Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Luận văn thạc sĩ kiến thức và thực hành theo dõi phản ứng sau tiêm chủng của bà mẹ có con dưới 1 tuổi và một số yếu tố liên quan tại hai huyện thành phố của tỉnh thanh hóa năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.01 KB, 76 trang )

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Kiến thức của người chăm sóc trẻ về phản ứng sau tiêm chủng.... 33
Biểu đồ 3.2. Thực hành của người chăm sóc trẻ sau tiêm chủng................... 37
Biểu đồ 3.3. Nguyên nhân người chăm sóc không cho trẻ ở lại theo dõi đủ 30
phút tại trạm y té..................................................................... 38
Biểu đồ 3.4. Nguyên nhân người chăm sóc trẻ không cho trẻ theo dõi trẻ trong
24 giờ tại nhà.......................................................................... 39
Biểu đồ 3.5. Những thông tin người chăm sóc trẻ cung cấp cho CBYT trước
khi tiêm chủng ........................................................................ 39
Biểu đồ 3.6. Nguồn cung cấp thông tin về các phản ứng sau tiêm chủng cho bà mẹ.... 41
Biểu đồ 3.7. Phương thức truyền thông được người chăm sóc trẻ cho là có
hiệu quả nhất .......................................................................... 43

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Hệ thống giám sát phản ứng sau tiêm chủng tại Việt Nam............. 17


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình Tiêm chủng mở rộng được cộng đồng quốc tế đánh giá là
một trong những chương trình chăm sóc sức khoẻ thiết thực, hiệu quả nhất
thực hiện công ước quốc tế về quyền trẻ em và tiếp tục trở thành chương trình
ưu tiên của mọi quốc gia sau năm 2000 [3]. Tiêm chủng phòng bệnh bằng các
vắc xin là một thành tựu trong y học ở thế kỷ XX, có ý nghĩa to lớn trong y
học dự phòng. Chương trình Tiêm chủng mở rộng đã góp phần làm giảm
đáng kể tỷ lệ mắc và chết của trẻ em dưới 1 tuổi và 5 tuổi về các bệnh truyền
nhiễm. Ước tính hàng năm tiêm chủng đã cứu sống khoảng 1 triệu trẻ em ở
các nước đang phát triển [41].
Tại Việt Nam, trải qua chặng đường hơn 30 năm hoạt động kể từ năm
1985, Chương trình TCMR đã đạt được những thành quả to lớn trong việc


đưa dịch vụ tiêm chủng tới cho toàn thể trẻ em, góp phần phòng ngừa và làm
giảm đáng kể tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm phổ biến, nguy hiểm ở trẻ em.
Hàng năm có hàng triệu trẻ em ở Việt Nam được tiêm chủng. Tiêm chủng mở
rộng đã tới với mỗi gia đình, mỗi thôn, ấp, bản, mỗi dân tộc trên mọi miền đất
nước, góp phần đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân [22].
Cùng với việc duy trì tỷ lệ tiêm chủng cao thì chất lượng tiêm chủng
ngày càng được chú trọng. Giám sát, phát hiện, báo cáo những phản ứng bất
thường sau tiêm chủng có thể giúp xác định nguyên nhân từ đó đề ra những
biện pháp phù hợp đồng thời sẽ tránh được những thông tin sai lệch có thể
gây mất lòng tin đối với tiêm chủng và quan trọng hơn là củng cố lòng tin của
cộng đồng đối với công tác tiêm chủng [13],[14], [ 19]. Việc phối hợp cùng
gia đình trong công tác chăm sóc sức khỏe của trẻ sau tiêm chủng có vai trò
nhất định trong đảm bảo an toàn tiêm chủng; các bà mẹ có kiến thức đầy đủ
và thực hành đúng về theo dõi và chăm sóc trẻ sau tiêm chủng từ đó sớm phát


2
hiện một số biểu hiện bất thường sau tiêm chủng để đưa trẻ tới các cơ sở y tế
xử trí tránh những tai biến, rủi ro đáng tiếc.
Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của một số các trường hợp
phản ứng nặng sau tiêm chủng, đặc biệt là một số trường hợp phản ứng xảy ra
sau tiêm vắc xin Quinvaxem năm 2013 và có nghi ngờ liên quan đến vắc xin
đã làm cộng đồng và các bà mẹ lo lắng, thậm chí từ chối tiêm chủng đã tác
động trực tiếp đến tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ của trẻ em và làm tăng số trường
hợp mắc bệnh truyền nhiễm phòng được bằng vắc xin [16],[18]. Vấn đề an
toàn tiêm chủng cần được quan tâm và củng cố. Câu hỏi đặt ra là các bà mẹ
đã hiểu biết đầy đủ về phản ứng sau tiêm chủng, thực hành theo dõi trẻ đúng
sau tiêm chủng như thế nào? Tìm hiểu những yếu tố liên quan đến những kiến
thức và thực hành của bà mẹ về chăm sóc trẻ sau tiêm chủng từ đó đề xuất
một số giải pháp phù hợp là cần thiết.

Xuất phát từ vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu về: “Kiến
thức và thực hành theo dõi phản ứng sau tiêm chủng của bà mẹ có con
dưới 1 tuổi và một số yếu tố liên quan tại hai huyện/thành phố của tỉnh
Thanh Hóa năm 2016”:
Mục tiêu của nghiên cứu:
1. Mô tả kiến thức và thực hành theo dõi phản ứng sau tiêm chủng của bà
mẹ có con dưới 1 tuổi tại huyện Hoằng Hóa và thành phố Thanh Hóa,
tỉnh Thanh Hoá năm 2016.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành theo dõi
phản ứng sau tiêm chủng của bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại huyện
Hoằng Hóa và thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá năm 2016.


3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vắc xin, phân loại và bảo quản vắc xin
1.1.1. Một số khái niệm và định nghĩa
Vắc xin là chế phẩm sinh học chứa kháng nguyên tạo cho cơ thể khả
năng đáp ứng miễn dịch. Vắc xin phải được bảo quản trong hệ thống dây
chuyền lạnh ở điều kiện phù hợp từ khi sản xuất tới khi sử dụng [5],[12].
Tiêm chủng là việc đưa vắc xin vào cơ thể con người với mục đích tạo
cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn dịch để dự phòng bệnh tật [8].
Dây chuyền lạnh là hệ thống thiết bị nhằm bảo quản và vận chuyển vắc
xin theo đúng nhiệt độ quy định từ nhà sản xuất đến người sử dụng, bao gồm
buồng lạnh, xe lạnh, tủ lạnh, tủ đá, hòm lạnh, phích vắc xin [8].
Phản ứng sau tiêm chủng là hiện tượng bất thường về sức khỏe bao
gồm các biểu hiện tại chỗ tiêm chủng hoặc toàn thân xảy ra sau tiêm chủng,
không nhất thiết do việc sử dụng vắc xin, bao gồm phản ứng thông thường
sau tiêm chủng và tai biến nặng sau tiêm chủng [8].

