Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên bắc hướng hóa tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

------------------------------------------TRƯỜNG
ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

----------------

NGÔ VIẾT HUY

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG
CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG
ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN
THIÊN NHIÊN BẮC HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------

NGÔ VIẾT HUY

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG
CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG
ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN


THIÊN NHIÊN BẮC HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ
Chuyên ngành: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Lê Sỹ Việt

HÀ NỘI, NĂM 2011


ĐẶT VẤN ĐỀ
Gần 5 thập kỷ qua, nhiều thành tựu đã đạt được trong công tác quản lý
bảo tồn hệ thống rừng đặc dụng, vai trò của các KBT, VQG trong phát triển
kinh tế ở cấp quốc gia và địa phương ngày càng được khẳng định. Nhận thức
về vai trò của rừng đặc dụng đối với bảo vệ ĐDSH, môi trường trong xã hội
được tăng cường đáng kể. Song việc bảo vệ, quản lý các KBT, VQG đã và
đang gặp không ít khó khăn từ phía người dân và cộng đồng địa phương. Điều
khó khăn lớn nhất gặp phải trong việc quản lý là số dân sinh sống ở vùng giáp
ranh KBT, thậm chí ngay cả trong khu bảo tồn đã tạo sức ép nặng nề lên
KBT. Bắt đầu từ những thay đổi của họ về vị trí nhà ở, về thói quen chiếm
hữu đất đai canh tác, phát nương làm rẫy, săn bắt động vật, chặt gỗ, lấy củi,
thu lượm các sản phẩm từ rừng và do đó ảnh hưởng đến công tác bảo vệ. TNR
là nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và ven rừng từ bao đời nay,
giờ đây dường như đã không còn là của họ. Họ đa số là người nghèo, dân trí
thấp, họ cho rằng việc thành lập KBT, VQG không đem lại lợi ích gì cho họ
mà chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên
nhiên như trước nữa. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác cho
người dân địa phương chưa bù đắp được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì

vậy mâu thuẫn đã nảy sinh giữa KBT, VQG với người dân địa phươngnhững người đã và đang sống phụ thuộc một phần vào nguồn TNR. Do đó
việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào TNR là một tất yếu.
KBTTN Bắc Hướng Hóa, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị được
thành lập ngày 14/3/2007 nhưng đến ngày 7/7/2010 Ban quản lý KBTTN Bắc
Hướng Hóa mới chính thức đi vào hoạt động. KBTTN Bắc Hướng Hóa thuộc
vùng Trung Trường Sơn, là nơi giao lưu của các luồng thực vật Bắc Nam, khu
vực Đông Dương. Đây là điểm nóng về ĐDSH mang tầm vóc quốc gia và thế
giới, là nơi sinh sống của các loài động thực vật có ý nghĩa bảo tồn quốc tế.
Vùng đệm KBTTN Bắc Hướng Hóa có 5 xã, 42 thôn, 2.402 hộ, 11.073 khẩu
của 2 dân tộc Kinh và Vân Kiều (dân tộc Vân Kiều chiếm 67%). Trong đó có
1


02 thôn sinh sống ở trong vùng lõi đó là thôn Cuôi, Cựp xã Hướng Lập; có 19
thôn ven rừng. Tất cả 21 thôn này đều là người Vân Kiều có đời sống kinh tế
rất khó khăn, dân trí thấp và gắn liền với tập quán truyền thống như canh tác
nương rẫy, chặt gỗ, săn bắt động vật, thu lượm các sản phẩm từ rừng...Đời
sống của người dân địa phương phần lớn dựa vào nguồn TNR là chính, họ cố
gắng tiếp cận tới mức tối đa nguồn tài nguyên này mỗi khi có cơ hội. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa
phương tới TNR ở các KBT, VQG nói chung và KBTTN Bắc Hướng Hóa nói
riêng nhằm bảo vệ ĐDSH và phát triển bền vững TNR nơi đây.
Để trả lời câu hỏi đặt ra và góp phần làm rõ những tồn tại nêu trên, đề
tài “Nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại
Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị” được thực hiện là
có cơ sở và hết sức cần thiết.

2



Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Ở nước ngoài
Trên thế giới, cộng đồng quốc tế đã có nhiều nghiên cứu nhằm nỗ lực
làm thay đổi chiến lược bảo tồn từ đầu thập kỷ 80. Một chiến lược bảo tồn
mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
KBTTN và VQG với các hạt động sinh kế của người dân địa phương, cần
thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn
hóa trong quá trình xây dựng các quyết định.
Ý tưởng về một khu rừng nhất định cần được bảo vệ khỏi tác động khai
thác sử dụng thường nhật của con người đã có ít nhất từ 3000 năm trước đây
vào thời vua Ai Cập Ikhnaton hoặc thậm chí sớm hơn [5](Alison 1981, trong
Hunter 1996, dẫn theo Nguyễn Xuân Đặng, 2005).
Nguồn gốc của KBTTN “hiện đại” có từ thế kỷ 19. VQG Yellowstone
là VQG đầu tiên trên thế giới, được thành lập tại Mỹ năm 1872. VQG này
nằm trên vùng đất do người Crow và người Shosshone sinh sống trên cơ sở sử
dụng bạo lực ép buộc hai cộng đồng tộc người này phải rời khỏi mảnh đất của
họ. Nhiều KBTTN và VQG được thành lập sau đó ở các nước khác nhau trên
thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này. Dựa trên mô
hình Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm
việc ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác
TNR[10]. Tại các nước Đông Nam Á phương thức này tỏ ra không thích hợp
vì để duy trì sự ĐDSH thì người dân địa phương bị mất quyền tiếp cận với
nguồn TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào TNR là rất lớn.
Ở Nepal, đã có một số mô hình thành công về chương trình bảo tồn
ĐDSH theo hướng toàn cầu. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của cuộc xung đột
vũ trang trong gần một thập kỷ đã tác động xấu đến các hoạt động bảo tồn và
động vật hoang dã. Chính vì vậy, một số nghiên cứu về đánh giá tác động của
những hoạt động này đến bảo tồn ĐDSH tại VQG Bardia và vùng đệm phía
3



