Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra các kì thi của trường đại học sài gòn (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.44 KB, 25 trang )

B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CÁC KÌ THI

1.1.

Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.1.1. Thanh tra
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của
địa phương, cơ quan, xí nghiệp” 3.
Khái niệm thanh tra được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Năm 1961,
trong bài huấn thị về công tác thanh tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thanh tra là tai
mắt của Đảng và Chính phủ, tai mắt sáng suốt thì người mới sáng suốt”. Theo các nhà
khoa học giáo dục: “Thanh tra là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, có chức
năng duy trì các hoạt động của cơ quan hay của công chức bằng các hoạt động xem
xét, thẩm định lại những hành vi của công chức, những hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước trên cơ sở những quy định pháp lí về quyền hạn, nhiệm vụ của cá nhân
hoặc tổ chức được thanh tra.”4
Luật Thanh tra 2010, văn bản pháp lí cao nhất trong hoạt động thanh tra không
nêu khái niệm thanh tra là gì, mà tại Điều 2 luật này nêu mục đích của hoạt động thanh
tra: “Mục đích của hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lí,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp
khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lí hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ
chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lí nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Bên cạnh đó tại
Khoản 1, 2, 3 của Điều 3, giải thích từ ngữ, Luật Thanh tra đã nêu các khái niệm: một
3
4


Từ điển Tiếng Việt (1992) , Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
Trần Kiểm (2004), Khoa học Quản lí giáo dục - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

8


là: Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lí theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà
nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành; hai là: Thanh tra hành
chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền
hạn được giao; ba là: Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kĩ thuật, quy tắc quản lí
thuộc ngành, lĩnh vực đó.5
Từ những luận điểm nêu trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm Thanh tra như sau:
Thanh tra là một dạng hoạt động, là một chức năng của quản lí nhà nước được thực
hiện bởi chủ thể quản lí có thẩm quyền, nhân danh quyền lực nhà nước, nhằm tác động
đến đối tượng quản lí trên cơ sở xem xét, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố
tích cực, phòng ngừa và xử lí vi phạm, tăng cường quản lí, góp phần hoàn thiện cơ cấu
quản lí, tăng cường pháp chế bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức và cá nhân. Thanh tra có nghĩa là sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài vào
hoạt động của một đối tượng nhất định.
1.1.2. Kiểm tra
Khi nói về thanh tra chúng ta thường gắn liền với hai chữ kiểm tra. Tuy nhiên,
chúng ta cần xác định thanh tra và kiểm tra là hai khái niệm khác biệt.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá,
nhận xét”6; “Kiểm tra là một chức năng quản lí có liên quan mật thiết với các chức
năng kế hoạch hóa; nó cho phép các nhà quản lí biết được các mục tiêu của tổ chức có


5
6

Điều 3, Luật Thanh tra 2010
Từ điển Tiếng Việt (1992) , Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

9


đạt được hay không hoặc đạt đuợc như thế nào, cũng như những nguyên nhân tạo nên
tình hình đó, tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động vận hành của một hệ thống” 7.
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Kiểm tra chỉ một hoạt động nhằm thẩm định, xác
định một hành vi của cá nhân hay một tổ chức trong quá trình thực hiện quyết định.
Ngoài ra, còn có thể hiểu kiểm tra là hoạt động quan sát và kiểm nghiệm mức độ phù
hợp của quá trình hoạt động của đối tượng bị quản lí với các quyết định quản lí đã lựa
chọn”8
Như vậy, kiểm tra là công việc đo lường và điều chỉnh các hoạt động cá nhân và
các bộ phận phối hợp, để tin cậy và xác định được sự phù hợp giữa các hoạt động tiến
hành với kế hoạch và mục tiêu đã đề ra, chỉ ra những lệch lạc, đưa ra những tác động
nhằm hoàn thành kế hoạch.
Kiểm tra và thanh tra giống nhau về mục đích là tạo lập kênh thông tin phản hồi
trong quản lí; phát hiện, phân tích, đánh giá thực tiễn một cách chính xác, khách quan,
trung thực, làm rõ đúng sai, nguyên nhân dẫn đến sai phạm nhằm phát huy nhân tố tích
cực, phòng ngừa, xử lí vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ
chế quản lí.
Để có cái nhìn một cách tổng quát giữa thanh tra và kiểm tra, chúng tôi đưa ra
bảng so sánh như sau:
Kiểm tra
Tính


Thanh tra
Là của cấp trên đối với cấp dưới

Tổ chức quản lí trong nội bộ

chất
Tổ

7
8

Do thủ trưởng cơ quan trực tiếp Là hệ thống tổ chức nhà nước do

chức

(Hiệu trưởng) quyết định thành lập

pháp luật quy định

Hoạt

Theo kế hoạch nội bộ

Chỉ tuân theo pháp luật

động

Hoạt động trong hệ


Hoạt động từ ngoài hệ

Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính (2002), NXB Lao động.
Trần Kiểm (2004), Khoa học Quản lí giáo dục - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

10


Đối

Tập thể, cá nhân trong nội bộ với các Cơ quan, tổ chức, cá nhân cấp dưới

tƣợng

hoạt động diễn ra trong cơ quan, đơn với những công việc và hoạt động
vị (trong trường) và mối quan hệ của họ
giữa chúng

Xử lí

Xem xét, phát hiện, điểu chỉnh

Có tính chất và hiệu lực pháp lí cao

Khen thưởng, trách phạt

Đề nghị cấp trên khen thưởng hoặc
xử lí theo pháp luật
Giúp đỡ, điều chỉnh


Bảng 1.1. So sánh giữa thanh tra và kiểm tra
Sự phân biệt giữa thanh tra và kiểm tra chỉ là tương đối. Khi tiến hành thanh tra,
thường thực hiện nhiều hoạt động kiểm tra. Khi tiến hành kiểm tra, có thể chọn nội
dung thanh tra. Chính từ quan hệ qua lại giữa hai khái niệm này nên trong thực tế
người ta hay sử dụng cả hai từ: thanh tra, kiểm tra.
1.1.3. Giám sát
Theo Từ điển tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm
đúng hoặc sai những điều đã quy định”9 hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem
có thực hiện đúng những điều quy định không”.
Như vậy, giám sát phải luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi: giám sát ai, giám sát việc gì. Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ, nó
phân biệt giữa “giám sát” và “kiểm tra”. “Kiểm tra” thì chủ thể hoạt động và đối tượng
chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra của
chủ thể hoạt động. Nói một cách khác, chủ thể tự mình xem xét, đánh giá tình trạng tốt,
xấu của công việc mình đang làm. Nhưng “giám sát” thì không thể tự mình giám sát
hoạt động của chính mình. Giám sát là hoạt động của chủ thể ngoài hệ thống đối với
đối tượng thuộc hệ thống khác, tức là giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu giám sát
không nằm trong một hệ thống phụ thuộc nhau.