Tai biến nặng sau tiêm chủng là phản ứng bất thường sau tiêm chủng
có thể đe dọa đến tính mạng người được tiêm chủng (bao gồm các triệu chứng
như khó thở, sốc phản vệ hay sốc dạng phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt
cao co giật, trẻ khóc kéo dài, tím tái, khó thở) hoặc để lại di chứng hoặc làm
người được tiêm chủng tử vong [8].
1.1.2. Phân loại vắc xin
1.1.2.1. Vắc xin sống giảm động lực (được làm yếu đi)
Là dạng vi rút hoặc vi khuẩn gây bệnh đã được làm giảm độc lực hoặc
suy yếu, sẽ nhân lên khi được đưa vào cơ thể và có đáp ứng miễn dịch gần
giống như nhiễm trùng tự nhiên. Vắc xin dễ bị hỏng hoặc giảm hiệu lực bởi
những tác nhân lý hóa như nhiệt độ cao, ánh sáng, hóa chất hoặc kháng thể


4
lưu hành trong máu. Một số loại vắc xin sống giảm động lực có nguồn gốc từ
vi rút như: Sởi, Rubella, Thủy đậu, Rotavirus, Bại liệt…, có nguồn gốc từ vi
khuẩn như vắc xin phòng lao (BCG)… [12],[31],[39],[45].
1.1.2.2. Vắc xin bất hoạt (chết)
Là vắc xin có nguồn gốc từ toàn bộ tế bào vi khuẩn, vi rút gây bệnh được
xử lý bằng hóa chất, nhiệt độ làm vi sinh vật bị chết, hoàn toàn không còn khả
năng gây bệnh. Vắc xin Ho gà toàn tế bào, bại liệt tiêm [31],[39], [ 45].
1.1.2.3. Vắc xin tinh chế
Thay vì toàn bộ tế bào vi sinh vật, vắc xin tinh chế chỉ bao gồm các
kháng nguyên mà tạo được miễn dịch tốt nhất. Trong một số trường hợp, các
vắc xin này sử dụng các quyết định kháng nguyên – phần đặc hiệu của kháng
nguyên mà kháng thể hoặc tế bào T nhận ra và gắn vào.
Vắc xin tinh chế có thể chứa ở bất cứ đâu từ 1-20 kháng nguyên hoặc
nhiều kháng nguyên khác. Việc xác định kháng nguyên tốt nhất kích thích hệ
thống miễn dịch là một quá trình tốn thời gian khó khăn. Phát triển vắc xin
tinh chế bằng cách: Phát triển các loại vi khuẩn trong phòng thí nghiệm và sau

đó sử dụng hóa chất để phá vỡ nó ra và thu thập các kháng nguyên quan
trọng, hoặc có thể sản xuất các phân tử kháng nguyên từ vi khuẩn sử dụng
công nghệ DNA tái tổ hợp. Như vắc xin Ho gà vô bào, Hib, phế cầu (PCV-7,
PCV-10, PCV-13, viêm gan B [39], [ 45].
1.1.2.4. Vắc xin giải độc tố
Các loại vắc xin được sử dụng khi một độc tố của vi khuẩn là nguyên
nhân chính của bệnh do vi sinh vật tiết ra độc tố, hoặc hóa chất độc hại. Các
nhà khoa học đã phát hiện ra rằng họ có thể làm bất hoạt độc tố bằng cách xử
lý chúng với formalin, một dung dịch formaldehyde và nước khử trùng… để
biến độc tố của vi sinh vật được an toàn để sử dụng trong vắc xin. Từ giải độc
tố như Uốn ván, Bạch hầu [12],[31],[45].


5

1.1.3. Bảo quản vắc xin
Vắc xin là một sinh phẩm đặc biệt, cần được bảo quản nghiêm ngặt
trong hệ thống dây chuyền lạnh. Nhiệt độ đảm bảo để giữ vắc xin an toàn ở
tuyến huyện/xã và điểm tiêm chủng là từ +2 độ C đến +8 độ C. Nhiệt độ nóng
và lạnh ngoài khoảng an toàn trên đều có thể làm hỏng vắc xin. Vắc xin cần
phải được bảo quản liên tục trong dây chuyền lạnh từ khi xuất xưởng cho tới
điểm tiêm chủng và trong suốt buổi tiêm chủng. Vắc xin bị phơi nhiễm với
nhiệt độ cao sẽ bị mất hiệu lực. Vắc xin bị đông băng thì không những gây
ảnh hưởng tới hiệu lực bảo vệ của vắc xin mà còn có thể gây ra các phản ứng
không mong muốn [5],[12].
Theo dõi nhiệt độ của buồng lạnh, tủ lạnh hàng ngày (kể cả ngày lễ,
ngày nghỉ) và ghi vào bảng theo dõi nhiệt độ tối thiểu 02 lần/ngày vào buổi sáng
lúc đến và buổi chiều trước khi cán bộ quản lý kho về. Không bảo quản vắc xin
đã hết hạn sử dụng, lọ vắc xin đã pha hồi chỉnh sau buổi tiêm chủng và vắc xin
có gắn chỉ thị nhiệt độ đã đổi màu báo cần hủy trong dây chuyền lạnh. Dây

chuyền lạnh sử dụng bảo quản vắc xin chỉ được sử dụng cho vắc xin.
1.2. Công tác tiêm chủng mở rộng tại Việt Nam
1.2.1. Lịch sử phát triển của Chương trình tiêm chủng mở rộng
Chương trình Tiêm chủng mở rộng, bắt đầu được triển khai ở Việt Nam
từ năm 1981 do Bộ Y tế khởi xướng với sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF). Chương trình có mục
tiêu ban đầu là cung cấp dịch vụ tiêm chủng miễn phí cho trẻ em dưới 1 tuổi,
bảo vệ trẻ khỏi mắc 6 loại bệnh truyền nhiễm phổ biến và gây tử vong cao.
Sau một thời gian thí điểm, Chương trình từng bước được mở rộng dần cả về
địa bàn và đối tượng tiêm chủng, để từ năm 1985 tới nay toàn bộ trẻ em dưới
1 tuổi là đối tượng của Chương trình trên toàn quốc đã có cơ hội được tiếp
cận với Chương trình TCMR. Đến năm 2015, đã có 12 vắc xin phòng bệnh
truyền nhiễm phổ biến, nguy hiểm cho trẻ em được đưa vào Chương trình
[14],[19].