tây Nepal đã được thực hiện. Nghiên cứu đã khẳng định 73% người dân địa
phương sống trong khu vực phụ thuộc vào nông nghiệp, nguồn chất đốt và
thức ăn[26].
Ở Ấn Độ, diện tích đất lâm nghiệp đứng thứ hai sau diện tích đất nông
nghiệp và là nơi ước tính có 275 triệu người dân địa phương ở các vùng nông
thôn phụ thuộc vào rừng (ít nhất là một phần sinh kế của họ). Một nghiên cứu
về lâm nghiệp cộng đồng bên ngoài khu rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các khu
rừng không chỉ cung cấp tiềm năng to lớn về xóa đói giảm nghèo và tăng
trưởng kinh tế nông thôn ở Ấn Độ mà vẫn hỗ trợ tốt mục tiêu quan trọng là
bảo tồn[27].
Các mô hình ở Đông Nam Á đã chỉ ra rằng: Nỗ lực của các cơ quan
chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả
như mong muốn trên cả phương diện quản lý TNR và KT-XH. Việc đưa
người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới chẳng khắc nào
“bắt cá khỏi nước” và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR
mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ
truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đã tỏ
ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này[19].
Trước những bất cập trong công tác bảo tồn ở các VQG và KBT trên
thế giới từ những năm đầu của thập kỷ 80 đã có nhiều nghiên cứu, hội thảo
quốc tế với sự đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về bảo tồn đã
đề xuất những thay đổi trong chiến lược bảo tồn. Một chiến lược bảo tồn mới
dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý
KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần
thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn
hóa trong quá trình xây dựng các quyết định.
Ở Thái Lan, một thử nghiệm của Dự án “Quản lý bền vững thông qua
sự cộng tác” đã thực hiện tại KBT động vật hoang dã Phu Kheio, tỉnh

Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản
4


lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và
đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt
động làm tăng thu nhập của họ[22]. Hệ thống quản lý các khu bảo vệ trước
đây đã nhấn mạnh các quyền sở hữu và kiểm soát rừng của nhà nước mà
không chú ý tới ảnh hưởng giữa con người và các nguồn tài nguyên, đã dẫn
tới những thất bại vì tỷ lệ phá rừng hàng năm vẫn ở mức cao tới 2,6%. Bink
Man W (1988) trong nghiên cứu của mình thực hiện tại làng Ban Pong, tỉnh
S.Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc vào rừng
để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như củi đun và hoa quả
trong rừng[17].
Ở Philippines, chiến lược quốc gia về bảo tồn ĐDSH nêu rõ rằng:
“Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn ĐDSH là phải bảo đảm rằng các
cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết
định về chính sách liên quan đến môi trường sẽ tham gia vào quá trình lập kế
hoạch và quản lý đối với bảo tồn ĐDSH” (Denr và TCSD, 1994)[19].
Ở Indonesia, kế hoạch hành động ĐDSH ghi nhận rằng: “Việc tăng
cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong
và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của
kế hoạch hành động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch
(Bappenas, 1993- dẫn theo Lê Sỹ Trung, 2005)[19].
Về chính sách lâm nghiệp, Sheppherd G(1986) cho rằng đối với cộng
đồng dân cư sống trong và gần các KBTTN, một giải pháp đề nghị là cho
phép người dân địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các
hệ thống quản lý nông nghiệp hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất,
nhà nước cần xác định rõ các quyền lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ
nhậ với mục đích tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tác động

đến tài nguyên rừng[16].
Dilmour D.A. (1999)[8], lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẩn đến
tính kém hiệu quả của các chương trình, dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên
5


là chưa giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các cá nhân trong cộng đồng,
giữa lợi ích cộng đồng địa phương với lợi ích quốc gia. Do đó chưa phát huy
được năng lực nội sinh của các cộng đồng cho quản lý tài nguyên. Vì vậy,
quản lý tài nguyên cần phát triển theo hướng kết hợp giữa hoạt động bảo tồn
và phát triển tài nguyên với hoạt động sản xuất để cải thiện chất lượng cuộc
sống người dân, thống nhất lợi ích của người dân với lợi ích quốc gia trong
hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng[16].
Theo Nick Salafky và các cộng sự (trong Biodiversity Support Program
Washington, DC, USA, 2000)[3], cho rằng vào những năm 90 của thế kỷ
trước, các nhà bảo tồn bắt đầu phát triển một cách tiếp cận mới nhằm đáp ứng
nhu cầu lợi ích kinh tế và bảo tồn. Những cách tiếp cận này dựa vào việc thực
hiện các hoạt động sinh kế độc lập và có mối quan hệ trực tiếp với bảo tồn.
Đặc điểm cơ bản của chiến lược này là mối liên hệ giữa ĐDSH và con người
xung quanh. Cũng trong chiến lược này, các nhà bảo tồn có thể giúp người
dân địa phương khai thác sử dụng LSNG hoặc phát triển du lịch sinh thái[16].
Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (WWF) 2001 đã đưa
ra một thông điệp chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến
vấn đề xóa đói giảm nghèo như là một phần quan trọng của chính sách bảo
tồn tài nguyên rừng.”[16].
1.2. Ở trong nước
Trải qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển, đến nay hệ thống
KBTTN của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn Quốc
gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ Cảnh quan, 20 khu nghiên cứu
thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái,