9

Từ điển Tiếng Việt (1992) , Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

11


Hoạt động giám sát rất đa dạng cả chủ thể, đối tượng và nội dung, tính chất hoạt
động. Chúng tôi chỉ đề cập đến hai loại hình giám sát chủ yếu sau đây:
Giám sát mang tính quyền lực nhà nước: là loại giám sát được tiến hành bởi chủ
thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống các cơ

quan nhà nước khác theo những nguyên tắc nhất định về sự phân công quyền lực nhà
nước.
Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước: là loại hình giám sát được tiến
hành bởi các chủ thể phi Nhà nước. Ở nước ta, đó là hoạt động giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, giám sát của nhân dân đối
với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.10
Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có chức năng thanh tra,
kiểm tra là hoạt động có tính chất hành chính. Trong quá trình thực hiện chức năng
giám sát, kiểm tra, thanh tra, các cơ quan nhà nước có quyền quyết định những biện
pháp và hình thức xử lí (nếu phát hiện vi phạm pháp luật).
1.1.4. Mối quan hệ giữa thanh tra, kiểm tra, giám sát
Trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung của toàn xã hội, thanh tra
gắn với cơ quan quản lí nhà nước, do đó, đối tượng thanh tra rộng hơn và trực tiếp hơn
so với đối tượng của từng chủ thể kiểm tra, giám sát.
Hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước hỗ trợ đắc lực cho hoạt
động kiểm tra, giám sát. Qua hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh tra nhà nước
không những phát hiện các vi phạm để xử lí theo thẩm quyền của mình, mà còn phục
vụ cho hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung của xã hội. Ngược lại, hoạt động thanh
tra của các cơ quan thanh tra nhà nước tuy là hoạt động tự kiểm tra của hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước nhưng cũng luôn được tiếp nhận kết quả kiểm tra, giám sát
từ các "kênh" khác để làm tốt hơn công tác thanh tra của mình.

10

thanhtra.gov.vn/ct/news/.../Tai%20lieu%20boi%20duong%20TTVC.doc

12


Cơ quan thanh tra nhà nước gắn với hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, là

hệ thống cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật trên phạm
vi toàn quốc và trên mọi lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh
quốc phòng, đối ngoại, vì vậy thanh tra có điều kiện phát hiện vi phạm, phát hiện
những bất hợp lí, thậm chí cả những sơ hở, khiếm khuyết trong chính sách, pháp luật
sớm hơn và dễ dàng hơn so với hoạt động của các chủ thể khác có chức năng kiểm tra,
giám sát.
Hoạt động thanh tra là hoạt động bao quát toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội,
nên hoạt động thanh tra nhìn chung, so với kiểm tra và giám sát, sẽ trực tiếp hơn, toàn
diện hơn và có tính hệ thống hơn.
Tuy nhiên, các cơ quan thanh tra nhà nước chỉ phát huy được vị trí trung tâm,
vai trò cầu nối trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung nếu như tổ chức tốt
công tác kiểm tra và giám sát, nhất là giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội
đồng nhân dân và giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, giám sát của nhân
dân. Bởi vì, thanh tra là xem xét và đánh giá chính hiệu quả quản lí của cơ quan hành
chính nhà nước, trong khi đó về mặt tổ chức thanh tra lại thuộc hệ thống các cơ quan
này. Vì vậy, hoạt động thanh tra dễ bị lợi ích cục bộ, chủ nghĩa thành tích chi phối, làm
giảm tính khách quan trong hoạt động.
Một vấn đề cần được đặt ra là, trên thực tế hiện nay bên cạnh hoạt động thanh
tra được quy định trong Luật Thanh tra, thì còn có các loại hình khác cũng có tên là
Thanh tra (thanh tra của Thủ trưởng, Thanh tra nhân dân), do vậy cần phải có sự tìm
hiểu về đặc điểm, bản chất của các loại hình này.
Về loại hình thanh tra của Thủ trưởng và Thanh tra nhân dân: thanh tra của Thủ
trưởng được lập ra ở các doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan nhà nước không có chức
năng quản lí nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đặt dưới sự chỉ đạo, điều hành của người
đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị đó. Nhiệm vụ của nó là xem xét, đánh giá việc thực
hiện các quy trình, quy phạm, nội quy, quy chế của các đối tượng trong phạm vi quản lí
nội bộ của tổ chức, cơ quan, đơn vị mình. Còn các tổ chức Thanh tra nhân dân được
13



thành lập ở xã, phường, thị trấn, các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và các
đơn vị hành chính sự nghiệp. Thanh tra nhân dân do nhân dân, cán bộ, công chức,
người lao động bầu ra, đặt dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Tổ quốc (ở xã, phường, thị
trấn) hoặc của tổ chức công đoàn cơ sở (ở các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước). Nhiệm vụ của các Ban thanh tra nhân dân là giám sát việc
chấp hành chính sách, pháp luật; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở cơ sở.
Như vậy, hoạt động của cả hai loại hình này đều không được tiến hành nhân
danh quyền lực nhà nước. Do đó, mặc dù có tên gọi là thanh tra nhưng về bản chất, hai
loại hình trên đây không phải là thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước. Đối với thanh
tra của thủ trưởng thì đó thực chất là một loại hình kiểm tra mang tính nội bộ trong các
cơ quan, tổ chức, đơn vị. Còn đối với Thanh tra nhân dân, thực chất đó là một hình
thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm ở cơ sở.
1.1.5. Thanh tra giáo dục
Thanh tra giáo dục là hoạt động của chủ thể quản lí giáo dục nhằm kiểm tra xem
xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo. Thanh tra giáo dục thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên
trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để giúp cho nhà quản lí giáo dục
đạt được mục tiêu nhiệm vụ đã đặt ra.
Thanh tra giáo dục là thanh tra chuyên ngành về giáo dục. Thanh tra giáo dục
thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lí nhà nước về giáo dục, nhằm đảm bảo
việc thi hành pháp luật, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa và xử lí vi phạm, bảo vệ
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực
giáo dục.
Hoạt động của thanh tra giáo dục được chia thành hai nhóm: thanh tra hành
chính trong lĩnh vực giáo dục và thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục. Sự