6

1.2.2. Các loại vắc xin sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng
Có 8 loại vắc xin sử dụng trong tiêm chủng mở rộng cho trẻ dưới 1 tuổi
hiện đang triển khai trên toàn quốc là [4]:
Bảng 1. 1. Lịch tiêm chủng cho trẻ em trong chương trình TCMR
tại Việt Nam
Lịch tiêm
(theo tháng tuổi)
Sơ sinh
(càng sớm càng tốt)
2 tháng tuổi

Vắc xin

BCG

Lao

Viêm gan B

Viêm gan B

OPV 1

Bại liệt

Quinvaxem 1
OPV 2

3 tháng tuổi
Quinvaxem 2
OPV 3
4 tháng tuổi
9 tháng tuổi
12 tháng tuổi
18 tháng tuổi
24 tháng tuổi

Phòng bệnh

Quinvaxem 3

Bạch hầu – ho gà – uốn ván – viêm
gan B – viêm màng não mủ do Hib

Bại liệt
Bạch hầu – ho gà – uốn ván – viêm
gan B – viêm màng não mủ do Hib
Bại liệt
Bạch hầu – ho gà – uốn ván – viêm
gan B – viêm màng não mủ do Hib

Sởi mũi 1

Sởi

VNNB 1

Viêm não Nhật Bản

VNNB 2
Sởi-Rubella

Sởi và Rubella

DPT4

Bạch hầu, ho gà, uốn ván

VNNB 3

Viêm não Nhật Bản

1.3. Chỉ định và chống chỉ định trong tiêm chủng
1.3.1. Chỉ định tiêm vắc xin

Chỉ định tiêm vắc xin theo đúng lịch tiêm chủng và thực hiện đúng chỉ
định, chống chỉ định đối với từng loại vắc xin theo hướng dẫn.


7
1.3.2. Chống chỉ định tiêm vắc xin [9].
- Trẻ có tiền sử sốc hoặc phản ứng nặng sau tiêm chủng vắc xin lần trước
(có cùng thành phần) như: sốt cao trên 390C kèm co giật hoặc dấu hiệu
não/màng não, tím tái, khó thở.
- Trẻ có tình trạng suy chức năng các cơ quan (như suy hô hấp, suy tuần
hoàn, suy tim, suy thận, suy gan,…)
- Trẻ suy giảm miễn dịch (bệnh suy giảm miễn dịch bẩm sinh, trẻ nhiễm
HIV giai đoạn lâm sàng IV hoặc có biểu hiện suy giảm miễn dịch nặng)
chống chỉ định tiêm chủng các loại vắc xin sống. Không tiêm vắc xin BCG
cho trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV mà không được điều trị dự phòng lây truyền
từ mẹ sang con.
Các trường hợp chống chỉ định khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất
đối với từng loại vắc xin.
1.3.3. Các trường hợp tạm hoãn [9].
- Trẻ mắc các bệnh cấp tính, đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng.
- Trẻ sốt ≥ 37,50C hoặc hạ thân nhiệt ≤ 35,50C (đo nhiệt độ tại nách).
- Trẻ mới dùng các sản phẩm globulin miễn dịch trong vòng 3 tháng trừ
trường hợp trẻ đang sử dụng globulin miễn dịch điều trị viêm gan B.
- Trẻ đang hoặc mới kết thúc liều điều trị corticoid (uống, tiêm) trong
vòng 14 ngày.
- Trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2.000g.
Các trường hợp tạm hoãn tiêm chủng khác theo hướng dẫn của nhà sản
xuất đối với từng loại vắc xin [13], [ 37].



8
1.4. Phản ứng sau tiêm chủng
1.4.1. Khái niệm về phản ứng sau tiêm chủng
Theo Tổ chức Y tế thế giới: Phản ứng sau tiêm chủng là bất kỳ sự kiện
bất lợi nào xảy ra sau khi tiêm chủng và sự kiện đó không nhất thiết liên quan
đến việc sử dụng vắc xin [6],[43].
Tại Nghị định 104/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 có đưa ra khái niệm về
sự cố bất lợi sau tiêm chủng là hiện tượng bất thường về sức khỏe bao gồm
các biểu hiện tại chỗ tiêm hoặc toàn thân xảy ra sau tiêm chủng, không nhất
thiết do việc sử dụng vắc xin, bao gồm phản ứng thông thường sau tiêm
chủng và tai biến nặng sau tiêm chủng [11].
1.4.2. Phân loại phản ứng sau tiêm
1.4.2.1. Theo mức độ
Phản ứng thông thường sau tiêm chủng bao gồm các phản ứng tại chỗ
như ngứa, đau, sưng và/hoặc đỏ tại chỗ tiêm; phản ứng toàn thân bao gồm sốt
và các triệu chứng khác (khó chịu, mệt mỏi, chán ăn) có thể là một phần của
đáp ứng miễn dịch bình thường. Các phản ứng này thông thường là nhẹ và tự
khỏi [6].
Bảng 1.2. Các phản ứng thông thường của vắc xin [13],[44].
Các triệu chứng toàn

Phản ứng phụ
Vắc xin

tại chỗ (sưng, đỏ,

Sốt (>38ºC)

chịu, quấy khóc


đau)
BCG
Viêm gan B

90-95%
Người lớn:15%
Trẻ em :5%

-

-

1-6%

-

Hib

5-15%

2-10%

Vắc xin cúm bất hoạt

10-64%

5-12%

Vắcxin sống cúm


thân, kích thích, khó

16-31%

Vắc xin viêm não bất hoạt

<4%

Vắc xin sống viêm não

<1%

Sởi/ sởi quai bị rubella

10%

5-15%

5% (ban)

-

Dưới 1%

Dưới 1%

Bại liệt uống (OPV)

<1%



9

Phản ứng phụ
Vắc xin

tại chỗ (sưng, đỏ,

Các triệu chứng toàn
Sốt (>38ºC)

chịu, quấy khóc

đau)
DTP – ho gà toàn tế bào

tới 50%

Phế cầu cộng hợp.

thân, kích thích, khó

tới 50%

tới 60%

~20%
~10%

<1%


~ 20%

(>390C)
Phế cầu không cộng hợp

50%

Uốn ván/DT/Td

~10% 5

Thủy đậu

7-30%

<1%
(>390C)
~10%

~25%

Các phản ứng nhẹ thường gặp của vắc xin, không kéo dài, các phản ứng
nhẹ không cần phải báo cáo trừ khi xảy ra nhiều hơn bình thường.
Như sau tiêm vắc xin BCG phòng bệnh lao, ghi nhận 90%-95% các
trường hợp có biểu hiện phản ứng tại chỗ tiêm, trẻ thường xuất hiện nốt nhỏ
tại chỗ tiêm và biến mất sau 30 phút. Sau khoảng 2 tuần, xuất hiện một vết
loét đỏ có kích thước bằng đầu bút chì, sau đó 2 tuần vết loét chảy mủ rồi tự
lành và để lại một sẹo nhỏ có đường kính khoảng 5 mm. Điều đó chứng tỏ trẻ
đã có miễn dịch [13],[44].

