Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN Tập đọc 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.38 KB, 16 trang )

Phng phỏp rốn c cho hc sinh lp 4, 5
Đặt vấn đề
I. Cơ sở lý luận
` Tập đọc là một môn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các
môn học ở Tiểu học. Biết đọc là có thêm công cụ mới để học tập, để giao tiếp.
Đây là một công cụ mà chỉ ngời biết chữ mới có. Trong môn Tiếng Việt thì phân
môn Tập đọc có khả năng thực hiện tốt các nhiệm vụ của môn Tiếng Việt đề ra
đó là: Trau dồi kiến thức ngôn ngữ, kiến thức văn học, kiến thức đời sống, rèn
luyện kỹ năng đọc, nói, viết và đặc biệt nó còn góp phần không nhỏ vào việc
giáo dục tình cảm, mĩ cảm và phát triển năng lực t duy của học sinh. Có thể nói
thiếu phân môn Tập đọc mà chỉ có phân môn Chính tả, Luyện từ và câu, Tập
làm văn, Tập viếtthì nhiệm vụ của môn Tiếng Việt khó có thể thực hiện đợc.
Tóm lại, Tập đọc là một phân môn rất quan trọng trong chơng trình
Tiếng Việt ở Tiểu học. Dạy tốt phân môn này không những rèn luyện cho học
sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển ở các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều
kiện để các em học tốt các phân môn khác ( Tập viết, Chính tả, Luyện từ và
câu, Tập làm văn.). Hơn thế nữa, dạy tốt phân môn Tập đọc sẽ giúp các em
có đợc một phơng tiện để học tập các môn học khác nh Toán, Đạo đức, Tự nhiên
và x hội, Âm nhạc, Mĩ thuật.đã ợc tốt hơn. Do vậy việc suy nghĩ, tìm chọn
những biện pháp hữu hiệu nhất góp phần nâng cao chất lợng giờ dạy của phân
môn Tập đọc là vô cùng cần thiết.
II. Cơ sở thực tiễn
Nh trên ta đ khẳng định phân môn Tập đọc có một vị trí đặc biệt quanã
trọng trong chơng trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Tuy nhiên việc dạy Tập đọc
ở Tiểu học nói chung và ở khối 4, khối 5 nói riêng cũng còn có những hạn chế,
thiếu sót; do vậy mà chất lợng giảng dạy phân môn Tập đọc cha cao.
Qua việc điều tra khả năng tập đọc văn bản của học sinh lớp tôi phụ
trách ( 4A ), ở tuần đầu tiên của năm học cho phép tôi đợc phép nêu ra kết quả
điều tra cụ thể nh sau:
1, Đọc ê a, ngắc ngứ ( tức là đọc rời vụn ra từng tiếng, sau mỗi tiếng lại
nghỉ kéo dài, không phân biệt đợc từ trong câu, hoặc có khi gặp vần khó các em


dừng lại ở giữa câu để đánh vần ) tỷ lệ mắc loại lỗi này khoảng 3 / 36 em
2, Đọc liến thoắng: có một số em lầm tởng rằng đọc thật nhanh mới là giỏi
vì vậy các em đọc liền một thôi từ đầu đến cuối, tỷ lệ loại lỗi này khoảng 4 / 36
em.
3, Đọc sai những tiếng, từ có phụ âm hay nhầm lẫn nh l n, tr ch, s x, r
d gi loại lỗi này khá phổ biến chiếm 25/ 36 em.
4, Đọc lên xuống giọng tuỳ tiện, hiện tợng này chiếm khoảng 13 / 36 em.
5, Đọc giọng đều đều: Khác hẳn với những em đọc nhát gừng, đọc liến
thoắng, các em này đọc với tốc độ vừa phải, biết ngắt nghỉ đúng dấu câu, nhng
1
Phng phỏp rốn c cho hc sinh lp 4, 5
toàn bài không biết nhấn vào những từ quan trọng, không phân biệt đợc các
loại câu, giọng đều đều buồn tẻ, không thể hiện đợc nội dung t tởng, và ý định
của ngời viết ( không đọc diễn cảm đợc) loại lỗi khá phổ biến khoảng 23 /36 em.
* Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến khả năng đọc của học sinh còn hạn chế
nh vậy?
Qua nghiên cứu điều tra cho phép tôi đợc nêu ra hai nguyên nhân chính sau
đây:
- Trong giờ tập đọc, giáo viên còn xem nhẹ khâu luyện đọc cho học sinh, do
vậy phần luyện đọc mới chỉ đợc giáo viên tiến hành một cách máy móc, hình
thức nên dẫn đến hậu quả học sinh đọc cha tốt, còn đọc diễn cảm thì càng kém.
Phải nói rằng nguồn gốc của nguyên nhân này phần lớn do giáo viên còn lúng
túng trong phơng pháp rèn đọc cho học sinh, đồng thời rèn đọc cho học sinh cha
đến nơi đến chốn.
- Giáo viên đọc mẫu không tốt, thiếu tác dụng làm mẫu và cha kích thích đ-
ợc học sinh cố gắng đọc theo theo thầy
Giải quyết vấn đề.
I. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm

Nh chúng ta đ biết, trong một giờ tập đọc ngã ời giáo viên cần phải thực

hiện các hoạt động dạy học để đạt đợc những yêu cầu cơ bản nh sau:
Hớng dẫn học sinh đọc đúng, đọc hiểu, đọc hay một văn bản. Do vậy để
[nâng cao chất lợng tập đọc của học sinh, qua nhiều lần nghiên cứu tìm chọn
biện pháp rèn đọc và đ áp dụng những biện pháp đó vào thực tế giảng dạy, tôiã
đ có một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 4, lớp 5. Sau đây,ã
tôi xin đợc trình bày nội dung kinh nghiệm của mình Kinh nghiệm có tên gọi:
Phơng pháp rèn đọc cho học sinh lớp 4 5
Trong kinh nghiệm này, tôi xin đợc trình bày các biện pháp để rèn đọc
đúng, đọc hay (đọc diễn cảm) một văn bản cho học sinh lớp 4, lớp 5.
II. Những biện pháp, giải pháp đ thực hiệnã
1, Khắc phục tình trạng đọc ê a ngắc ngứ.
Nh chúng ta đ biết chữ Tiếng Việt của chúng ta viết rời ra từng âm tiếtã
chứ không phải viết liền từng từ nh chữ một số nớc khác (Anh, Nga, Pháp..)
nhng khi đọc ta lại không đọc rời rạc từng âm tiết một mà phải đọc theo từng
cụm từ.
Ví dụ: Chị Nhà Trò đã bé nhỏ lại gầy yếu quá, ngời bự những phấn nh
mới lột. Chị mặc áo thâm dài đôi chỗ chấm điểm vàng, hai cánh mỏng nh cánh
bớm non lại ngắn chùn chùn.
Nếu tính về mặt âm tiết thì 2 câu văn trên có 38 âm tiết, 31 từ, 9 cụm từ.
Khi học sinh tập đọc không để các em đọc rời rạc từng âm tiết nh kiểu đọc nhát
2
Phng phỏp rốn c cho hc sinh lp 4, 5
gừng. Nếu để học sinh đọc theo từng từ thì vẫn cha diễn đạt đợc ý của câu văn
nên tôi phải hớng dẫn học sinh đọc theo cụm từ.
Chị Nhà Trò /đ bé nhỏ/ lại gầy yếu quá,/ ngã ời bự những phấn/ nh mới
lột./ Chị mặc áo thâm dài / đôi chỗ chấm điểm vàng,/ hai cánh mỏng nh cánh b-
ớm non / lại ngắn chùn chùn.
Cách hớng dẫn học sinh đọc theo cụm từ của tôi nh sau:
+ Tôi viết câu văn đó ra bảng phụ (đ chuẩn bị từ trã ớc )
+ Vì giai đoạn đầu lớp còn đọc yếu do vậy tôi đọc mẫu theo cách nghỉ nh