14



phân chia này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Luật Thanh tra 2010 (mà các văn
bản về thanh tra giáo dục trước đây không có được).
Trong đó, thanh tra hành chính trong lĩnh vực giáo dục là thanh tra việc thực
hiện chính sách, pháp luật về giáo dục; chính sách pháp luật có liên quan và nhiệm vụ,
quyền hạn được giao với các đối tượng được quy định.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục có nội dung cụ thể như
sau: Xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục; biên soạn, sử dụng sách giáo khoa,
giáo trình, tài liệu; sản xuất, quản lí, sử dụng thiết bị giáo dục. Thành lập, sáp nhập,
chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục; tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục; hoạt động
chuyên ngành giáo dục của cơ quan quản lí giáo dục. Thực hiện quy chế chuyên môn;
mở ngành đào tạo; quy chế đào tạo; quy chế thi cử; thực hiện nội dung, phương pháp
giáo dục; in, quản lí, cấp phát văn bằng, chứng chỉ. Thực hiện quy chế tuyển sinh, quản
lí, giáo dục người học và các chế độ chính sách đối với người học. Các điều kiện bảo
đảm chất lượng giáo dục; kiểm định chất lượng giáo dục; thực hiện phổ cập giáo dục.
Thực hiện quy định về thu, quản lí, sử dụng học phí, các nguồn lực tài chính khác. Tổ
chức quản lí, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ. Tổ chức, quản lí
công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục. Thực hiện các quy định khác của
pháp luật về giáo dục.11
1.1.6. Thanh tra thi
Thanh tra thi là một hoạt động trong nội dung hoạt động của thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực giáo dục. Xét về mặt khoa học pháp lí, ta có thể khẳng định rằng
thanh tra thi là hoạt động thanh tra của thanh tra giáo dục (thanh tra Bộ GD&ĐT và
thanh tra Sở GD&ĐT) theo hệ thống thanh tra được quy định trong Luật Thanh tra, các
văn bản pháp quy về hoạt động thanh tra giáo dục.
Xét về mặt thực tiễn, thanh tra thi là hoạt động thanh tra được tiến hành trong
các kì thi. Các kì thi chính là đối tượng mà thanh tra thi nhắm tới. Trong các văn bản

11


Nghị định số 42/2013/NĐ-CP, ngày 09/4/2013 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục.

15


hướng dẫn hoạt động thanh tra của Bộ GD&ĐT, hoạt động thanh tra thi luôn được
nhấn mạnh “là trọng tâm của hoạt động trọng tâm”. Có nghĩa là: thanh tra của một
trường đại học, cao đẳng có nhiệm vụ trọng tâm là thanh tra lĩnh vực đào tạo và trong
hoạt động thanh tra lĩnh vực tra đào tạo đó, thanh tra thi được xem là hoạt động trọng
tâm.
Dưới góc độ đề tài, hoạt động thanh tra thi chính là đối tượng nghiên cứu. Chính
vì vậy, tác giả muốn nhấn mạnh đến hoạt động thanh tra thi là hoạt động thanh tra
trong các kì thi bao gồm: thi, xét tuyển, cử tuyển, xét tốt nghiệp ở các cấp học và trình
độ đào tạo.12
1.2.

Nguyên tắc thanh tra
Nguyên tắc thanh tra là tập hợp các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành

động mà các cơ quan quản lí, các tổ chức thanh tra, các Thanh tra viên và các đối
tượng thanh tra phải tuân theo trong quá trình hoạt động thanh tra.
Điều 7, Luật Thanh tra năm 2010 đã khẳng định: “Hoạt động thanh tra phải tuân
theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp
thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ
quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở đến hoạt động bình thường của
cơ quan tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra”.
Do vậy, hoạt động thanh tra ở bất kì lĩnh vực chuyên môn nào, nhất thiết phải
đảm bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc tuân thủ pháp luật
Đây là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong hoạt động thanh tra. Bởi

như đã trên đã trình bày, thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Hoạt
động thanh tra đòi hỏi được thực hiện theo trình tự và thủ tục luật định. Người làm
công tác thanh tra là người đại diện cho quyền lực nhà nước, thực hiện theo đúng trình
tự và thủ tục mà nhà nước đã đặt ra. Tuy nhiên, người làm công tác thanh tra có thể do
12

Quyết định số 41/2006/QĐ-BGDĐT, ngày 16/10/2006 của Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về tổ chức và hoạt
động thanh tra các kì thi.

16


năng lực hạn chế hoặc vì lợi ích cá nhân dễ thực hiện hành vi “lạm quyền”, dẫn đến
mục đích của thanh tra không thể đạt được.
Bên cạnh đó, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban
hành và được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mọi
chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật phải thực hiện theo pháp luật (tuân thủ
pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật). Trong công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, mục tiêu cơ bản mà nhà nước hướng đến là mọi
công dân sống và làm việc theo pháp luật. Hoạt động thanh tra là nhằm kiểm tra, giám
sát việc tuân thủ pháp luật. Vì vậy, hơn bất cứ hoạt động nào, hoạt động thanh tra phải
tuân thủ pháp luật. Pháp luật ở đây không chỉ trong phạm vi hẹp là pháp luật về thanh
tra. Pháp luật mà tác giả muốn nói đến là cả hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ hai: Nguyên tắc bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân
chủ, kịp thời
Đảm bảo tính chính xác trong hoạt động thanh tra là nguyên tắc quan trọng, bảo
đảm cho công tác thanh tra đạt hiệu quả cao, phản ảnh đúng sự thật về đối tượng thanh
tra. Nguyên tắc này nhằm tránh định kiến, suy diễn cũng như tránh làm hình thức, giả
tạo trong hoạt động thanh tra.
Để đảm bảo tính khách quan, trung thực thì hoạt động thanh tra cần phải sâu sát

thực tiễn, tôn trọng sự thật. Sự thật khách quan của sự vật, hiện tượng như thế nào thì
hoạt động thanh tra phải phản ánh đúng như thế đó. Do vậy, yêu cầu cán bộ thanh tra
phải có bản lĩnh vững vàng, ý thức trách nhiệm cao và có năng lực xem xét, phân tích
chính xác, khoa học. Khi tiến hành công tác thanh tra, cán bộ thanh tra phải nắm vững
các thang đo, hiểu rõ quy trình và tuân thủ theo quy trình.
Đảm bảo tính công khai, dân chủ cũng là nguyên tắc quan trọng, đặc biệt là
trong đời sống xã hội ngày nay. Mục đích của hoạt động dân chủ được nhà nước khẳng
định: “Phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nâng cao trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo
17


đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng suất, chất
lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước; phòng ngừa, ngăn
chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân
dân”13. Có nhiều quan điểm cho rằng, hoạt động thanh tra mà công khai thì sẽ không có
tác dụng. Quan điểm này chỉ phù hợp khi nói về phương thức thực hiện hoạt động
thanh tra (thanh tra đột xuất khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của
người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra). Nguyên tắc này đòi hỏi nội dung, kết
luận, kiến nghị thanh tra phải được thông báo đầy đủ để những người liên quan biết
cùng tham gia, giám sát, góp phần bảo đảm tính chính xác, khách quan trong hoạt động
thanh tra.
Đảm bảo tính kịp thời trong hoạt động thanh tra là phát hiện, ngăn ngừa, xử lý
vi phạm kịp thời, đúng lúc. Hoạt động thanh tra phải đáp ứng yêu cầu: không chậm trễ
và gắn với chu trình quản lí. Thời điểm tiến hành thanh tra là một trong những yếu tố
chủ đạo quyết định sự thành công của hoạt động thanh tra. Nếu hoạt động thanh tra
diễn ra sớm hoặc muộn hơn so với thực tế công việc diễn ra thì hiệu quả của nó là vô
cùng hạn chế. Bên cạnh đó, người quản lí tốt luôn đề cao tính phòng, chống hành vi vi
phạm hơn là đề ra các giải pháp xử lí hành vi vi phạm. Chính vì vậy, tính “kịp thời” là

hết sức quan trọng.
Thứ ba: Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian
thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Phạm vi thanh tra, đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra, thời gian thanh tra là
những vấn đề cơ bản trong một cuộc thanh tra. Việc đảm bảo nguyên tắc này nhằm
tránh việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật,
sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra. Nếu nguyên tắc này được
thực hiện tốt trong hoạt động thanh tra cũng sẽ góp phần xây dựng đời sống xã hội lành
mạnh.
13

Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, ngày 09/01/2015 về việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.

18


Thứ tư: Nguyên tắc không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan,
tổ chức, cá nhân được thanh tra
Khái niệm về thanh tra đã khẳng định thanh tra là kiểm tra, là giám sát nhằm
phòng ngừa và kịp thời phát hiện hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân. Vì vậy,
hoạt động thanh tra phải tuân thủ nguyên tắc này.
Thực hiện hoạt động thanh tra nhằm góp phần đảm bảo tuân thủ pháp chế và kỉ
luật nhà nước, tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
Pháp luật trao cho cơ quan thanh tra những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt để tiến hành
hoạt động thanh tra nhằm đạt được mục tiêu quan trọng nêu trên. Tuy nhiên, khi tiến
hành hoạt động thanh tra, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt này,
cơ quan thanh tra phải đảm bảo không cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân là đối tượng thanh tra. Có như vậy, thanh tra mới thực
sự là công cụ để củng cố và tăng cường pháp chế và kỉ luật nhà nước trong hoạt động

quản lí hành chính nhà nước. Nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối
tượng thanh tra có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt khi trên thực tế xuất hiện
tình trạng một bộ phận cán bộ thanh tra lợi dụng việc thanh tra để thực hiện những
hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của đối tượng thanh tra, đặc
biệt là của các đơn vị thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, khi tiến
hành một cuộc thanh tra, cán bộ thanh tra phải bảo đảm kế hoạch hoạt động của đối
tượng thanh tra, đồng thời cơ quan thanh tra chỉ được tiến hành thanh tra theo những
nội dung đã ghi trong quyết định thanh tra.
1.3.

Vai trò, chức năng của thanh tra, thanh tra thi

1.3.1. Vai trò của thanh tra, thanh tra thi
- Thanh tra góp phần vào việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa: Một trong
những nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ của hệ thống chính trị và bộ máy nhà
nước ở nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của nguyên tắc pháp
chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực
thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở
19


việc chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ
chức là đối tượng chịu sự quản lí của nhà nước. Hoạt động thanh tra là hoạt động do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm kiểm tra việc thực hiện quy định pháp
luật. Trong lĩnh vực giáo dục, các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động
giáo dục buộc phải tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Để đảm bảo việc “tuân thủ” này, hoạt động thanh tra, thanh tra thi có
vai trò cốt lõi. Hoạt động thanh tra sẽ giúp các đối tượng được thanh tra nhận thức đầy
đủ quyền và nghĩa vụ của mình, nhận thức được vai trò quan trọng của chính sách phát
triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay, từ đó hình thành ý thức tuân thủ quy định của

pháp luật nói chung và những quy định pháp luật về giáo dục nói riêng.
- Thanh tra là một công cụ thường xuyên, không thể thiếu của các cấp lãnh đạo,
quản lí giáo dục nhằm góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước của
các cơ quan có thẩm quyền quản lí giáo dục. Trong một phạm vi, chừng mực nhất định
nào đó, hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông thường có thể đưa lại những thông tin cần
thiết, đáp ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp phù hợp. Nhưng ở một cấp độ khác
của công tác quản lí nhà nước, công tác quản lí một trường đại học, hoạt động kiểm tra
theo nghĩa thông thường chưa đáp ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp phù hợp
đó. Thực tiễn điều hành và quản lí nói chung và đặc biệt quản lí nhà nước nói riêng đòi
hỏi phải có một phương thức kiểm tra khác với nghĩa kiểm tra thông thường đó là
thanh tra.
- Thông qua hoạt động thanh tra, những vi phạm, thiếu sót sẽ kịp thời được phát
hiện, khắc phục và xử lí nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Ở đây, tác giả
muốn nhấn mạnh đến tính “kịp thời” của hoạt động thanh tra. Trong một kì thi, những
thao tác, những thủ tục thoạt nhìn thì đơn giản nhưng nếu người tổ chức kì thi bỏ qua
hoặc sai sót khi tiến hành thì hậu quả pháp lí của sai sót đó là có thể rất lớn. Các hành
vi vi phạm pháp luật của các chủ thể tham gia kì thi nếu bị bỏ qua sẽ tác động mạnh mẽ
đến chất lượng của kì thi, chất lượng đào tạo của nhà trường, chất lượng nguồn nhân
lực của xã hội trong tương lai. Vì vậy, nếu chất lượng hoạt động thanh tra các kì thi cao
20