Sau tiêm vắc xin có chứa thành phần ho gà toàn tế bào (DPwT) ghi
nhận trên 50% trường hợp trẻ sau tiêm có phản ứng tại chỗ (sưng, nóng, đỏ,
đau), trên 50% các trường hợp có phản ứng sốt (>380C), khoảng 60% các
trường hợp có triệu chứng toàn thân, kích thích, khó chịu, quấy khóc
[13],[44].
Tai biến nặng sau tiêm chủng là phản ứng bất thường sau tiêm chủng
có thể đe dọa đến tính mạng người được tiêm chủng (bao gồm các triệu chứng
như khó thở, sốc phản vệ hay sốc dạng phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt
cao co giật, trẻ khóc kéo dài, tím tái, ngừng thở) hoặc để lại di chứng hoặc
làm người được tiêm chủng tử vong [6].


10
Bảng 1.3. Các phản ứng nặng và hiếm gặp sau tiêm vắc xin
Thời gian

Tỷ lệ trên

xuất hiện

1.000.000 liều

-Viêm hạch có mủ

2-6 tháng

100-1000

-Viêm xương BCG


1-12 tháng

1- 700

-Nhiễm khuẩn BCG lan tỏa

1-12 tháng

0,19 -1,56

-

-

0-1 giờ

1,1

-

1-2.3

Vắc xin

BCG

Phản ứng

Hib


Không

Viêm gan B

Sốc phản vệ

Viêm não Nhật
Bản (bất hoạt)

Biểu hiện thần kinh (viêm
não, bệnh não, thần kinh
ngoại biên)

Sởi/

- Co giật có sốt

6-12 ngày

330

Sởi - quai bị -

- Giảm tiểu cầu

15-35 ngày

30

rubella/


- Sốc phản vệ

1 giờ

1

Sởi - rubella

- Bệnh não

6-12 ngày

<1

Bại liệt uống

Liệt liên quan tới vắc xin

4-30 ngày

2-4

- Viêm thần kinh cánh tay

2-28 ngày

5-10

- Sốc phản vệ


0-1 giờ

1-6

- Áp xe vô trùng

1-6 tuần

6-10

- Khóc thét dai dẳng >3 giờ

0-24 giờ

< 10.000

- Co giật

0-3 ngày

<10.000

- Giảm trương lực cơ

0-48 giờ

1000-2000

- Sốc phản vệ


0-1 giờ

20

- Bệnh não*

0-2 ngày

0-1

(OPV)
Uốn ván

Ho gà (DTwP)


11

1.4.2.2. Theo nguyên nhân
Do trùng hợp ngẫu nhiên: xảy ra sau khi tiêm chủng nhưng nguyên
nhân không phải do vắc xin hoặc sai sót trong tiêm chủng hoặc lo sợ do bị
tiêm mà do trùng hợp ngẫu nhiên với bệnh lý sẵn có hoặc nguyên nhân khác.
Do tâm lý lo sợ: xảy ra do sự lo sợ hoặc do bị tiêm đau, không phải do
vắc xin hoặc sai sót trong thực hành tiêm chủng.
Do vắc xin: Phản ứng sau tiêm chủng xảy ra do các đặc tính cố hữu của
vắc xin hoặc do vắc xin không đạt chất lượng.
Do sai sót trong thực hành tiêm chủng: xảy ra do sai sót trong quá trình
thực hành tiêm chủng (chuẩn bị, pha hồi chỉnh, kỹ thuật tiêm, bảo quản và sử
dụng vắc xin không đúng).

Không rõ nguyên nhân: Không xác định được nguyên nhân
[6],[11],[44].
1.5. Hướng dẫn theo dõi, chăm sóc xử trí phản ứng sau tiêm chủng
1.5.1. Hướng dẫn theo dõi chăm sóc tại trạm y tế
Người được tiêm chủng phải được theo dõi tại trạm y tế ít nhất 30
phút sau tiêm chủng. Các dấu hiệu cần theo dõi sau tiêm chủng gồm:
- Dấu hiệu tại chỗ tiêm: Sưng, đỏ, đau tại chỗ tiêm
- Toàn trạng, tinh thần, dấu hiệu nhịp thở, nhiệt độ, phát ban...
1.5.2. Hướng dẫn chăm sóc tại nhà
Người được tiêm chủng phải được theo dõi tại nhà ít nhất 24 giờ sau
tiêm chủng. Trường hợpngười được tiêm chủng là trẻ em thì người theo dõi
trẻ phải là người trưởng thành và biết chăm sóc trẻ. Các dấu hiệu cần theo dõi
sau tiêm chủng bao gồm:
- Toàn trạng
- Tinh thần, tình trạng ăn, ngủ
- Dấu hiệu về nhịp thở


12
- Nhiệt độ, phát ban
- Các biểu hiện tại chỗ tiêm (sưng, đỏ...)
Đối với trẻ em cần cho trẻ bú mẹ hoặc uống nước nhiều hơn. Bế, quan
sát trẻ thường xuyên và chú ý không chạm, đè vào chỗ tiêm.
Người được tiêm chủng cần được đưa ngay tới cơ sở y tế để theo dõi,
điều trị nếu có dấu hiệu tai biến nặng sau tiêm chủng có thể đe dọa đến tính
mạng của người được tiêm chủng bao gồm các triệu chứng như khó thở, sốc
phản vệ hay sốc dạng phản vệ, hội chứng sốc nhiễm độc, sốt cao co giật, trẻ
khóc kéo dài, tím tái, ngừng thở [7].
1.5.3. Hướng dẫn xử trí các phản ứng thông thường sau tiêm chủng
Nguyên tắc:

- Theo dõi và chăm sóc tại nhà theo mục 2.1 của Hướng dẫn Theo dõi,
chăm sóc, xử trí phản ứng sau tiêm chủng [10].
- Nghỉ ngơi, nâng cao thể trạng, điều trị các triệu chứng theo chỉ định
của cán bộ y tế.
Một số phản ứng thông thường sau tiêm chủng và các biện pháp chăm
sóc, điều trị cụ thể:
- Sốt nhẹ (dưới 38,50C): Uống nhiều nước, tiếp tục ăn uống bình
thường, nằm chỗ thoáng. Một số trường hợp có bệnh lý về tim mạch, viêm
phổi hoặc trẻ có tiền sử sốt cao co giật có thể dùng thuốc hạ sốt khi thân nhiệt
trên 38,00C.
- Phản ứng tại chỗ gồm các triệu chứng đỏ và/hoặc sưng tại chỗ tiêm và
có thể có 1 hoặc nhiều triệu chứng sau: sưng tới tận khớp xương gần chỗ tiêm
nhất, đau, đỏ và sưng trên 3 ngày. Thường tự khỏi trong vòng vài ngày đến 1
tuần. Điều trị triệu chứng với các thuốc giảm đau theo chỉ định.