cảnh quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thía trên
cạn, đất ngập nước và trên biển đã và đang được xây dựng trên khắp các
vùng, miền cả nước.
Cùng với sự ra đời của các VQG và KBTTN rải đều từ Bắc vào Nam
thì hệ thống các thể chế, chính sách về công tác bảo tồn cũng đã được thiết
6


lập. Đầu tiên là Luật bảo vệ và phát triển rừng ban hành ngày 12/08/1991 và
được sữa đổi ngày 03/12/2004[14], trong đó quy định rừng đặc dụng bao
gồm:
+ Vườn quốc gia
+ Khu bảo tồn thiên nhiên gồm: Khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn
loài, sinh cảnh
+ Khu bảo vệ cảnh quan gồm: Khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh
+ Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học
Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001[4], đã đề
cập đến việc ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về
phạm vi sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các
KBT. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 186/2006/QĐTTg ngày 14/08/2006 về việc ban hành Quy chế quản lý rừng[18], thay thế
quyết định số 08/2001/QĐ-TTg. Theo điều 14 chương II của quy chế quản lý
rừng Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/09/2003 về bảo tồn và phát triển
bền vững các vùng đất ngập nước.
Quyết định số 62/2005/QĐ-BNN ngày 12/10/2005 quy định tiêu chí
phân loại rừng đặc dụng.
Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 về tổ chức và quản lý
hệ thống rừng đặc dụng.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020.
Trong nhiều năm qua, đã có nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc nâng

cao hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn – phát triển.
Đó là làm sao dung hòa mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và
phát triển kinh tế - xã hội của người dân địa phương.
Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên
(1997)[9], đã đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa
phương vào rừng.
7


Đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các KBT ở Việt Nam, Nguyễn
Bá Thụ (1997) đã nhận định: Công tác này phụ thuộc rất nhiều vào việc giải
quyết những vấn đề tồn tại trên vùng đệm bao gồm nâng cao đời sống của
nhân dân vùng đệm, chuyển đổi hoặc thay thế tập quán dùng củi, gỗ bừa bãi
lãng phí của người dân sống trong vùng đệm; nâng cao trình độ kỹ thuật canh
tác nông lâm nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng,
nhanh chóng từ bỏ lối canh tác du canh, quảng canh, nâng cao trình độ hiểu
biết về bảo tồn, sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên cho người dân địa
phương[16].
D.A Gilmour và Nguyễn Văn Sản(1999)[8], đã thực hiện một nghiên
cứu về quản lý vùng đệm tại 3 VQG : Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả
nghiên cứu đã phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt Nam.
Về quan hệ đồng tác trên cơ sở cộng đồng trong vùng đệm các
KBTTN, Lê Quý An (2001)[1], đã khẳng định quản lý và phát triển vùng đệm
trên cơ sở cộng đồng là phát huy lợi thế của cộng đồng, hạn chế tác động tiêu
cực trong các hoạt động bảo tồn. Cộng đồng còn có thể phát huy những mặt
hay của phong tục, tập quán trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng
đồng, trong mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên để xây dựng nề nếp
của cuộc sống lành mạnh về mặt môi trường, góp sức cho việu bảo tồn.
Năm 2001, Đỗ Anh Tuân thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBTTN
Pù Mát cho đề tài ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các cộng đồng địa

phương và thái độ của họ về các chính sách bảo tồn [23]. Tác giả chủ yếu
đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương do sự ảnh hưởng của
KBT và mức độ chấp nhận của cộng đồng thông qua việc phân tích mối quan
hệ giữa cộng đồng và tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng hầu hết người dân địa
phương vẩn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên
cứu, trung bình 34% tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình trong vùng
đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình (HGĐ) trong vùng bảo vệ
nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30%
8


- 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa
phương. Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ thực hiện tại KBTTN,
nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN[23].
Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự (2003)[11], dưới sự hỗ trợ của chương
trình hỗ trợ lâm nghiệp xã hội, trung tâm đào tạo lâm nghiệp xã hội đã thực
hiện một nghiên cứu về khả năng thu hút các cộng đồng địa phương vào quản
lý và sử dụng đất lâm nghiệp tại khu phục hồi sinh thái (PHST). Các tác giả
cho rằng hệ thống chính sách hiện nay là đầy đủ để có thể thu hút cộng đồng
địa phương vào quản lý, sử dụng các khu rừng đặc dụng, không thể loại trừ
cộng đồng ra khỏi quyền hưởng lợi từ VQG và đề xuất mô hình quản lý đất
đai trong khu PHST của VQG Ba Vì.
Nguyễn Thị Phương (2003) [13], khi “nghiên cứu tác động của cộng
đồng địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng Ba Vì –Hà Tây” đã vận dụng
phần mềm SPSS trong việc tổng hợp và sử lý số liệu về hình thức tác động
của các nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu
bằng nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp.
Vì vậy, để giải quyết nhu cầu của cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài
nguyên rừng dưới nhiều hình thức như: Sử dụng đất rừng để sản xuất hàng
hóa, khai thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc...trong đó

hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa cho tỷ trọng thu nhập cao
nhất tổng cơ cấu thu nhập của cộng đồng(36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh
giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm hộ
khác nhau.
Hoàng Quốc Xạ (2005)[25], đã có sự kết hợp tốt giữa phân tích định
tính và định lượng trong việc xác định các hình thức tác động và nguyên nhân
tác động khi nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến TNR tại
vùng đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp được tác giả đưa ra
tuy bao hàm nhiều lĩnh vực song chưa dựa trên các yếu tố đã phân tích cụ thể
tại khu vực nghiên cứu và chưa thể hiện tính khả thi của các giải pháp đưa ra.
9