trên sao cho thật chuẩn. Sau đó tôi cho học sinh phát hiện những chỗ ngắt nghỉ
của thầy, nếu đúng tôi sẽ dùng phấn màu gạch chéo sau những từ cần ngắt.
Nếu học sinh cha phát hiện ra tôi có thể đọc mẫu lần thứ 2 những câu đó để
học sinh có thể nhận ra. Đồng thời tôi luôn củng cố kỹ năng đọc khi gặp dấu
chấm( phải nghỉ hơi), gặp dấu phẩy phải ngắt hơi. Khi đ nhận ra cách ngắtã
nghỉ sau cụm từ, sau dấu phẩy, sau dấu chấm tôi gọi một số học sinh khá đọc,
sau đó mới gọi những em hay đọc ê a ngắc ngứ lên đọc. Có thể là một lần, cũng
có thể là hai lần và phải tiến hành trong một thời gian. Tôi nghĩ hiện tợng đọc
ê a ngắc ngứ ở các em sẽ không còn xảy ra nữa.
Nhng lu ý khi còn những em đọc ê a ngắc ngứ thì phải sửa một cách triệt
để, có thể phải hớng đẫn từng cụm từ; giáo viên hoặc học sinh khá đọc mẫu
cụm từ thứ nhất sau đó cho học sinh đọc yếu đọc lại cụm từ đó rồi mới chuyển
sang cụm từ khác và cũng theo trình tự đúng nh vậy, cuối cùng cho học sinh
đọc lại cả đoạn văn đó.
+ Vậy khi học sinh đọc những câu văn dài, học sinh đ biết ngắt hơi sau cụmã
từ nhng ngắt hơi trong thời gian bao lâu thì cũng là điều cần phải hớng dẫn các
em. Thông thờng tôi hớng dẫn các em ngắt hơi sau cụm từ bằng thời gian ngắt
nghỉ khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy và đơng nhiên thời gian đó phải ít
hơn thời gian nghỉ khi đọc gặp dấu chấm. Tránh tình trạng học sinh ngắt nghỉ
quá lâu làm cho ngời nghe cảm thấy rời rạc.
Số học sinh mắc loại lỗi đọc ê a, ngắc ngứ hoặc đọc liến thoắng không nhiều
nên chỉ sau 2 tuần kiên trì rèn đọc cho các em( gọi cho các em đọc nhiều hơn,
sửa cho các em kỹ hơn) thì loại lỗi này không còn trong lớp tôi nữa, các em đọc
đ khá trôi chảy, lã u loát.
2, Khắc phục tình trạng đọc sai những tiếng, từ có phụ âm đầu hay nhầm
lẫn l- n; s- x; ch- tr; d- r- gi..
Những tiếng, những từ này thờng là những từ khó đối với học sinh cho
nên trong bớc rèn đọc đúng cho học sinh tôi cho các em đọc thầm toàn bài để tự
phát hiện ra những tiếng, từ mà học sinh cảm thấy khó có trong bài. Trong
thực tế nhiều khi giáo viên quá phụ thuộc vào sách hớng dẫn mà ép học sinh

phải chỉ ra những từ khó giống nh trong sách nêu ra là không nên bởi những
từ đó với học sinh có thể cha phải là khó. Song từ, tiếng khó đọc mà tự các em
phát hiện ra có thể là rất nhiều. Do vậy giáo viên cần kết hợp vơí việc quan sát
3
Phng phỏp rốn c cho hc sinh lp 4, 5
theo dõi của mình trong tất cả các giờ học để thấy học sinh lớp mình hay nhầm
lẫn ở những cặp phụ âm nào, vần nào để tập trung rèn cho các em những tiếng
khó, từ khó ở các loại đó.
Vídụ: ở lớp tôi, ngay từ khi mới nhận lớp, qua theo dõi trong các tiết học
và trong khi giao tiếp với học sinh tôi thấy các em còn hay nhầm lẫn giữa các
cặp phụ âm sau:
Các cặp phụ âm hay lẫn l- n x- s Ch- tr d r - gi
Tỷ lệ mắc lỗi 80.5% 25% 50% 72.2%
Tôi thấy đây không chỉ là những lỗi của các em học sinh khi đọc, khi nói
mà cả nhân dân địa phơng nơi đây cũng hay nhầm lẫn nh vậy. Do vậy trong
một giờ học, một tuần học thậm chí cả một tháng ta cũng không thể sửa ngay
cho các em tất cả các loại lỗi đó. Những lỗi mà tỷ lệ học sinh mắc ít hơn và cũng
dễ sửa hơn tôi đặt ra cho mình kế hoạch sẽ tiến hành rèn cho các em liên tục
trong 8 tuần đầu( Đó là những cặp phụ âm s x, ch tr ). Còn những cặp phụ
âm khó sửa hơn( l n), tỷ lệ học sinh mắc lỗi nhiều hơn, tôi đặt ra cho mình kế
hoạch rèn cho các em liên tục trong 3 tháng nhng sau đó phải thờng xuyên rèn
trong khi nói và khi đọc, khi viết có nh thế mới trở thành thói quen nói đúng,
viết đúng đợc.
Cách tiến hành rèn đọc đúng cho học sinh của tôi nh sau:
+ Mục đích phần rèn đọc của bài Mẹ ốm ( sách Tiếng Việt lớp 4 tập 1) tôi sẽ
tập trung rèn học sinh đọc đúng những tiếng có phụ âm đầu l- n
+ Sau khi nghe giáo viên đọc mẫu lần 1, tôi yêu cầu cả lớp đọc thầm toàn bài
( kết hợp với việc dặn học sinh chuẩn bị bài ở nhà) tìm ra những từ, tiếng khó
đọc có trong bài. Sau đó cho học sinh nêu ra, tôi lần lợt ghi lên bảng theo các
dòng riêng biệt