13
- Đau khớp kể cả khớp nhỏ ngoại vi dai dẳng (trên 10 ngày) hoặc
thoáng qua (tối đa 10 ngày). Có thể tự khỏi, một số trường hợp cần dùng
thuốc giảm đau theo chỉ định của cán bộ y tế.
- Nhiễm khuẩn BCG lan tỏa trên diện rộng xảy ra trong vòng 1 đến 12
tháng sau tiêm BCG và được chẩn đoán xác định bằng cách phân lập vi khuẩn
lao. Thông thường xảy ra ở những người suy giảm miễn dịch, cần đưa đến
cơ sở y tế để điều trị bằng thuốc chống lao.
- Hội chứng não, màng não cấp tính với đặc điểm có 2 trong 3 triệu
chứng sau: những cơn kịch phát, ý thức rối loạn kéo dài 1 đến nhiều ngày và
hành vi thay đổi rõ rệt kéo dài 1 đến nhiều ngày cần đưa đến cơ sở y tế để
được khám, điều trị.
- Giảm trương lực, phản xạ, choáng xảy ra trong vòng 48 giờ sau khi
tiêm chủng kéo dài từ 1 phút đến nhiều giờ ở trẻ em dưới 10 tuổi với biểu

hiện mệt lả, giảm đáp ứng thường thoáng qua và tự khỏi không cần điều
trị. Trường hợp xuất hiện tái xanh hay tím ngắt hoặc bất tỉnh cần được đưa
đến cơ sở y tế để theo dõi và điều trị tích cực như sốc phản vệ.
- Viêm hạch bạch huyết kể cả viêm hạch bạch huyết có mủ với biểu
hiện có 1 hạch lympho sưng to > 1,5 cm (bằng 1 đầu ngón tay người lớn)
hoặc có 1 hốc dò rỉ trên 1 hạch lympho. Xảy ra trong vòng 2-6 tháng sau khi
tiêm vắc xin BCG, tại cùng một bên người với chỗ tiêm chủng (đa số là ở
nách). Thường là tự lành và không cần điều trị. Trường hợp tổn thương dính
vào da hoặc bị dò rỉ thì cần đưa đến cơ sở y tế để được phẫu thuật dẫn lưu và
đắp thuốc chống lao tại chỗ.
- Bầm tím và/hoặc chảy máu do giảm tiểu cầu thường là nhẹ và tự khỏi.
Trường hợp nặng cần đưa đến cơ sở y tế để điều trị thuốc steroid và truyền
khối tiểu cầu [7].


14

1.5.4. Hướng dẫn xử trí các tai biến nặng sau tiêm chủng [21]
Nguyên tắc: Phải khẩn trương tiến hành cấp cứu, chẩn đoán nguyên
nhân, xử trí và điều trị tại cơ sở y tế.
Một số tai biến nặng sau tiêm chủng và các biện pháp xử trí và điều trị:
- Sốc phản vệ: Thường xuất hiện trong hoặc ngay sau khi tiêm chủng
với các triệu chứng như kích thích, vật vã; mẩn ngứa, ban đỏ, mày đay, phù
Quincke; mạch nhanh nhỏ khó bắt, huyết áp tụt có khi không đo được; khó
thở (kiểu hen, thanh quản), nghẹt thở; đau quặn bụng, ỉa đái không tự chủ;
đau đầu, chóng mặt, đôi khi hôn mê; choáng váng, vật vã, giãy giụa, co giật.
Cần dừng ngay việc tiêm vắc xin và tiến hành cấp cứu sốc phản vệ theo phác
đồ của Bộ Y tế và chuyển bệnh nhân đến đơn vị hồi sức tích cực của bệnh
viện gần nhất.
- Phản ứng quá mẫn cấp tính: Thường xảy ra trong vòng 2 giờ sau khi

tiêm chủng với 1 hay kết hợp nhiều triệu chứng như thở khò khè, ngắt quãng
do co thắt khí phế quản và thanh quản, phù nề thanh quản; phát ban, phù nề ở
mặt, hoặc phù nề toàn thân, cần dùng các thuốc kháng histamin, phòng ngừa
bội nhiễm, đảm bảo nhu cầu dịch và dinh dưỡng. Trường hợp phản ứng nặng
cần cho thở ô xy và xử trí như sốc phản vệ.
- Sốt cao (>38,50C) cần uống nhiều nước hoặc đảm bảo nhu cầu dịch và
dinh dưỡng. Dùng thuốc hạ sốt hiệu quả và an toàn cho trẻ em như
Acetaminophen. Trong trường hợp sốt cao không đáp ứng với
Acetaminophen đơn thuần có thể phối hợp thêm Ibuprofen sau 1 đến 2 giờ
không hạ nhiệt với Acetaminophen và không có chống chỉ định với
Ibuprofen. Có thể tiến hành lau mát hạ sốt với nước ấm hoặc nước thường và
điều trị các biến chứng co giật nếu có.
- Khóc thét không nguôi, dai dẳng trên 3 giờ kèm theo la hét. Thường
dịu đi sau 1 ngày hoặc thời điểm đó có thể dùng thuốc giảm đau theo chỉ định.


15
- Co giật: Thường là những cơn co giật toàn thân không kèm theo dấu
hiệu và triệu chứng tại chỗ có thể có sốt hoặc không. Cần được điều trị hỗ
trợ hô hấp như thông đường thở, hút đờm rãi, thở ô xy. Dùng thuốc chống co
giật như Diazepam và/hoặc thuốc chống co giật khác theo đúng phác đồ xử trí
co giật.
- Áp xe: Tại chỗ tiêm sờ thấy mềm hoặc có dò dịch, có thể là áp xe vô
khuẩn hoặc nhiễm khuẩn. Điều trị bằng chích rạch và dẫn lưu, dùng kháng
sinh nếu nguyên nhân do nhiễm khuẩn.
- Nhiễm khuẩn huyết: Bệnh thường khởi phát cấp tính, có tính chất
toàn thân, trầm trọng. Biến chứng thường gặp và nguy hiểm là sốc nhiễm
trùng. Cần điều trị sốc nếu có theo phác đồ điều trị sốc, kháng sinh và điều trị
các biến chứng [7].
1.6. Nghiên cứu về phản ứng sau tiêm vắc xin.