Ngô Ngọc Tuyên (2007)[22], đã lượng hoá tốt và thể hiện sinh động
ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đến tổng thu nhập của hộ gia đình cũng
như mối quan hệ giữa tổng thu nhập với các nhân tố trong khai thác TNR
thông qua việc thực hiện nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến
TNR tại KBTTN Na Nang, Tuyên Quang. Tác giả đã lựa chọn 4 dân tộc
chính trong mỗi khu vực, mỗi dân tộc 30 HGĐ để phỏng vấn, nhưng chưa chỉ
ra cho người đọc cách thức và nguyên tắc chọn mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ
ra rằng, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày người dân đã tác động tới
TNR dưới nhiều hình thức song “sử dụng tài nguyên rừng” là hình thức tác
động bất lợi nhất, các dân tộc khác nhau thì mức độ tác động cũng khác nhau.
Nghiên cứu đã sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của các
yếu tố đến thu nhập của HGĐ, tuy nhiên phân tích mới dừng lại ở 3 yếu tố
nguồn lực mà chưa phân tích đến các yếu tố hiệu quả[22].
Khuất Thị Lan Anh (2009)[2], khi “Nghiên cứu tác động của cộng
đồng địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ,
tỉnh Bắc Kạn” đã nghiên cứu các yếu tố kinh tế và xã hội chi phối các hình
thức và mức độ tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR. Đề tài đã

phần nào lượng hoá được mức độ tác động của người dân tới KBT như: sử
dụng TNR, khai thác các sản phẩm rừng, sử dụng đất rừng để chăn thả gia
súc, tác động đến TNR do các nguyên nhân rủi ro, các hoạt động khai thác
vàng...Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu các tác động tích cực của
người dân. Thêm vào đó, các giải pháp đưa ra còn chung chung, chỉ mang
tính chất định hướng, chưa đi sâu vào các giải pháp mang tính khả thi đối với
địa phương[2].
Trần Ngọc Thể (2009)[17], khi “ Nghiên cứu các tác động của người
dân địa phương tới TNR tại vườn quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn” đã đưa ra
một hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tác động của người
dân tới các KBT. Ngoài ra đề tài còn lượng hoá được mức độ tác động của
người dân tới TNR ở VQG Ba Bể bằng cách phân tích các yếu tố sản xuất ảnh
10


hưởng tới tổng thu nhập của các HGĐ thông qua hàm Cobb-Douglas (hàm
sản xuất có độ giản không đổi). Nghiên cứu đã đưa 7 biến sản xuất (diện tích,
số lao động chính, phân bón, đầu tư bằng công, khai thác gỗ, chăn thả gia súc,
số khẩu) và 11 biến hiệu quả (học vấn chủ hộ, độ cao, loại kinh tế hộ, mức độ
gần rừng, dân tộc DT1T, dân tộc DT2T, mức độ thuận tiện thông, khả năng
tiếp cận thị trường, tỷ lệ LĐC/số khẩu, số lần đốt nương rẫy, sử dụng giống)
vào mô hình để phân tích kết quả cho 4 biến sản xuất và 6 biến hiệu quả tồn
tại trong mô hình. Kết quả cho thấy đã tồn tại mối quan hệ rất chặt giữa tổng
thu nhập từ rừng với 4 yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và 6 yếu tố hiệu
quả với hệ số xác định R2= 0.93 (F= 14.601, Sig.F=0.000) và 93% biến động
của thu nhập được giải thích bởi các yếu tố này. Đây là 1 nghiên cứu mẫu có
ý nghĩa tham khảo rất tốt. Tuy nhiên đề tài chỉ tập trung phân tích các tác
động bất lợi của người dân địa phương tới TNR mà chưa quan tâm tới các tác
động tích cực của người dân, trong khi đó sự tham gia của cộng dồng theo
hướng tích cực là phần không thể thiếu đối với công tác bảo tồn đối với bất kỳ

VQG nào.
Đỗ Thị Hường (2010)[7], khi nghiên cứu tác động của người dân địa
phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến, huyện
Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình” đã đánh giá được tình hình hiện trạng công tác quản
lý bảo vệ TNR, phân tích kinh tế HGĐ, nghiên cứu các hình thức và mức độ
tác động của người dân đến TNR và tổng thu nhập của các HGĐ ở khu vực
nghiên cứu. Tác giả đã phân tích sự phụ thuộc, các nguyên nhân dẫn đến sự
tác động bất lợi của người dân đến TNR. Đề tài đã đề xuất được một số giải
pháp tác động tích cực và hạn chế tác tác động bất lợi của cộng đồng người
dân tới TNR của KBT, các giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể
làm tài liệu tham khảo tốt. Tuy nhiên đề tài chưa làm rõ các yếu tố đầu vào
nào của sản xuất, yếu tố nào đưa vào tính toán, đưa yếu tố “loại kinh tế hộ”
làm yếu tố đầu vào là không chính xác, xác định nhu cầu thị trường bằng

11


phương pháp nào, nhu cầu thị trường là những gì mà ở đây mới nghiên cứu
được kênh tiêu thụ.
1.3. Những kết luận rút ra phục vụ cho nghiên cứu
Như vậy, mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với công tác bảo tồn
ở các khu rừng đặc dụng đã và đang được nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn
khác nhau. Một số nghiên cứu đã xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn khá đầy
đủ cũng như đã lượng hoá được hình thức và mức độ tác động của cộng đồng
người dân tới tài nguyên rừng của một số khu rừng đặc dụng. Các nghiên cứu
khác lại tập trung vào phân tích mức độ phụ thuộc của người dân vào TNR.
Tuy nhiên, cách tiếp cận của các đề tài nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở khía
cạnh phân tích tác động bất lợi mà chưa đề cập đến tác động tích cực từ phía
người dân trong công tác bảo tồn. Ngoài ra các nghiên cứu chỉ đưa ra các
phương pháp chung, mang tính chất định hướng, chưa giải quyết được các

