sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên
nhưng sau khi tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Con người sống trong môi
trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với người với người. Vì thế con
người mang trong mình bản tính tự nhiên và bản chất xã hội.
Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận
dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn của con người: Mối quan hệ giữa tự nhiên và
con người được thể hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động
theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận
thức, trước hết là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực
tiễn. Nếu con người nhận thức tốt và hành động theo quy luật thì sẽ tạo ra một thế giới
hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật,
chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sẽ phá hủy tự nhiên và
làm phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt
vong. Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã hội và
đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.
II.


VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội.

Nó bao gồm sinh quyển, thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và năng lượng mặt trời

9


giúp con người duy trì sự sống. Không chỉ đơn giản là môi trường địa lý, môi trường
sống của con người là môi trường tự nhiên – xã hội. Bởi con người là một thực thể
sinh học trong đó.

1. Thực trạng
Môi trường không còn là một vấn đề mới trong xã hội hiện đại ngày nay, tuy nhiên
bàn về môi trường chúng ta không thể không nhắc đến vấn đề gây nhức nhối và luôn luôn
nóng bỏng đó là ô nhiễm môi trường sinh thái.
*Ô nhiễm không khí
Môi trường không khí hiện nay đang bị ô nhiễm. Khu vực ở ven đô, các khu vực
dân cư đông đúc... có nồng độ các chất trong không khí cao hơn. Các khí bụi, khí thải từ
hoạt động giao thông, sản xuất,... đang ngày càng trở thành vấn đề đáng lưu ý. Tiêu biểu
là tình trạng kẹt xe, tắc đường ở các đô thị mỗi ngày, hoạt động khai thác khoáng sản ở
Quảng Ninh, Hải Phòng,..., chế biến lương thực ở Tây Nguyên... Đặc biệt là sản xuất xi
măng ở khu vực phía Bắc, nhiều nghiên cứu cho thấy hàm lượng bụi cao nhất đo được
thường cách các nhà máy này khoảng 1,5-3 km với hàm lượng TSP vượt nhiều so với
QCVN.

Bảng 1: Nồng độ TSP trong không khí xung quanh vùng nông thôn chịu ảnh
hưởng từ nhà máy xi măng khu vực phía Bắc.


10


Đặc biệt, hiện tượng ô nhiễm cục bộ đã được ghi nhận tại một số làng nghề, khu
vực cụm điểm công nghiệp nằm xen kẽ trong khu dân cư, xung quanh điểm khai thác và
sản xuất vật liệu xây dựng, cũng như một số điểm đang diễn ra hoạt động nâng cấp cơ sở
hạ tầng. Các thông số đáng chú ý là bụi, NH3, H2S, SO2, NO2... Theo số liệu thống kê
của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, làng nghề tập trung chủ yếu ở miền Bắc, trong đó tập
trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Hồng(Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình,
Hưng Yên,...), tiếp đến là khu vực Nam Bộ và Trung Bộ.
*Ô nhiễm nguồn nước
Đất nước ta có nguồn nước phong phú từ các hệ thống sông, suối dày đặc cùng với
các ao, hồ, kênh rạch phân bố trên khắp Việt Nam. Đây là nguồn cung cấp nước cho sinh
hoạt, sản xuất nhưng cũng là nơi phải tiếp nhận nước thải từ chính các hoạt động này. Ở
nhiều nơi, nguồn nước bị suy giảm chất lượng và xảy ra ô nhiễm cục bộ của các chất hữu
cơ, kim loại nặng và ô nhiễm vi sinh.
Phần lớn lượng nước thải đến từ sinh hoạt, chiếm khoảng 80% lượng nước sử
dụng. Theo số liệu tính toán, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là 2
vùng tập trung nước thải sinh hoạt nhiều nhất cả nước. Ngoài ra chất thải, hóa chất từ
hoạt động sản xuất chưa qua xử lý thải thẳng ra sông, hồ, ao, suối,... làm cho nguồn nước
bị ô nhiễm trầm trọng. Các con sông như sông Tiền – sông Hậu, sông Đồng Nai, sông
Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu... đang ngày càng đối mặt với tình trạng ô nhiễm.
*Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp
Hoạt động sản xuất nông nghiệp đã và đang làm gia tăng tình trạng ô nhiễm môi
trường do việc mở rộng sản xuất. Trong số 23.500 trang trại chăn nuôi, mới chỉ số
khoảng 1.700 cơ sở có hệ thống xử lý chất thải. Mặt khác, các trang trại chưa được đầu tư
quy mô lớn nên vẫn nằm xen kẽ trong các khu dân cư và không đủ diện tích để xây dựng
các công trình bảo vệ môi trường đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép. Theo ước tính,
có khoảng 40 – 50% lượng CTR chăn nuôi được xử lý, còn lại thải trực tiếp thẳng ra ao,
hồ, kênh, rạch,...