1.6.1. Phản ứng sau tiêm chủng trên thế giới
Mặc dù đã có nhiều bằng chứng về sự an toàn của vắc xin, tuy nhiên
vẫn có những trường hợp hiếm hoi xảy ra các phản ứng phụ nặng sau tiêm
chủng thậm chí tử vong. Dưới đây là kết quả nghiên cứu về một số phản ứng
phụ sau tiêm chủng ở trẻ dưới 1 tuổi để lại hậu quả nặng nề.
Sốc phản vệ rất hiếm khi xảy ra sau tiêm chủng, sốc phản vệ rất nguy
hiểm và có nguy cơ gây tử vong, nguy cơ bị sốc phản vệ là ít hơn 2 trường
hợp trên 1 triệu liều vắc xin tiêm cho trẻ em [2]. Một nghiên cứu trong 10
năm của Chương trình tiêm chủng Quốc gia Mỹ ghi nhận 5 trường hợp tử
vong do sốc phản vệ sau khi tiêm [28]. Một nghiên cứu khác công bố năm
2003 sử dụng cơ sở dữ liệu các bệnh án thấy rằng sau khi 7.644.049 liều vắc
xin được tiêm ở trẻ, có 5 trường hợp liên quan đến sốc phản vệ, tuy nhiên cả 5
trường hợp này đều không xảy ra tử vong sau đó. Trung tâm phòng ngừa và
kiểm soát dịch bệnh khuyến cáo nên sàng lọc những bệnh nhi có tiền sử dị


16
ứng trước khi tiêm chủng [29]. Mặc dù vậy, sốc phản vệ sau tiêm chủng
không phải lúc nào cũng có thể dự đoán và phòng ngừa trước được vì thế các
bác sĩ cần chuẩn bị sẵn sàng cấp cứu cho những trường hợp sốc phản vệ nếu
xảy ra.
Có ít nhất 6 báo cáo trường hợp tử vong ở trẻ suy giảm miễn dịch có
liên quan đến nhiễm trùng vắc xin sởi, trong đó có 1 trường hợp nhiễm HIV
bị viêm phổi sau khi tiêm vắc xin và 1 trường hợp viêm màng não sau khi
tiêm ở trẻ 21 tháng tuổi. CDC khuyến cáo nên sàng lọc trước khi tiêm chủng
để có các biện pháp phòng ngừa bao gồm việc chẩn đoán hệ thống miễn dịch
trước tiêm [1].
Một số nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ nhân quả giữa việc tiêm vắc
xin và ngất, liên quan đến mũi tiêm. Sau khi tiêm bệnh nhân bị ngất có thể
dẫn đến chấn thương bao gồm chấn thương đầu. Một báo cáo mô tả sự cố tử

vong sau chấn thương đầu thứ phát sau tiêm chủng vắc xin viêm gan B. Ngất
là bệnh lý cấp tính có thể xảy ra trong vòng 15 phút sau tiêm chủng, và Uỷ
ban tư vấn tiêm chủng Mỹ khuyến cáo nên quan sát ít nhất 15 phút sau tiêm
chủng, đặc biệt với trẻ nhỏ [29],[46].
Bệnh bại liệt sau khi tiêm vắc xin bại liệt là một phản ứng phụ nặng nề
hiếm xảy ra có thể ở trẻ uống vắc xin bại liệt đường uống (OPV). Nó có thể
xảy ra ở cả những người khoẻ mạnh lẫn người có hệ miễn dịch kém.OPV hiện
nay không còn được sử dụng ở Mỹ, thay thế bằng vắc xin bất hoạt poliovirus
nhưng OPV vẫn được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Một nghiên cứu
gần đây cho thấy nguy cơ bị bại liệt sau uống OPV khoảng 4,7 ca trong 1
triệu liều vắc xin tiêm với ước tính 498 trường hợp mắc mỗi năm trên toàn thế
giới. Bệnh bại liệt sau tiêm chủng có thể gây tử vong nhưng rất ít. Tại Mỹ,
tính từ năm 1980-1989 đã có 80 trường hợp được báo cáo và 2 trẻ (3%) tử
vong trong vòng 60 ngày khi mắc bệnh [1],[36].


17
Sau khi được WHO tiền kiểm định chất lượng từ năm 2006 tới nay, vắc
xin Quinvaxem (phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - viêm gan B - Hib)
đã được đưa vào sử dụng trong chương trình tiêm chủng của hơn 90 nước.
Quinvaxem đã được Sri Lanka đưa sử dụng trở lại năm 2010, trong 2 năm từ
2010-2012 đã ghi nhận 14 trường hợp tử vong nữa được báo cáo trong tổng
số trẻ đã tiêm vắc xin 5 trong 1 [42]. Bhutan triển khai vắc xin Quinvaxem từ
tháng 9/2009, sau khi ghi nhận có 5 trường hợp có bệnh cảnh não và/hoặc
viêm màng não trong thời gian ngắn sau khi tiêm vắc xin Quinvaxem dẫn đến
quyết định đình chỉ tiêm Quivaxem vào ngày 23/10/2009 [42].
1.6.2. Phản ứng sau tiêm chủng tại Việt Nam
Ngay trong những giai đoạn đầu của Chương trình TCMR, công tác
bảo đảm và duy trì an toàn trong tiêm chủng đã được chú ý. Hàng chục triệu liều
vắc xin đã được cung cấp với độ an toàn cao cho đối tượng. Tuy nhiên, do chất

lượng dịch vụ tiêm chủng ngày càng được nâng cao, đòi hỏi việc pháp quy hóa
về tổ chức, văn bản cũng như chuẩn hóa về quy trình kỹ thuật, từ đó hình thành
Hệ thống giám sát phản ứng sau tiêm chủng ở các tuyến trên toàn quốc.

Y tế thôn bản

Hình 1.1 Hệ thống giám sát phản ứng sau tiêm chủng tại Việt Nam


18
Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) đã được triển khai từ năm
1985 đến nay với việc sử dụng và mở rộng dần các vắc xin cho trẻ em và phụ
nữ. Từ tháng 6 năm 2010, vắc xin phối hợp phòng 5 bệnh bạch hầu, ho gà,
uốn ván, viêm gan B, viêm phổi/viêm màng não do vi khuẩn Hib được triển
khai trong Chương trình TCMR, tiêm 3 mũi thay thế cho vắc xin DPT ở trẻ
lúc 2, 3 và 4 tháng tuổi. Đến năm 2015 đã có 12 loại vắc xin được sử dụng
trong tiêm chủng mở rộng. Ước tính hàng năm có khoảng hai mươi triệu mũi
tiêm đã được thực hiện tiêm chủng phòng bệnh cho trẻ em và phụ nữ là đối
tượng của chương trình. Năm 2015 là năm tỷ lệ tiêm chủng mũi 3 vắc xin này
đạt cao nhất với tỷ lệ 97%. Trong 11 năm thuộc giai đoạn 2005-2015, có 10
năm tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em dưới 1 tuổi đạt trên 90%. Đây là một
chỉ tiêu quan trọng mà Chính phủ giao cho dự án tiêm chủng thuộc chương
trình mục tiêu Quốc gia về Y tế [22],[16],[18],[20].
Năm 2013, tỷ lệ tiêm chủng vắc xin DPT-VGB-Hib3 đạt thấp là 59,4%.
Và năm 2014 ngành Y tế đã phải rất nỗ lực trong việc triển khai tiêm bù các
mũi vắc xin cho trẻ dưới 1 tuổi để đảm bảo độ bao phủ tiêm chủng [16],[18].
Đồng thời qua số liệu của hai cuộc điều tra được tiến hành gần đây vào năm
2009 và 2015 cũng cho thấy tỷ lệ bỏ mũi giữa các vắc xin DPT1-3 là cao hơn
vào năm 2015 so với 2009. Kết quả này đã ghi nhận số trường hợp các bà mẹ
từ chối một số mũi tiêm nhắc và không tiêm chủng đầy đủ tăng hơn ở năm