mâu thuẫn phát sinh từ thực tế.
Hiện nay, số lượng khu rừng đặc dụng của nước ta ngày càng tăng lên,
trong khi đó mỗi khu rừng đặc dụng lại có đặc trưng về quy mô, sinh thái,
phân bố dân cư, tình hình kinh tế, xã hội, phong tục tập quán...khác nhau. Vì
vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với các khu rừng
đặc dụng nhằm đề xuất các giải pháp thu hút người dân tham gia công tác bảo
tồn ở mỗi VQG, KBTTN trên phạm vi cả nước là việc cần thiết.
Hầu hết các giải pháp đưa ra trong những nghiên cứu dạng này còn
chung chung, tản mạn, đặc biệt mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng, có nghĩa
là mới khẳng định đó là giải pháp gì (Cái gì), chứ chưa chỉ ra được làm như
thế nào. Tuy gần đây nhất (năm 2010) có một nghiên cứu đã đưa ra được các
giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể tham khảo tốt nhưng chỉ ở một
địa điểm, điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội cụ thể. Vì vậy, vấn đề này cần tiếp
tục được nghiên cứu và hoàn thiện.

12


Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần xây dựng các luận cứ khoa học giải quyết mối quan hệ giữa
bảo tồn ĐDSH và sinh kế của người dân sống trong và KBTTN Bắc Hướng
Hóa nói riêng. Đồng thời, nghiên cứu cũng góp phần cung cấp cơ sở thực tiễn
quan trọng cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững TNR trên cơ
sở cộng đồng địa phương.
2.2. Mục tiêu cụ thể
* Xác định được các hình thức và mức độ tác động của người dân vào
TNR tại KBTTN Bắc Hướng Hóa.
* Phân tích được các nguyên nhân dẫn tới tác động tích cực và bất lợi

của người dân địa phương tới TNR.
* Đề xuất các giải pháp phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác
động bất lợi của cộng đồng người dân tới TNR tại KBTTN Bắc Hướng Hóa.
2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác động tích cực và bất
lợi của của cộng đồng người dân sống trong phân khu phục hồi sinh thái và
vùng đệm tại KBTTN Bắc Hướng Hóa, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
2.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu các tác động tích cực và bất
lợi của cộng đồng người dân vào TNR tại KBTTN Bắc Hướng Hóa tạo nền
tảng cho việc đề xuất các biện pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng TNR tại khu
vực nghiên cứu.
- Luận văn chỉ giới hạn ở việc xác định những tác động, nguyên nhân,
mức độ tác động của cộng đồng sống trong vùng lõi và vùng đệm của KBT.
- Luận văn chỉ đề cập đến 3 loại kinh tế hộ gia đình của cộng đồng là
khá, trung bình và nghèo theo sự phân loại của địa phương.
13


2.4. Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1: Hình thức và mức độ tác động của người dân vào TNR tại
KBTTN Bắc Hướng Hóa.
- Các hình thức tác động: khai thác gỗ, khai thác song mây, khai thác
các lâm sản ngoài gỗ khác, săn bắt động vật hoang dã, chăn thả gia súc, khai
thác củi...
- Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tới thu nhập từ TNR và thu nhập
của các HGĐ.
+ Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tới thu nhập từ TNR
+ Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tới tổng thu nhập của HGD

- Sự phụ thuộc của người dân tới TNR
+ Sự phụ thuộc của người dân vào TNR theo khoảng cách đến KBT
+ Sự phụ thuộc của người dân vào TNR theo loại kinh tế hộ
* Nội dung 2: Nguyên nhân dẫn tới tác động tích cực và bất lợi của
người dân địa phương tới TNR
+ Nguyên nhân về kinh tế: nhu cầu và khả năng đáp ứng về lương thực,
tỷ trọng đóng góp của thu nhập từ TNR trong cơ cấu thu nhập của HGĐ, nhu
cầu của thị trường, cơ hội sinh kế, nhu cầu và khả năng đáp ứng về chất đốt.
+ Nguyên nhân về xã hội: các chính sách hỗ trợ cho người dân, việc
xác định ranh giới khu bảo tồn, tập quán sử dụng TNR.
* Nội dung 3: Đề xuất các giải pháp phát huy tác động tích cực và giảm
thiểu tác động bất lợi của cộng đồng người dân tới TNR.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu
2.5.1.1. Lý luận về lý thuyết hệ thống:
Lý thuyết hệ thống ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các ngành
khoa học giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở
lý thuyết hệ thống được L.vonbertanlanfy đề xướng vào đầu thế kỷ 20 và nó
được sử dụng như một cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp.
14


Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau, có quan
hệ và tác động qua lại. Áp dụng quan điểm tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu
có nghĩa là: Khi nghiên cứu một hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội ta phải xem
xét đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với các hiện tượng khác, vì mọi
hiện tượng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mặt khác mỗi hiện tượng
đều nằm trong trạng thái biến đổi và phát triển mà nguồn gốc và động lực chủ
yếu của hiện tượng đó nằm trong bản thân sự vật, vì vậy việc nghiên cứu một
sự vật phải xem lý thuyết hệ thống là nền tảng của phương pháp luận.