thì việc kịp thời phát hiện những thiếu sót, ngăn chặn và xử lí hành vi vi phạm sẽ góp
phần khắc phục những hậu quả như đã nêu trên.
- Thanh tra không chỉ kiểm tra, đánh giá mà điều quan trọng chính là sự tác
động đến ý thức, hành vi, trách nhiệm đến đối tượng thanh tra nhằm tư vấn, giúp đỡ,
động viên để họ tiến bộ. Trong lí thuyết về công tác thanh tra, kiểm tra, các nhà khoa
học giáo dục thường nhấn mạnh bốn nhiệm vụ: kiểm tra, đánh giá, tư vấn, thúc đẩy. Có
nghĩa là trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thì nhiệm vụ kiểm tra chỉ chiếm ¼ công
việc. Mục đích cuối cùng của một đợt thanh tra thi không phải là cán bộ thanh tra đã

lập được bao nhiêu biên bản, đã xử lí được bao nhiêu đối tượng. Mà mục đích cuối
cùng phải là kì thi đã thực hiện theo đúng quy chế hay không. Chính vì vậy, người làm
công tác thanh tra phải bằng hành vi tích cực của mình tác động vào ý thức, hành vi
của đối tượng thanh tra, tư vấn, giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ.
- Kết quả của hoạt động thanh tra là cơ sở cho đối tượng thanh tra thực hiện việc
tự điều chỉnh. Việc đánh giá, kết luận chính xác, công bằng, khách quan là tiêu chí rất
quan trọng của thanh tra. Một nguyên tắc cơ bản của thanh tra là phản ánh đúng hiện
thực khách quan. Hoạt động thanh tra phải phản ánh đúng cái gì đang diễn ra và diễn ra
như thế nào. Một khi kết luận thanh tra đã đáp ứng được nguyên tắc đó, thì nó chính là
cơ sở khoa học, cơ sở pháp lí vững chắc để cho đối tượng thanh tra tự điều chỉnh, điều
khiển hành vi của mình, góp phần hoàn thiện bản thân, từ đó phấn đấu vươn lên.
1.3.2. Chức năng của thanh tra, thanh tra thi
Thực tiễn đã chỉ ra rằng hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lí phần lớn tùy
thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định của nhà
quản lí. “Hiệu lực quản lý nhà nước bị ảnh hưởng nếu quyết định quản lí nhà nước
không đảm bảo tính giai cấp, tính Đảng, tính pháp luật; không dựa trên những luận cứ
khoa học (phù hợp với quy luật và điều kiện thực tế, khách quan), không phù hợp
nguyện vọng của quần chúng và không đáp ứng được nhu cầu của xã hội”14 . Tuy

14

thanhtra.gov.vn/ct/news/.../Tai%20lieu%20boi%20duong%20TTVC.doc.

21


nhiên, hiệu lực quản lí cũng bị ảnh hưởng ngay cả khi nội dung, chất lượng quyết định
quản lí đã bảo đảm các yêu cầu cơ bản, nhưng lại thiếu biện pháp bảo đảm cho quyết
định đó được thực hiện. Để các quyết định quản lí được các cơ quan, tổ chức và cá
nhân tuân thủ và chấp hành, phải đề ra quy trình thực hiện quyết định. Trong quy trình

đó không thể thiếu được hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh
giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lí; để kiểm nghiệm lại
chính nội dung và chất lượng quản lí; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải
huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lí. Trong trường hợp nội dung và chất
lượng quyết định quản lí được thực tế kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp, nhưng đối
tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt động
thanh tra, kiểm tra phải phục vụ cho việc làm rõ nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách
quan), xác định rõ trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc về ai để chấn chỉnh hoặc xử lí
(khi có vi phạm).
Thanh tra một kì thi cũng không nằm ngoài nhận định đã nêu trên. Ở đây, tác
giả muốn nhấn mạnh đến các chức năng cụ thể của hoạt động thanh tra thi như sau:
- Chức năng kiểm tra: là chức năng đầu tiên của hoạt động thanh tra thi nhằm
xác định thực chất việc tuân thủ các nội quy, quy chế thi đã được quy định trong việc
tổ chức một kì thi.
- Chức năng phòng ngừa: để phòng ngừa trước những hành vi vượt quá giới hạn
cho phép của pháp luật nói chung và của chế định giáo dục nói riêng. Ngăn chặn sớm
những hành vi tiêu cực, không lành mạnh, mang tính đối phó.
- Chức năng phát hiện: thông qua hoạt động thanh tra thi để phát hiện những
mặt tốt để động viên, khuyến khích; đồng thời phát hiện những lệch lạc, sai sót, những
khó khăn trở ngại, những vấn đề mới nảy sinh, tìm nguyên nhân của các biểu hiện để
có những giải pháp uốn nắn, sửa chữa, xử lí những vi phạm, giúp công tác quản lí của
nhà trường hiệu quả hơn, đặc biệt là việc tổ chức các kì thi tiếp theo được nghiêm túc
và đúng quy chế hơn.

22


- Chức năng đánh giá: nhằm đo lường, xác định giá trị thực trạng về mức độ
hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng hiệu quả công việc của đối tượng thanh tra tại thời
điểm đang xem xét so với mục tiêu, kế hoạch hay những chuẩn mực đã được xác lập

(quy chế thi), đồng thời thẩm định những yếu tố chủ quan, khách quan, những lệch lạc,
sai sót để giúp cho đối tượng thanh tra điều chỉnh hoạt động. Việc đánh giá chính xác
là yêu cầu quyết định của thanh tra, do vậy cần phải xây dựng được các chuẩn mực; thu
thập thông tin đảm bảo tính chính xác cao, khách quan; đo lường kết quả đã đạt được
bằng cách so sánh nó với các chuẩn mực đã xác định.
- Chức năng điều chỉnh: nhằm chấn chỉnh hoạt động của đối tượng thanh tra,
đồng thời kiến nghị với các cấp quản lí (Hiệu trưởng, Chủ tịch Hội đồng thi, Trưởng
Ban coi thi, Trưởng điểm thi, …) điều chỉnh các hoạt động trong kì thi. Để thực hiện
chức năng này, người làm công tác thanh tra cần phải thu thập thông tin một cách
chính xác bởi nguồn thông tin chính xác sẽ đem lại cho người quản lí một thông báo để
có thể nhận xét được rằng các quyết định quản lí của mình đã được thực hiện ở mức độ
nào và cần phải điều chỉnh như thế nào cho phù hợp để đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Chức năng giúp đỡ, động viên: khi được thanh tra, đối tượng thanh tra chắc
chắn phải nỗ lực làm việc, từ đó sẽ bộc lộ tài năng cũng như hạn chế của mình, qua đó
người cán bộ thanh tra có căn cứ để giúp đỡ, động viên, tư vấn đối tượng thanh tra
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Để làm được điều này, đòi hỏi cán bộ thanh tra phải có thái
độ thông cảm, gần gũi, biết chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ đối tượng thanh tra sửa chữa
những sai sót, bởi những điều đó chính là điều kiện đảm bảo thực hiện hiệu quả của
công tác thanh tra.
1.4.