Ví dụ: Học sinh tìm đợc các từ khó: hôm nay, lá trầu, nắng, lặn, nóng ran,
xóm làng, sáng nay.
Tôi sẽ ghi lên bảng nh sau
l: lá trầu, lặn, xóm làng
n: hôm nay, nắng, nóng ran, sáng nay
Hỏi : Trong dòng 1 con thấy những từ đó khó đọc ở phần nào?
(khó đọc ở phần phụ âm đầu: l); giáo viên ghi âm l trớc dòng 1 bằng phấn màu
Với dòng 2 tôi cũng hỏi nh vậy và ghi âm n trớc dòng 2.
Đối với những âm này, với học sinh của tôi, tôi phải hớng dẫn học sinh
cách phát âm thật cụ thể, chi tiết.
+ Tôi hớng dẫn các em cách phát âm phụ âm l nh sau:
4
Phng phỏp rốn c cho hc sinh lp 4, 5
Phụ âm l là phụ âm tắc, khi phát âm phụ âm này, đầu lỡi cong lên tiếp
giáp với vòm lợi trên, luồng hơi bị cản lại nên phải len qua hai cạnh lỡi để thoát
ra ngoài, do vậy luồng hơi bật ra mạnh.
Giáo viên làm mẫu hai lần, sau đó cho học sinh khá phát âm, gọi học sinh
hay nhầm lẫn về phụ âm này tập phát âm. Lu ý nên cho các em phát âm cá
nhân để dễ phát hiện những em phát âm sai để sửa; tiếp theo tôi cho học sinh
đọc tiếng khó có chứa phụ âm l
Phụ âm n là phụ âm xát, khi phát âm phụ âm này mặt lỡi tiếp giáp với
vòm lợi trên, luồng hơi không bị lỡi cản lại nên thoát ra nhẹ nhàng hơn. Cách
tiến hành cũng nh hớng dẫn phát âm phụ âm l
Để học sinh có đợc thói quen phát âm đúng tôi yêu cầu học sinh phát âm
và đọc theo kiểu đối nhau: đó là l- n; lá trầu- nóng ran, xóm làng- nóng ran,
nắng- lặn
Đa ra cách rèn nh vậy là tôi muốn cho học sinh có phản ứng nhanh nhạy
để tìm ngay ra đợc cách đọc đúng những từ có chứa các cặp phụ âm hay nhầm
lẫn.
Nếu chỉ rèn nh vậy thì cũng cha đủ mà việc luyện đọc từ khó cần phải đợc