11


Ở Thái Nguyên, toàn tỉnh có 274 trang trại, gia trại lợn thì khoảng 90% có quy mô
dưới 1000 con/năm, 10% còn lại trên 1000 con/năm. Chất thải từ các trang trại này hầy
hết được xử lý bằng hệ thống biogas nên chỉ giải quyết được bấn đề thu hồi khí sinh học
để tận thu làm nhiên liệu, còn mức độ giảm thiểu ô nhiễm không đáng kể. Tại Thái Bình,
toàn tỉnh có trên 1000 trang trại, 14000 gia trại mỗi ngày thải ra môi trường 477 tấn chất
thải.

2. Nguyên nhân
Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng của nhiều người dân. Nhiều
người nghĩ rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường.
Một số khác lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của chính
quyền mà không phải của mình. Số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì
có làm gì đi chăng nữa cũng không đáng kể, và việc ô nhiễm môi trường cũng không ảnh
hưởng gì tới mình nhiều... Tất cả đều sai lầm, việc phá hoại môi trường của một người
tuy chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng tập hợp nhiều người lại là lớn. Trách nhiệm bảo vệ môi
trường không phải của riêng một ai mà là của tất cả mọi người.
Một nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm
của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp
đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần đáng kể gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay với
xu thế hội nhập toàn cầu hóa, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hay sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp, các khu vực càng làm gia tăng sự nguy hại đối với môi trường khi ai ai
cũng đặt nặng mục tiêu lợi nhuận trước mắt.
Bên cạnh đó là những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo
vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của
Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều
chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy

trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn
chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản

12


mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế
hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong việc
bảo vệ môi trường.
Quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên
đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các
loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa
chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những
hành vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự;
còn các biện pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa
và đình chỉnh hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng
nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết, doanh nghiệp trây
ỳ nên cũng không có hiệu quả.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công
tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra,
giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức
năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để
tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự
án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được
tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm
định và phê duyệt không cao.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn
hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá
nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường.


3. Hậu quả
Việc môi trường sinh thái bị hủy hoại và ngày càng ô nhiễm đã gây ra những ảnh
hưởng xấu, những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với tự nhiên. Ở đây ta thấy được

13


mối quan hệ giữa tự nhiên với xã hội, con người đại diện cho xã hội tác động tiêu cực đến
môi trường, đến tự nhiên. Và tự nhiên chịu ảnh hưởng xấu, do đó xã hội, con người
không thể không có tác động ngược trở lại. Ta cùng xem xét những hậu quả tiêu biểu, phổ
biến và có ảnh hưởng trực tiếp tới con người:
Thứ nhất, nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe doạ cả nước. Trên thực tế,
tai hoạ mất rừng và cạn kiệt tài nguyên rừng đã xảy ra ở nhiều vùng, đặc biệt là khu vực
miền Trung và Tây Nguyên. Diện tích rừng suy giảm gây nhiều hậu quả như: lũ lụt, hạn
hán, sụt lở đất, các loài động vật quý hiếm đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng,
không gian sống của nhiều loài động thực vật rừng đang bị đe dọa, hệ sinh thái bị suy
giảm nghiêm trọng. Ngoài ra, mất rừng gây ra các hệ lụy chung như làm thất thoát lượng
oxy cung cấp cho con người và các loài động thực vật, làm cho trái đất nóng lên, nước
biển dâng... Vì vậy mà mất rừng là một thảm hoạ quốc gia.
Thứ hai, ô nhiễm nguồn nước không những gây ảnh hưởng đến môi trường tự
nhiên mà còn tác động trực tiếp tới con người. Nước dùng cho sinh hoạt ngày càng cạn
kiệt, phải sử dụng nguồn nước ngầm gây tiêu tốn tiền bạc của cải vật chất. Các sông, hồ,
ao, suối bị ô nhiễm gây mất mỹ quan đô thị và mất vệ sinh, đặc biệt là không khí xung
quanh. Hơn thế nữa, tỷ lệ mắc các bệnh cấp và mãn tính liên quan đến ô nhiễm nước như
viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư,... ngày càng tăng. Đặc biệt ở vùng biển, ô nhiễm làm
cho tài nguyên biển, tài nguyên sinh vật biển ở ven bờ đã bị suy giảm đáng kể, môi
trường biển bắt đầu bị ô nhiễm, gây tổn thất lớn cho các ngành sản xuất kinh doanh, các
hộ nuôi trồng thủy, hải sản.
Bên cạnh đó, không khí bị ô nhiễm cũng gây nên các căn bệnh về đường hô hấp

như lao, tim phổi,..., các loại bệnh ung thư cho con người. Chi phí chữa bệnh và giải
quyết ô nhiễm làm thiệt hại khá lớn đối với nền kinh tế của đất nước. Còn đối với hệ sinh
thái, ô nhiễm không khí có thể gây mưa axit, làm giảm ánh sáng mặt trời ảnh hưởng đến
quá trình quang hợp, vì thế giảm lượng khí oxy rất cần thiết cho các loài động thực vật,...