Quy trình tổ chức hoạt động thanh tra, thanh tra thi

1.4.1. Quy trình chung tổ chức hoạt động thanh tra
Hoạt động thanh tra phải được diễn ra theo đúng quy trình được quy định tại
Luật Thanh tra 2010. Quy trình hoạt động một cuộc thanh tra cụ thể như sau:
a. Chuẩn bị thanh tra

23



Công tác chuẩn bị giúp cho hoạt động thanh tra diễn ra thuận lợi, chủ động, có
mục tiêu rõ ràng. Các công việc chuẩn bị cho cuộc thanh tra bao gồm những hoạt động
chuẩn bị trước khi ban hành quyết định thanh tra và sau khi ban hành quyết định thanh
tra.
- Trước khi ban hành quyết định thanh tra, cơ quan thanh tra có thể tiến hành
thu thập các thông tin về đối tượng thanh tra và xây dựng kế hoạch cuộc thanh tra.
Nguồn thông tin có thể được thu thập từ báo cáo, dữ liệu của các cơ quan, từ phản ánh
của cơ quan truyền thông hoặc từ khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trên
cơ sở phân tích những thông tin thu thập được đề xuất những nội dung cần thanh tra và
xây dựng kế hoạch thanh tra. Kế hoạch thanh tra gồm những nội dung cơ bản như: mục
đích, yêu cầu cuộc thanh tra, nội dung thanh tra, danh sách các tổ chức, đơn vị, cá nhân
được thanh tra, xác minh, thời hạn thanh tra, đề xuất nhân sự Đoàn Thanh tra hoặc
thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập.
- Sau khi quyết định thanh tra được ban hành, Trưởng đoàn thanh tra có trách
nhiệm tổ chức họp Đoàn Thanh tra để quán triệt kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt,
bàn các biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện kế hoạch, giao nhiệm vụ cho từng thành
viên, thống nhất phương pháp tiến hành. Đoàn Thanh tra hoặc thanh tra viên độc lập
phải chuẩn bị đầy đủ các văn bản pháp luật, các chính sách, chế độ liên quan đến nội
dung thanh tra; chuẩn bị phương tiện, thiết bị, kinh phí và những điều kiện vật chất cần
thiết khác phục vụ cho hoạt động thanh tra.
b. Ban hành quyết định thanh tra
Hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra.
Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước (khi xét thấy cần thiết, thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước) ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra (hoặc
quyết định thanh tra viên độc lập, người được giao nhiệm vụ thanh tra) để thực hiện
quyết định thanh tra. Ban hành quyết định thanh tra căn cứ vào kế hoạch thanh tra, khi
có yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, có dấu hiệu vi phạm pháp luật,
yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng.
24



Nội dung quyết định thanh tra phải nêu rõ: phạm vi, đối tượng, nội dung, nhiệm
vụ, thời hạn thanh tra; trưởng đoàn, thanh tra viên và các thành viên khác của Đoàn
Thanh tra. Chậm nhất là 05 ngày, kể từ ngày kí quyết định thanh tra, quyết định thanh
tra phải được gửi cho đối tượng thanh tra, trừ trường hợp thanh tra đột xuất.
Người ban hành quyết định thanh tra đồng thời phê duyệt kế hoạch cuộc thanh
tra. Trường hợp thanh tra có nội dung đơn giản, thanh tra đột xuất, quyết định thanh tra
được ban hành trước khi có kế hoạch thanh tra, sau khi có quyết định thanh tra, trưởng
Đoàn Thanh tra (hoặc thanh tra viên, người được giao thanh tra) xây dựng kế hoạch
thanh tra trình người ra quyết định thanh tra phê duyệt.
c. Tiến hành thanh tra
* Công bố quyết định thanh tra
Chậm nhất 15 ngày kể từ ngày kí, trưởng Đoàn Thanh tra, Thanh tra viên độc
lập có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra và nêu rõ mục đích, yêu cầu, cách thức
làm việc, kế hoạch tiến hành thanh tra với đối tượng thanh tra. Việc công bố phải được
lập biên bản.
* Thực hiện thanh tra
Trong quá trình thanh tra, Đoàn Thanh tra, Thanh tra viên, người được giao
thanh tra tiến hành các công việc sau:
- Thu thập và nghiên cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu, kiểm tra, xác định tính
hợp pháp, hợp lí, trung thực của các tài liệu, số liệu, thông tin. Tài liệu, số liệu được
thu thập, sử dụng trong quá trình thanh tra được bảo quản, khai thác, sử dụng đúng
mục đích. Nếu cần giữ nguyên trạng, Trưởng đoàn thanh tra ra quyết định niêm phong
một phần hoặc toàn bộ tài liệu.
- Yêu cầu giải trình: đối với những sự việc, tài liệu chưa rõ, chưa đủ cơ sở kết
luận, thì yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình bằng văn bản có chữ kí của người giải
trình.
- Đối thoại, chất vấn: trong trường hợp cần thiết có thể tổ chức đối thoại, chất
vấn đối tượng thanh tra, cá nhân, tổ chức để làm rõ thêm nội dung vụ việc. Diễn biến,

25


nội dung của đối thoại, chất vấn phải được lập biên bản đầy đủ, trường hợp cần thiết thì
ghi âm lại toàn bộ cuộc đối thoại, chất vấn.
- Thẩm tra, xác minh: để làm rõ thêm về đối tượng thanh tra, các tài liệu, số liệu
thì trưởng đoàn, thanh tra viên có thể quyết định thẩm tra, xác minh.
- Làm việc với cơ quan quản lí, cá nhân, tổ chức có liên quan: Đoàn Thanh tra,
thanh tra viên có thể làm việc với cơ quan chủ quản của đối tượng thanh tra về những
sự việc liên quan đến việc chỉ đạo, quản lí (nếu không đến làm việc trực tiếp thì có yêu
cầu bằng văn bản). Nếu có phản ánh của cá nhân, tổ chức liên quan đến đối tượng, nội
dung thanh tra thì Đoàn Thanh tra, thanh tra viên có thể làm việc trực tiếp với cá nhân,
tổ chức đã phản ánh vụ việc.
- Trưng cầu giám định: với những vấn đề về chuyên môn, kĩ thuật của các lĩnh
vực khác nhau mà Đoàn Thanh tra không đủ khả năng kết luận thì Trưởng đoàn thanh
tra, thanh tra viên báo cáo người ra quyết định thanh tra quyết định trưng cầu giám
định. Việc trưng cầu giám định thực hiện theo quy định của pháp luật.
Tất cả các hoạt động trong quá trình thực hiện thanh tra đều phải lập biên bản có
xác nhận của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
* Thời hạn thanh tra
Thời hạn thanh tra hành chính: cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ tiến hành
không quá 60 ngày (nếu phức tạp thì có thể kéo dài không quá 90 ngày, cuộc thanh tra
đặc biệt phức tạp có thể kéo dài không quá 150 ngày); cuộc thanh tra do Thanh tra tỉnh,
Thanh tra bộ tiến hành không quá 45 ngày (trường hợp phức tạp có thể kéo dài không
quá 70 ngày); cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, Thanh tra sở tiến hành không quá 30
ngày; ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn
thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày.
Thời hạn thanh tra chuyên ngành: cuộc thanh tra do Thanh tra bộ, Tổng cục,
Cục thuộc Bộ tiến hành không quá 45 ngày (trường hợp phức tạp có thể kéo dài không
quá 70 ngày); cuộc thanh tra do Thanh tra sở, Chi cục thuộc sở tiến hành không quá 30