Theo tác giả Trần Ngọc Thể (2009)[17]: Sự tác động của người dân địa
phương đến TNR là hoạt động hệ thống kinh tế- xã hội và tác động tới hệ
thống tự nhiên.
* Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong
hệ thống kinh tế có nghĩa là các yếu tố trong hệ thống kinh tế như nguồn thu
nhập, chi phí, mức sống, nhu cầu thị trường, các nguồn sinh kế, lợi nhuận...có
ảnh hưởng tới các hình thức và mức độ tác động của người dân tới TNR.
Ngược lại các tác động của người dân tới TNR và mức độ tác động cũng chi
phối đến hiệu quả kinh tế của các HGĐ như: tác động trực tiếp hoặc gián tiếp,
mức độ tác động lớn hay nhỏ...
Do tác động của người dân có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế
nên có thể tác động vào các yếu tố kinh tế nhằm phát huy tác động tích cực và
giảm thiểu tác động bất lợi của người dân tới TNR trong KBT. Đây là một
trong những cơ sở lý luận quan trọng để đề xuất các giải phứp kinh tế trong
luận văn.
* Các tác động của người dân tới TNR là hoạt động mang tính xã hội.
Điều này được thể hiện ở chỗ: Con người là trung tâm của các tác động tích
cực hoặc bất lợi tới TNR. Vì vậy, các tác động chịu sự chi phối của các yếu tố
xã hội như: nhận thức của người dân về vai trò của rừng, hiểu biết về chính
sách, thể chế, luật pháp của Nhà nước, phong tục tập quán, tín ngưỡng...Ngoài

15


ra các chính sách của KBT, các quy định riêng của cộng đồng cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới tác động của người dân địa phương vào TNR.
Ngược lại các tác động của người dân tới TNR cũng thể hiện các yếu
tôe xã hội trong một cộng đồng như: vấn đề công bằng, bình đẵng, tổ chức và
thể chế của cộng đồng được thực thi, phát triển bền vững...
* TNR là một hệ thống tự nhiên ở đó các phần tử trong hệ thống có mối

quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Bất kỳ tác động nào từ bên ngoài tới TNR
cũng dẫn tới sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. Trong tự
nhiên, TNR tồn tại khách quan, vận động và phát triển theo những quy luật
nhất định như: tái sinh, sinh trưởng và phát triển, diễn thế...Nếu không tôn
trọng quy luật vận động của tự nhiên hoặc tác động vượt quá giới hạn chịu
đựng của tự nhiên thì hệ thống sẽ suy giảm và có nguy cơ biến mất. Lý luận
cho rằng TNR có khả năng tái tạo nên khuyến khích sử dụng, điều này không
sai nhưng thường bị vận dụng để tác động tới TNR quá mức và không cho
thời gian để rừng kịp phục hồi. Vì vậy, để duy trì TNR như một hệ thống
hoàn chỉnh trong tự nhiên thì các tác động của con người phải phù hợp với
các quy luật vận động của tự nhiên.
2.5.1.2. Quan điểm sinh thái nhân văn:
Đề tài đã sử dụng lý thuyết sinh thái nhân văn, sinh thái văn hóa vào
phân tích các tác động tích cực và bất lợi của người dân tới TNR. Điều này,
được thể hiện ở chổ: Mỗi cộng đồng sinh sống và phát triển đều có các hoạt
động KT-XH, sinh thái, văn hóa đặc trưng. Những yếu tố này ảnh hưởng lớn
tới nhận thức và hành động của mỗi người trong cộng đồng. Các tác động của
người dân tới TNR chịu sự chi phối của các yếu tố KT-XH, sinh thái, văn hóa
đó. Tuy nhiên các yếu tố này tác động tới các hoạt động trong cộng đồng ở
các giai đoạn khác nhau thì không giống nhau. Có những yếu tố giữ vai trò
quan trọng trong cộng đồng vào thời điểm này nhưng lại không phải quan
trọng trong thời điểm khác.

16


Để giải thích các tác động tích cực và bất lợi của người dân địa phương
tới TNR, đề tài sử dụng tháp sinh thái- nhân văn của Park (1936) đã được
Terehani Kroener (1992) và Nguyễn Bá Ngãi (2001) mô phỏng.


Ảnh Hưởng

Các nhân tố thích hợp

Đạo
đức

Phát triển
KT-XH
địa
phương
và bảo
tồn TNR

Các yếu tố văn hóa

Bậc
thể
chế

Tác động
bất lợi
của
người
dân địa
phương
đến TNR

Bậc kinh tế


Bậc sinh thái

Các yếu tố thể
chế chính sách

Các yếu tố
kinh tế

Các yếu
tố sinh
thái,công
nghệ

Hình 2.1. Tháp sinh thái nhân văn trong nghiên cứu sự tác động
của người dân địa phương tới tài nguyên rừng [12]
Mô hình sinh thái nhân văn được Park thiết kế theo hình tháp dựa trên
các hoạt động xã hội của cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc trong các
nhóm nhân tố theo trình tự: Bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế chính sách
và bậc đạo đức. Mô hình này đề cập đến quan hệ giữa sắp xếp thứ bậc các
nhóm nhân tố với các hoạt động của cá nhân và sự bền vững.
Dựa trên hình tháp này có thể giải thích: Quan hệ giữa tác động tích
cực của người dân địa phương đến TNR có tỷ lệ thuận với phát triển kinh tếxã hội của địa phương và bảo tồn TNR. Ngược lại, các tác động bất lợi của
cộng đồng người dân đến TNR và phát triển kinh tế - xã hội địa phương, bảo
17


tồn TNR là quan hệ có xu hướng nghịch. Điều này có ngiã là khi kinh tế- xã
hội của địa phương càng phát triển, điều kiện sống về vật chất, tinh thần được
đản bảo và công tác bảo tồn TNR được thực hiện tốt thì các tác động tích cực
sẽ tăng lên và các tác động bất lợi tới TNR sẽ càng giảm. Các tác động tích