14


Đặc biệt, việc khí thải CO2 tăng lên do sinh ra từ các nhà máy và phương tiện giao thông
mỗi ngày làm tăng hiệu ứng nhà kính, làm Trái Đất nóng dần lên, các khu sinh thái sẵn có
dần bị phá hủy.
Ngoài ra còn vô vàn những hậu quả khác do ô nhiễm môi trường sinh thái gây nên,
có những ảnh hưởng thấy được ngay trước mắt nhưng cũng có những ảnh hưởng chúng ta
không dễ dàng để nhìn thấy. Tuy nhiên chúng đều làm suy thoái môi trường tự nhiên, ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người một cách dần dần và theo thời gian sẽ hủy hoại tất cả.

4. Biện pháp khắc phục
Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi
trường, cá nhân em nghĩ cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó những chế tài xử
phạt(cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối
tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong
các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát
chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi
trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí
kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng
thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác
môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động

của các lực lượng này.
Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các
làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn
diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn
lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn
cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công

15


nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu
gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường
xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Cần chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động
môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính
xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư.
Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước
mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh
bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể
tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường
trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn
giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một
cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội.
Tình trạng môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn có thể cứu vãn nếu mỗi
người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo vệ môi trường. Vì vậy, chúng ta cần
chung tay bảo vệ môi trường và tránh gây ô nhiễm. Vì tương lai một Việt Nam xanh,
sạch, đẹp và vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như của các thế hệ sau.


16


PHẦN KẾT
Quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là một mối quan hệ phổ biến. Sự tác động qua lại
giữa chúng luôn đi liền với lợi ích của con người. Bên cạnh đó, vài trò của con người
cũng rất quan trọng, làm ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ trên. Vì vậy, con người cần
ý thức chặt chẽ vai trò của mình và tuân theo những quy luật tự nhiên và xã hội nhằm
tránh tác động tiêu cực đến môi trường sống.
Môi trường thuộc về tự nhiên, và mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thể hiện rất
rõ qua điều kiện của môi trường sinh thái. Song, việc ô nhiễm môi trường đang đe dọa
toàn bộ sự sống trên trái đất, trong đó có xã hội loài người. Vì vậy, việc ngăn chặn và
khắc hiểm họa này phụ thuộc vào con người và nó ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của
chính chúng ta. Điều quan trọng là con người phải nhận thức đúng đắn về mối quan hệ
giữa tự nhiên và xã hội rồi biến những nhận thức đó thành hành động thực tế. Việc bảo vệ
môi trường chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của chúng ta.
Nhìn chung, đề tài “Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề môi trường bảo vệ
môi trường ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài giàu tính thực tế. Nó phản ánh được mối
quan hệ biện chứng phổ biến của lịch sử tự nhiên, xã hội đồng thời gắn liền với nhận thức
và hành động thực tế của con người trong việc bảo vệ tự nhiên và xã hội, đó cũng chính
là bảo vệ môi trường sống của chúng ta.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
2. PGS.TS Đoàn Văn Khái, PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Lôgic học
và phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học.

3. Doãn Công Khánh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thương mại và môi
trường, Tạp chí cộng sản, xuất bản 30/4/2013.
/>distribution=21247&print=true
4. Tổng cục môi trường, Báo cáo môi trường quốc gia 2014, xuất bản
25/06/2015.

/>
%C3%A1o/tabid/368/cat/89/nfriend/3747047/language/vi-VN/Default.aspx
5. Diễn đàn Tài nguyên và môi trường Việt Nam, Tài nguyên và môi trường,
xuất bản 31/10/2015.
/>6. Wikipedia, Bách khoa toàn thư mở tiếng Việt.
/>7. Bộ Tài nguyên và môi trường.
/>8. Sở Tài nguyên và môi trường các tỉnh Thái Nguyên, Hà Nam và Phú Thọ, Thái
Nguyên, 2014.
9. Chi cục Bảo vệ môi trường tỉnh Thái Bình, 2014.

18



×