ngày (trường hợp phức tạp có thể kéo dài không quá 45 ngày).
26


Thời hạn thanh tra chuyên ngành độc lập đối với mỗi đối tượng thanh tra là 05
ngày làm việc, trường hợp cần thiết, có thể gia hạn thêm không quá 05 ngày làm việc.
Thời hạn thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết
thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra.
d. Kết thúc thanh tra
* Báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra
Chậm nhất 15 ngày kể từ ngày kết thúc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thanh
tra viên độc lập phải có báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra gửi
người ra quyết định thanh tra.
Báo cáo kết quả thanh tra phản ánh đầy đủ những nội dung công việc đã thực
hiện, những nội dung chưa tiến hành hoặc tiến hành ngoài quyết định và kế hoạch được
duyệt, nguyên nhân; những ý kiến không thống nhất của đối tượng thanh tra hoặc của
thành viên Đoàn Thanh tra; những đề xuất về chính sách, chế độ và quản lí. Mỗi nội
dung kết luận phải nêu rõ sự việc, căn cứ đúng, sai, nguyên nhân, trách nhiệm, hình
thức xử lý, thời hạn chấp hành.
Báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra phải có đầy đủ ý kiến
tham gia bằng văn bản của các thành viên trong Đoàn Thanh tra. Ý kiến tham gia phải
khẳng định có đồng ý hay không đồng ý với báo cáo, dự thảo kết luận của Trưởng đoàn
về nội dung công việc của bản thân mình trực tiếp làm và các nội dung do người khác
thực hiện; trường hợp không đồng ý thì phải nêu rõ nguyên nhân, căn cứ.
* Kết luận thanh tra
Chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra
quyết định thanh tra xem xét nội dung báo cáo và ra kết luận thanh tra.
Trong quá trình ra kết luận, người có thẩm quyền có thể yêu cầu Trưởng Đoàn
Thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra hoặc đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ
thêm những vấn đề liên quan hoặc có thể tổ chức làm việc với đối tượng thanh tra về

dự thảo kết luận thanh tra hoặc gửi dự thảo kết luận thanh tra yêu cầu đối tượng thanh
tra trả lời bằng văn bản, nêu rõ những nội dung chưa thống nhất, nguyên nhân và
27


chứng cứ. Trường hợp cần thiết, có thể yêu cầu tiến hành thanh tra bổ sung để có đủ
căn cứ kết luận.
* Công khai kết luận thanh tra
Kết luận thanh tra phải được công khai (trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác) bằng một trong các hình thức: công bố tại cuộc họp giữa người ra quyết định
thanh tra, Đoàn Thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
hoặc tổ chức họp báo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang
thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lí nhà nước cùng cấp; niêm yết tại trụ
sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra; cung cấp theo yêu cầu của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm cung
cấp kết luận thanh tra cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khi có yêu cầu.
* Hồ sơ thanh tra và lưu giữ hồ sơ thanh tra
Tất cả các quyết định, giấy tờ, tài liệu được ban hành hoặc thu giữ trong quá
trình thanh tra phải được lưu vào hồ sơ thanh tra. Hồ sơ thanh tra phải được lưu trữ
theo quy định của pháp luật.
Hồ sơ thanh tra phải có các tài liệu sau:
- Quyết định thanh tra; biên bản thanh tra; báo cáo, giải trình của đối tượng
thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra;
- Kết luận thanh tra;
- Văn bản về việc xử lí, kiến nghị việc xử lí;
- Tài liệu khác có liên quan.
Khi tiến hành thanh tra độc lập, hồ sơ thanh tra gồm: văn bản phân công nhiệm
vụ thanh tra; biên bản thanh tra (nếu có); quyết định xử lí hoặc văn bản kiến nghị việc
xử lí; tài liệu khác có liên quan.

e. Thực hiện kết luận thanh tra

28


Đối tượng thanh tra, cơ quan quản lí nhà nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan có trách nhiệm thực hiện kết luận thanh tra. Việc thực hiện kết luận thanh tra
có thể bao gồm những hoạt động sau:
- Xử lí, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí vi phạm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân; xử lý kỉ luật cán bộ, công chức, viên chức;
- Áp dụng, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật;
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại.
1.4.2. Quy trình tổ chức hoạt động thanh tra thi
Như phần trên đã trình bày, thanh tra thi là một hoạt động trong nội dung hoạt
động của thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục; hoạt động thanh tra (ở bất kì
lĩnh vực nào) phải được diễn ra theo đúng quy trình được quy định tại Luật Thanh tra
2010. Vì vậy, quy trình tổ chức hoạt động thanh tra thi nhất thiết phải tuân thủ những
trình tự, thủ tục đã được Luật Thanh tra quy định.
Luật Thanh tra có thể gọi là khung pháp lí cơ bản trong hoạt động thanh tra; là
hành lang pháp lí đảm bảo cho hoạt động thanh tra được thực hiện. Tuy nhiên, khi tiến
hành tổ chức một hoạt động thanh tra cụ thể, người làm công tác thanh tra vừa phải
đảm bảo tính nguyên tắc, vừa phải đảm bảo tính thực tiễn. Thực tế, bên cạnh Luật
Thanh tra 2010, trong hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra còn có Quyết định số
41/2006/QĐ-BGDĐT, ngày 16/10/2006 ban hành Quy định về tổ chức và hoạt động
thanh tra các kì thi là văn bản hướng dẫn cụ thể hơn, chi tiết hơn và gần nhất với nội
dung nghiên cứu của đề tài. Vì vậy, tác giả muốn đưa ra các yếu tố cần lưu ý khi tiến
hành tổ chức hoạt động thanh tra thi.
Một là: Hình thức thanh tra thi
Thanh tra thi được tiến hành theo hai hình thức: thanh tra theo chương trình, kế