cực và bất lợi của người dân địa phương vào TNR đều có cơ sở sinh thái và
chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế- xã hội.
Cơ sở sinh thái được giải thích bằng các yếu tố vật lý, sinh học và
được chia làm 2 loại: Những yếu tố không thể kiểm soát được như khí hậu,
thủy văn, địa hình...và những yếu tố có thể kiểm soát được hoặc hạn chế được
như xói mòn, lũ lụt, sâu bệnh, lửa rừng, hạn hán...Những yếu tố kiểm soát
hoặc hạn chế được cần được nghiên cứu bằng các giải pháp công nghệ.
Các yếu tố kinh tế như sinh kế, mức sống của người dân địa phương,
nhu cầu thị trường..., những nhân tố này rất có ý nghĩa đối với sự tác động của
người dân địa phương tới TNR.
Bậc thể chế được giải thích là các yếu tố về thể chế, chính sách, tổ
chức cộng đồng... ảnh hưởng giản tiếp tới những tác động của người dân địa
phương tới TNR.
Bậc đạo đức được hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức cao hơn
nữa là văn hóa của cộng đồng. Mọi tác động của các yếu tố khác đều có thể
làm thay đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng.
Theo tháp sinh thái- nhân văn thì bất kỳ một giải pháp nào nằhm phát
huy các tác động tích cực và giảm thiểu các tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn
và phát triển bền vững TNR đều phải dựa tên cơ sở sinh thái và đảm bảo được
các yếu tố kinh tế- xã hội của cộng đồng người dân địa phương.
2.5.1.3. Quan điểm bảo tồn - phát triển:
Theo quan niệm trước đây, các KBTTN thường được xem như một khu
vực tách biệt với thế giới loài người. Quan niệm này dẫn đến những sai lầm
trong việc quản lý các KBTTN. Kết quả là thiên nhiên vẫn liên tục bị con
người tác động theo hướng tiêu cực: Tàn phá mà nguyên nhân là do những áp
18


lực xã hội và sinh thái trong và ngoài KBT[15]. Theo chương trình Con người
và Sinh quyển (Man and Biosphere Program; viết tắt là: MAB thuộc

UNESCO) cho thấy các KBT vẫn cần có một số khu vực không có hoặc chịu
rất ít tác động của con người với những quy định liểm soát chặt chẽ, được gọi
là “vùng lõi”. Bên cạnh đó cần thúc đẩy phát triển kinh tế thân thiện với môi
trường, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở các
vùng xung quanh được gọi là “vùng đệm” và chuyển tiếp trong đó, người dân
địa phương đóng vai trò chủ chốt. Có như vậy công tác bảo tồn mới đạt được
hiệu quả lâu dài và bền vững (Theo Khu dự trữ sinh quyển Việt Nam – Bách
khoa toàn thư Wikipedia).
Ngày nay, con người đã dần nhận thức được vai trò quan trọng của việc
liên kết giữa bảo tồn và phát triển. Trong quá trình bảo tồn có các yếu tố phát
triển và trong phát triển vẫn đảm bảo được các yêu cầu của bảo tồn. Theo
gilmour D.A và Nguyễn Văn Sản (1999)[8], đã đưa ra quan điểm bảo tồn và
phát triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển
của địa phương, bao gồm 3 thành phần chính (cách tiếp cận) sau:
+ Thứ nhất là nếu nhu cầu phát triển cộng đồng địa phương đó có thể
được đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài
nguyên sẽ được giảm bớt và tài nguyên được bảo tồn (Cách tiếp cận các giải
pháp thay thế sinh kế).
+ Thứ hai là nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào
quan tâm đến việc bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng
vẫn còn chưa được đáp ứng thì trước hết cần phải nỗ lực cải thiện nền kinh tếxã hội của họ đủ tốt để họ có thể quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên
(Cách tiếp cận phát triển kinh tế).
+ Thứ ba là cộng đồng địa phương đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên nếu như họ có thể tham gia một cách tích cực vào việc
quy hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên và chia sẻ lợi ích từ nguồn tài
nguyên đó. Theo cách này, tài nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số
19


nhu cầu cơ bản của người dân địa phương được đáp ứng thông qua việc sử

dụng và khai thác tài nguyên một cách hợp lý và bền vững (Cách tiếp cận
tham gia quy hoạch).
Trong 3 cách tiếp cận trên, không thể nói cách tiếp cận nào có hiệu quả
hơn mà tùy thuộc vào điều kiện địa phương nhất định chúng ta nên vận dụng
cách tiếp cận nào cho phù hợp. Trong khuôn khổ đề tài, tác giả đã vận dụng
cả 3 cách tiếp cận này đối với cộng đồng người dân ở trong và ngoài KBT
nhằm đề xuất các giải pháp phát huy các tác động tích cực và giảm thiểu các
tác động bất lợi của người dân tới TNR.
- Tiếp cận có sự tham gia: Theo ngân hàng thế giới, sự tham gia được
định nghĩa như là một quá trình thông qua đó các chủ thể hay các bên liên
quan cùng tác động và chia sẽ những sáng kiến phát triển và cùng quyết
định[12]. FAO (1982) định nghĩa:”Sự tham gia của nhân dân như quá trình
mà qua đó người nghèo nông thôn có khả năng tự tổ chức, có khả năng nhận
biết các nhu cầu của chính mình và tham gia trong thiết kế, thực hiện và đánh
giá các phương án tại địa phương”. Năm 1996, Hosley đưa ra 7 mức độ của
sự tham gia từ thấp đến cao, đó là: Tham gia có tính chất vận động, tham gia
bị động, tham gia qua hình thức tư vấn, tham gia vì mục tiêu được hưởng các
hỗ trợ vật tư từ bên ngoài, tham gia theo chức năng, tham gia hỗ trợ, tự huy
động và tổ chức[12].
Trong đề tài này, phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân
được áp dụng trong quá trình thu thập số liệu tại địa điểm nghiên cứu. Người
dân tham gia ở mức độ tư vấn, cung cấp thông tin. Điều này được thể hiện ở
các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong đề tài: Phương pháp đánh
giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp đánh giá nông thôn có sưh tham
gia (PRA). Các phương pháp này giúp thu thập được các thông tin và phân
tích của chính người dân địa phương về vấn đề nghiên cứu.
\2.5.2. Phương pháp điều tra thu thập tài liệu
2.5.2.1. Lựa chọn địa điểm nghiên cứu
20