2015 so với 2009 [20],[15],[25].
Theo đánh giá năm 2014 của Tổ chức Y tế Thế giới về các trường hợp
phản ứng sau tiêm vắcxin Quinvaxem tại Việt Nam cho thấy có 9 trường hợp
phản ứng có liên quan đến vắc xin trên tổng số 14 triệu mũi tiêm (0,64/1 triệu
liều), không có tử vong trong số 9 ca này; chỉ ghi nhận 1 trường hợp sốc phản
vệ trên tổng số 14 triệu mũi tiêm (0,07/1 triệu liều), thấp hơn so với thông báo
của nhà sản xuất [40].


19
Các trường hợp tử vong sau tiêm vắc xin DPT-VGB-Hib liên tục xảy ra
ở một số địa phương như Nghệ An, Kiên Giang, Thanh Hóa, Hà Nội….đã
làm cho cộng đồng hết sức lo lắng, mặc dù đã được Tổ chức Y tế Thế giới
đánh giá là không liên quan đến vắc xin nhưng tỷ lệ tiêm chủng đã bị ảnh
hưởng, tỷ lệ tiêm đủ 3 liều vắc xin DPT-VGB-Hib đã giảm còn 59,4%. Bộ Y
tế đã phải tạm dừng sử dụng vắc xin này trên toàn quốc từ tháng 5/2013 cho
đến tháng 10/2013, cùng với tâm lý lo ngại của các bà mẹ dẫn tới từ chối tiêm
chủng thì việc tạm dừng sử dụng vắc xin DPT-VGB- Hib đã làm cho tỷ lệ
tiêm đủ 3 mũi vắc xin phòng bệnh Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván giảm mạnh,
giảm thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây [25],[17].
Trong năm 2005, 2006 tỷ lệ tiêm vắc xin viêm gan B sơ sinh đã đạt tỷ
lệ trên 60%. Tỷ lệ tiêm chủng các loại vắc xin ở trẻ em cho thấy tỷ lệ tiêm
chủng giảm vào năm 2007, 2008, 2013 đặc biệt đối với vắc xin VGB3, VGB
sơ sinh. Các cuộc điều tra cũng cho thấy nguyên nhân chính của những trường
hợp không tiêm chủng hoặc không tiêm chủng đầy đủ là sự lo sợ của người
dân về phản ứng sau tiêm chủng [26], [ 47]. Tháng 7/2013, sự cố 3 trường
hợp trẻ tử vong sau tiêm vắc xin viêm gan B sơ sinh tại bệnh viện Hướng
Hóa, Quảng Trị đã được báo cáo. Mặc dù đã có kết luận về nguyên nhân tử
vong không liên quan đến vắc xin nhưng những hiệu ứng tiêu cực đã lan
truyền rộng rãi đến cả cộng đồng và các nhân viên y tế, có nhiều bệnh viện đã

dừng triển khai việc tiêm VGB sơ sinh, cán bộ y tế cũng rất thận trọng khi chỉ
định tiêm VGB sơ sinh dẫn đến tỷ lệ tiêm VGB sơ sinh trong vòng 24 giờ
trong năm 2013 đã giảm xuống còn (56%), đặc biệt thấp ở các tháng từ tháng
8 đến tháng 12/2013 [22],[25].


20

1.6.3. Một số nghiên cứu về kiến thực, thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm
chủng và một số yếu tố liên quan
Nghiên cứu tại xã miền núi Đà Bắc tỉnh Hòa Bình năm 2009 cho thấy
tỷ lệ bà mẹ biết đến các phản ứng sau tiêm như sốt 78,4%, quấy khóc 64,7%,
các dấu hiệu nặng được rất ít bà mẹ biết đến như co giật là 11,9%, bỏ bú là
1,24% [23].
Một nghiên cứu năm 2011 cho thấy việc thực hành chăm sóc trẻ sau
tiêm chủng của các bà mẹ tại TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh được ghi nhận
có giữ gìn và bảo quản sổ tiêm chủng cá nhân cho trẻ đạt 100%; thực hiện
theo dõi trẻ sau tiêm tại nhà đủ 24 giờ đạt 91,4%; chăm sóc và xử trí sốt đúng
cách đạt 98%. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có việc thực hành chưa tốt
được ghi nhận như thời gian theo dõi trẻ sau tiêm tại TYT không đủ 30 phút
sau tiêm là 60,5%; không chủ động cung cấp thông tin về sức khỏe của trẻ và
tiền sử phản ứng lần tiêm trước cho CBYT là 11,4%; xử trí phản ứng tại chỗ
sau tiêm không đúng cách là 27,2% [35]. Nghiên cứu này cũng cho thấy: Có
mối liên quan giữa thái độ và thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm của bà mẹ. Bà
mẹ có thái độ tích cực thì tỷ lệ thực hành chăm sóc sau tiêm đúng cao gấp
2,15 bà mẹ có thái độ không tích cực (p<0,05). Có mối liên quan giữa việc bà
mẹ được tư vấn về PƯSTC và thực hành của bà mẹ. Bà mẹ được tư vấn về
PƯSTC thì tỷ lệ thực hành chăm sóc sau tiêm đúng cao gấp 3,99 lần bà mẹ
không được tư vấn (p<0,05). Bà mẹ có kiến thức đạt thì tỷ lệ thực hiện theo
dõi trẻ tại TYT sau tiêm chủng đủ 30 phút cao gấp 2,48 lần bà mẹ có kiến

thức không đạt (p<0,05). Chưa tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố về văn
hóa, xã hội (tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp...) và thực hành chăm sóc trẻ
sau tiêm của bà mẹ [35].
Một nghiên cứu khác về đánh giá kiến thức của cha/mẹ về bệnh sởirubella và vắc xin sởi-rubella tại Hải Dương, Hà Nam và Thái Bình năm 2014