hoạch và thanh tra đột xuất. Thanh tra theo chương trình, kế hoạch được tiến hành theo
chương trình, kế hoạch đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc Giám đốc sở
giáo dục và đào tạo phê duyệt. Khi tiến hành thanh tra cần thông báo trước cho cơ quan
29


quản lí giáo dục, cơ sở giáo dục, đơn vị tổ chức thi được thanh tra. Thanh tra đột xuất
được tiến hành khi phát hiện đơn vị, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật và
các quy định về thi theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao. Trong trường đại học, hoạt động
thanh tra thi cũng được thực hiện bằng hai hình thức trên. Trong đó, kế hoạch thanh tra
phải được Hiệu trưởng phê duyệt ngay từ đầu năm học.
Hai là: Nội dung thanh tra thi
Nội dung thanh tra thi bao gồm: thanh tra công tác chỉ đạo, tổ chức thi, điều
kiện dự thi của thí sinh, hồ sơ thi, việc chuẩn bị cơ sở vật chất, lực lượng làm công tác
thi; thanh tra việc đảm bảo an toàn, bí mật trong quy trình ra đề, sao in, bảo quản, vận
chuyển đề thi, bài thi; thanh tra việc thực hiện các quy định về thi, chức trách nhiệm vụ
của các thành viên trong hội đồng coi thi, chấm thi, chấm lại bài thi, những người phục
vụ, bảo vệ khu vực thi và người dự thi; thanh tra việc thực hiện các quy định của Hội
đồng tuyển sinh, xét tuyển, cử tuyển, xét tốt nghiệp và giải quyết khiếu nại, tố cáo về
thi.
Ba là: Thẩm quyền ra quyết định và thành lập Đoàn thanh tra thi, gồm các
trường hợp sau:
- Chánh Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định thanh tra và thành lập
Đoàn thanh tra thi gồm các thành viên thuộc Thanh tra Bộ hoặc thành viên của các đơn
vị khác thuộc Bộ sau khi đã thoả thuận với Thủ trưởng các đơn vị đó. Khi xét thấy cần
thiết, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định thanh tra thi và thành lập Đoàn
thanh tra thi gồm các thành viên của các đơn vị thuộc Bộ, thành lập Đoàn thanh tra thi
do Bộ uỷ quyền để thanh tra việc chỉ đạo, tổ chức, thực hiện các qui định về thi đối với
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ sở giáo dục thuộc thẩm quyền quản

lý nhà nước của Bộ;
- Chánh Thanh tra sở giáo dục và đào tạo ra quyết định thanh tra và thành lập
Đoàn thanh tra thi gồm các thành viên thuộc Thanh tra Sở hoặc thành viên của đơn vị
khác trực thuộc Sở sau khi đã thoả thuận với Thủ trưởng các đơn vị đó. Khi xét thấy
30


cần thiết, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo ra quyết định thanh tra thi và thành lập
Đoàn thanh tra, cử cán bộ thanh tra để thanh tra việc tổ chức thi của các cơ sở giáo dục,
các đơn vị trực thuộc Sở, các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp thuộc quyền
quản lý nhà nước của tỉnh; các trường trung cấp chuyên nghiệp của trung ương đóng
trên địa bàn tỉnh.
- Giám đốc các đại học, học viện, hiệu trưởng trường đại học, cao đẳng, trung
cấp chuyên nghiệp, thủ trưởng cấp trên, thủ trưởng đơn vị tổ chức thi ra quyết định
thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra hoặc cử cán bộ thanh tra để thanh tra các kỳ thi
do đơn vị mình tổ chức.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trong chương này, trên cơ sở khoa học và cơ sở pháp lí, tác giả đã đưa ra các
khái niệm về thanh tra, kiểm tra, giám sát đồng thời so sánh các khái niệm này để có
cái nhìn chính xác về hoạt động thanh tra nói chung. Từ đó, tác giả đã nhấn mạnh đến
khái niệm thanh tra giáo dục và thanh tra thi (đây chính là đối tượng nghiên cứu của tác
giả). Thanh tra thi là một hoạt động trong nội dung hoạt động của thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực giáo dục. Xét về mặt khoa học pháp lí, ta có thể khẳng định rằng
thanh tra thi là hoạt động thanh tra của thanh tra giáo dục (thanh tra Bộ GD&ĐT, thanh
tra Sở GD&ĐT và thanh tra trong các cơ sở giáo dục đại học, trường trung cấp chuyên
nghiệp) theo hệ thống thanh tra được quy định trong Luật Thanh tra, các văn bản pháp
quy về hoạt động thanh tra trong lĩnh vực giáo dục. Xét về mặt thực tiễn, thanh tra thi
là hoạt động thanh tra được tiến hành trong các kì thi.
Ngoài ra, tác giả đã phân tích các nguyên tắc cơ bản của hoạt động thanh tra,
thanh tra thi như: nguyên tắc tuân theo pháp luật; nguyên tắc bảo đảm chính xác, khách

quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi,
đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
và nguyên tắc không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra. Đồng thời, tác giả đã nêu bật vai trò, chức năng của hoạt
động thanh tra, thanh tra thi. Qua đó, tác giả muốn khẳng định vai trò tất yếu, chức
31


năng quan trọng của hoạt động thanh tra. Điều này sẽ tác động đến người làm công tác
thanh tra; giúp người làm công tác thanh tra nhận thức đầy đủ hơn về công việc của
mình. Từ đó, người làm công tác thanh tra ra sức trao dồi chuyên môn, nghiệp vụ, tu
dưỡng đạo đức, hướng tới mục tiêu hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Hoạt động thanh tra là một hoạt động đòi hỏi tính chính xác, khách quan và
trung thực. Để đáp ứng đòi hỏi này thì người làm công tác thanh tra phải tuân thủ theo
đúng trình tự, thủ tục luật định. Vì vậy khi nghiên cứu về hoạt động thanh tra, người
làm nghiên cứu không thể không nhắc đến quy trình tổ chức hoạt động thanh tra. Trong
chương 1, tác giả đã trình bày quy định chung về trình tự, thủ tục tổ chức hoạt động
thanh tra và những vấn đề cần phải chú ý cho việc tổ chức hoạt động thanh tra một kì
thi.

32


×