Trên cơ sở thực tế của KBT, tác giả đưa ra kết luận về địa điểm nghiên
cứu như sau:
Thứ nhất: Khu BTTN Bắc Hướng Hóa nằm trên địa bàn gồm 5 xã
gồm Hướng Linh, Hướng Sơn, Hướng Phùng, Hướng Việt, Hướng Lập. Vì
vậy tác giả đã lựa chọn 5 xã trên là địa điểm nghiên cứu của đề tài.
Thứ hai: Đề tài tiến hành phỏng vấn các tác động của người dân tới
TNR theo 2 khía cạnh là kinh tế hộ gia đình và khoảng cách đến KBT. Cả 5
xã lựa chọn đều đáp ứng được yêu cầu đó. Tuy nhiên dựa theo Đề cương quy
hoạch tổng thể KBTTN Bắc Hướng Hóa năm 2015 của Chi cục Kiểm lâm
Quảng Trị, các thôn có khoảng cách dưới 1h30’ đi bộ (<7km) mới tác động
trực tiếp đến TNR KBT. Vì vậy, tác giả chia khoảng cách dân cư đến KBT
thành 3 khoảng.
<1km đối với 02 thôn trong Phân khu phục hồi sinh thái
1-4km đối với các thôn sống ven rừng
4-7km đối với các thôn xa hơn nhưng có tác động trực tiếp đến TNR
KBT
Số HGĐ tại khu vực nghiên cứu theo khoảng cách đến KBT được
thống kê theo bảng sau đây.
Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng HGĐ theo khoảng cách đến KBT
ở khu vực nghiên cứu.
TT

Khoảng cách đến KBT

Số HGĐ

1

<1km


37

2

1-4km

644

3

4-7km

284

Thứ ba: Về dung lượng mẫu điều tra được tính toán theo công thức
N. t2..S2

sau:
n=

N.d2 + t2..S2
Trong đó: n: Dung lượng mẫu cần chọn
N: Số hộ của xã điều tra
21


t: Là hệ số ứng với mức tin cậy của kết quả
d: Sai số mẫu(cho trước d= 5% - 10%)
S2: Phương sai của tổng thể(cho trước S2=0,25)

Bảng 2.2. Kết quả lựa chọn các HGĐ điều tra trong khu vực
TT

1

2

3

4

5



Thôn

Cuôi
Cựp
Tri
Sê Pu
Ta Păng
Hướng Lập
Chà Lỳ
Ra Hừm
Cù Bai
Tà Leng
A Sóc
Tổng số
Trỉa

Mới
Hồ
Pin
Hướng Sơn
Nguồn Rào
Cát
Ra Ly
Tổng số
Trăng
Tà Puồng
Chai
Hướng Việt
Xà Đưng
Tà Rùng
Tổng số
Cóc
Hoong
Hướng Linh Xà Bai
Mới
Tổng số
Chênh Vênh
Hướng Phùng
Tổng số
Tổng cộng

Số
Khoảng cách
HGĐ
đến KBT
19

<1km
18
<1km
29
1-4km
26
1-4km
17
1-4km
23
1-4km
13
1-4km
66
4-7km
18
4-7km
29
4-7km
258
27
1-4km
30
1-4km
42
1-4km
46
1-4km
42
1-4km

66
4-7km
42
4-7km
295
33
1-4km
17
1-4km
42
1-4km
51
1-4km
63
4-7km
206
47
1-4km
53
1-4km
36
1-4km
27
1-4km
163
43
1-4km
43
965


22

Số HGĐ
cần điều tra
10
10
2
2
1
1
1
9
2
4
42
2
2
2
3
2
9
5
25
2
1
2
3
8
16
3

3
2
2
10
3
3
96


Kết quả tính toán số HGĐ cần lựa chọn phỏng vấn theo khoảng cách
đến KBT được xác định như sau:
Khoảng cách <1km: n= 19,72555 làm tròn 20
Khoảng cách 1-4km: n= 39,64882 làm tròn 39
Khoảng cách 4-7km: n= 36,77854 làm tròn 37
Như vậy tổng số hộ gia đình cần điều tra là 96 hộ
Kết quả tính toán số HGĐ cần lựa chọn phỏng vấn theo nhóm hộ (khá,
trung bình, nghèo) được xác định theo phương pháp ngẫu nhiên có hệ thống.
Tiêu chí phân loại hộ do địa phương quy định thông qua phỏng vấn cán bộ
UBND xã (có bảng tiêu chí kèm theo).
Bảng 2.3. Kết quả lựa chọn các HGĐ điều tra theo loại hình kinh tế
hộ
TT

Khoảng cách đến KBT

1

<1km

2


1-4km

3

4-7km

Loại hộ
Hộ khá
Hộ trung bình
Hộ nghèo
Tổng
Hộ khá
Hộ trung bình
Hộ nghèo
Tổng
Hộ khá
Hộ trung bình
Hộ nghèo
Tổng

Số hộ
3
5
12
20
6
14
19
39

18
13
16
37

2.5.2.2. Nghiên cứu tài liệu thứ cấp
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của các thôn/xã nằm
trong phân khu phục hồi sinh thái và vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc
Hướng Hóa.
- Các hệ thống chính sách liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học và
quản lý rừng đặc dụng.
- Các tài liệu nghiên cứu về Khu bảo tồn, các tài liệu khác liên quan đến
Khu bảo tồn và địa phương.
23


×