21
cho thấy trong tổng số 300 đối tượng được phỏng vấn, chỉ có duy nhất 1 đối
tượng trả lời đúng 5 phản ứng nhẹ có thể gặp sau tiêm vắc xin. Sự khác biệt
về kiến thức của các bà mẹ đối với bệnh rubella và phản ứng thông thường
sau tiêm vắc xin tốt hơn ở nhóm có độ tuổi <30 tuổi so với nhóm bà mẹ lớn
tuổi hơn. Học vấn cũng đóng vai trò quan trọng trong nhận thức của bà mẹ về
bệnh và chăm sóc trẻ đúng sau tiêm chủng. Các bà mẹ có trình độ học vấn từ
Phổ thông trung học trở lên có kiến thức tốt hơn các bà mẹ có trình độ từ
THCS trở xuống [24].
Theo một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Khắc Từ trong năm 2014 tại
Bắc Ninh, có 94,5% các bà mẹ giữ sổ tiêm chủng cá nhân của trẻ. Số bà mẹ
cung cấp thông tin về tình trạng sức khỏe hiện tại của trẻ là 93,9%, tiền sử
bệnh tật là 81,9%, tiền sử dị ứng là 74%, phản ứng của trẻ với lần tiêm trước
là 72,9%. Số bà mẹ tuân thủ đủ thời gian theo dõi trẻ tại trạm y tế là 91,3%,
các bà mẹ không tuân thủ đủ thời gian theo dõi với các lý do là không có đủ
thời gian (56,4%), thấy không vấn đề gì (41%) và không có kiến thức (2,5%).
Số bà mẹ tuân thủ đủ thời gian theo dõi sức khỏe trẻ sau tiêm chủng tại nhà là
84,9%, số bà mẹ không tuân thủ đủ thời gian là 15,1%, lý do thấy trẻ không
vấn đề gì chiếm 88%, không có đủ thời gian chiếm 10,6%, và không có kiến
thức là 1,4%. Có 82,8% các bà mẹ biết cách xử trí phản ứng thông thường
như sốt, 73,1% số bà mẹ biết dấu hiệu về phản ứng sau tiêm nặng, 73,6% các
bà mẹ biết hậu quả của các phản ứng sau tiêm nặng và có 86% biết các dấu
hiệu cần phải đưa trẻ đến cơ sở y tế. Số bà mẹ có thái độ tích cực, chấp nhận
thực tế phải đối mặt với phản ứng sau tiêm chủng ở trẻ là 77,5%, có thái độ

không tích cực 22,5%.
Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ trong việc
chăm sóc trẻ sau tiêm vắc xin Quinvaxem tại Hải Phòng năm 2016 cho thấy
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đạt trong việc theo dõi và chăm sóc trẻ sau tiêm vắc


22
xin Quinvaxem là thấp (36,8%). Sốt, quấy khóc nhẹ là hai biểu hiện phản ứng
sau khi tiêm chủng ở trẻ được các bà mẹ biết đến nhiều nhất (tương ứng
93,9% và 47,5%). Tỷ lệ các bà mẹ nhận thức được khả năng trẻ có thể xảy ra
các phản ứng nặng sau tiêm chủng là cao (82%). “Gây tử vong” là hậu quả
của phản ứng nặng sau tiêm chủng được đa số (88,5%) các bà mẹ biết đến.
Các hậu quả khác như “Đe dọa tính mạng người bệnh”, “Gây hậu quả dai
dẳng”, “Ốm yếu/Tàn tật”, ít được biết đến hơn (lần lượt là 16,7%; 13,9% và
12,1%). Số bà mẹ hiểu biết đầy đủ về dấu hiệu bất thường cần được xử trí kịp
thời là 4,3%. Số bà mẹ có đầy đủ kiến thức về các dấu hiệu phản ứng thông
thường sau tiêm là 14,3% [27].


23

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại huyện Hoằng Hóa và thành phố Thanh
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Lựa chọn ngẫu nhiên 1 đơn vị thành thị và 1 đơn vị nông thôn trong tổng
số 27 huyện thị của tỉnh Thanh Hóa. Tại 2 đơn vị trên tiến hành lập danh sách
các xã/phường của thành phố Thanh Hóa và huyện Hoằng Hóa. Lựa chọn
ngẫu nhiên 4 phường của thành phố Thanh Hóa và 4 xã của huyện Hoằng Hóa

trong danh sách này. Kết quả lựa chọn được 4 phường Ba Đình, Đông Vệ,
Nam Ngạn, Tân Sơn thành phố Thanh Hóa và 4 xã Hoằng Phúc, Hoằng Đạt,
Hoằng Vinh, Hoằng Đạo tại huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 7/2016 đến tháng 12/2016.
Thời gian thu thập số liệu trong tháng 9 và tháng 10 năm 2016.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
- Bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại thời điểm điều tra.
- Trẻ đã tham gia tiêm chủng vắc xin trong chương trình TCMR tại Trạm
Y tế xã/phường nghiên cứu.
- Thời gian thu thập số liệu được thực hiện vào tháng 9 và tháng
10/2016.
- Đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng
- Bà mẹ có trẻ dưới 1 tuổi bị hạn chế khả năng nghe và trả lời các câu hỏi
phỏng vấn.
- Trẻ chưa được tiêm chủng vắc xin tại trạm y tế xã, phường nghiên cứu.


24
- Trẻ không tiêm vắc xin trong chương trình Tiêm chủng mở rộng mà sử
dụng vắc xin có thành phần tương tự tại các cơ sở tiêm chủng dịch vụ.
- Từ chối tham gia nghiên cứu.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang
2.3.2 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.3.2.1. Cỡ mẫu
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho ước lượng một tỷ lệ trong nghiên

cứu mô tả cắt ngang

n = Z12−α / 2

p(1 − p )
d2

Trong đó:
- P: Là tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm
chủng đúng cách. Kết quả về tỷ lệ này của các nghiên cứu trước dao
động từ 28,4% đến 78,2%, và với các nội dung cụ thể về kiến thức
thực hành không hoàn toàn giống nghiên cứu này, do vậy nghiên cứu
chọn p=0,5 [33],[34].
- d: Là độ chính xác tuyệt đối, chọn d=0,05.
- Lấy α=0,05 (độ tin cậy 95%), tra bảng Z có Z=1,96.
Thay vào công thức ta có n = 385 trẻ, làm tròn cỡ mẫu là 400 trẻ.
2.3.2.2. Phương pháp chọn mẫu
Số trẻ dưới 1 tuổi trong danh sách hẹn tiêm tại 8 xã, phường này tương
đương với cỡ mẫu được tính ở trên, do đó nghiên cứu đã tiến hành chọn mẫu
toàn bộ trẻ dưới 1 tuổi (sinh từ 1/10/2015 đến 30/9/2016) đủ tiêu chuẩn vào
nghiên cứu. Thực tế tổng số trẻ được lựa chọn vào nghiên cứu là 399, là số
mẫu phân tích trong kết quả nghiên cứu này.


×