đặt trong văn cảnh, trong môi trờng ngôn ngữ thì học sinh đọc những từ đó mới
đúng hơn bởi nhiều khi đọc riêng từ học sinh có thể đọc đúng nhng khi đặt từ
đó vào trong câu văn, đoạn văn thì cha chắc học sinh đ đọc đúng. Chính vì thếã
mà sau khi rèn phát âm luyện đọc từ khó có chứa âm khó tôi lại phải yêu cầu
học sinh tìm những câu văn, câu thơ thậm chí đoạn văn, đoạn thơ có chứa từ
khó đó cho học sinh đọc vì mục đích của rèn đọc đúng là rèn phát âm đúng để
đọc đúng văn bản.
Một số đồng chí giáo viên có hỏi: Trong một giờ Tập đọc nếu chỉ tập trung
hớng dẫn đọc những từ có chứa phụ âm l- n thì những tiếng khó khác rèn vào
lúc nào?
Tôi khẳng định: Một cặp phụ âm hay nhầm lẫn l- n và nó đ trở thành cốã
tật không chỉ ở học sinh mà cả nhân dân đĩa phơng nếu trong một tiết Tập đọc
có chủ định rèn cho học sinh về cặp phụ âm đó mà không thực hiện kĩ càng nh
vậy thì không thể đạt đợc cái đích đ đặt ra. Còn những từ khó khác ta có thểã
hớng dẫn các em đọc từ đó theo trình tự: giáo viên hoặc học sinh khá đọc mẫu
sau đó gọi học sinh yếu kém đọc lại
Rèn cho học thói quen đọc đúng những từ có các phụ âm mà học sinh hay
nhầm lẫn là một việc làm không đơn giản. Bản thân một mình phân môn Tập
đọc cũng khó có thể giải quyết đợc. Do vậy, theo tôi trong tất cả các giờ học và
trong bất kỳ hoàn cảnh giao tiếp nào tôi và lực lợng nòng cốt của tôi gồm 20%
học sinh không mắc lỗi sẽ giúp các em sửa ngay, có nh thế mới giải quyết đợc
vấn đề. Với những cặp phụ âm còn lại tôi cũng tiến hành rèn cho học sinh lần
lợt theo từng bớc nh vậy. Đến nay, năm học đ tiến hành đã ợc gần 3 tháng thì
5
Phng phỏp rốn c cho hc sinh lp 4, 5
mức độ sai những từ có phụ âm hay nhầm lẫn nh đ nêu ra ở trên đ giảm rõã ã
rệt
Các cặp phụ âm hay lẫn l- n x- s Ch- tr d r - gi
Tỷ lệ mắc lỗi 11.1% 5.5% 13.8% 11.1%
Từ kinh nghiệm của những năm học trớc, tôi tin tởng rằng trong hơn một

tháng của học kỳ 1 tôi sẽ giải quyết triệt để các lỗi còn lại
3. Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tuỳ tiện
Theo tôi, muốn khắc phục tình trạng lên xuống giọng tuỳ tiện thì giáo
viên phải hớng dẫn thật tốt cách đọc các kiểu câu:
Câu kể ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thờng phải xuống giọng ở cuối câu.
Câu hỏi ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phải lên giọng ở cuối câu.
Câu kể có dấu chấm lửng khi đọc phải kéo dài giọng.
Câu cảm, câu cầu khiến ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần phải lên
giọng ở cuối câu.
Ví dụ: Trong bài Chú Đất Nung ở sách Tiếng Việt lớp 4 tôi hớng dẫn
học sinh cách đọc các loại câu này nh sau:
+ Chép đoạn văn đó lên bảng phụ
+ Hỏi học sinh trong đoạn văn đó có những câu văn nào là câu hỏi, câu kể,
câu cảm, câu cầu khiến và cách đọc của từng loại câu này, giáo viên dùng phấn
mầu ghi ký hiệu lên giọng xuống giọng ở cuối mỗi loại câu
Ông Hòn Rấm cời bảo: (câu kể)
- Sao chú mày nhát thế ? ( câu hỏi). Đất có thể nung trong lửa cơ mà! ( câu
cảm)
Chú bé đất ngạc nhiên hỏi lại: ( câu kể )
- Nung ấy ạ? ( câu hỏi)
- Chứ sao? . Đ là ngã ời thì phải dám xông pha, làm đựoc nhiều việc có ích.
( câu kể)
Nghe thế, chú bé Đất Nung không thấy sợ nữa. ( câu kể ). Chú vui vẻ
bảo:( câu kể )
- Nào, nung thì nung! ( câu kể )
Từ đấy chú thành đất nung. ( câu kể )
Sau đó tôi hoặc học sinh khá đọc mẫu theo cách đọc đó rồi cho học sinh
nhất là những em yếu kém luyện đọc với số lợng từ 7 8 em. Việc làm này phải
đợc tiến hành thờng xuyên khi gặp những bài Tập đọc có các kiểu câu nh vậy,
có nh thế mới hình thành đợc thói quen đọc đúng. Sau khoảng thời gian 1

tháng số học sinh mắc lỗi này đ giảm chỉ còn 1/36 em.ã
4. H ớng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×