Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Giải đề thi Kỹ năng tư vấn môn Dân sự lớp Luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.96 KB, 98 trang )

GIẢI ĐÊ THI DÂN SỰ
Mã số: LS.DS/TN-01/240
-----------------*--------------Chị Trần Thị Thúy và anh Trần Văn Vĩnh yêu thương nhau và quyết định tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự
nguyện, được gia đình hai bên thừa nhận. Anh chị có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Biển Bạch, nơi
cư trú của chị Thúy cấp giấy đăng ký kết hôn vào ngày 15/5/1998.
Ngày cưới, cha mẹ chồng (cha mẹ anh Vĩnh) cho anh chị nữ trang gồm:
- 04 chỉ vàng 24k;
- 01 đôi bông tai bằng 2 chỉ vàng 9k;
Cha mẹ ruột chị Thúy cho vợ chồng chị 01 chỉ vàng 24k;
Ngoài ra, vợ chồng chị Thúy cũng tự tạo lập được 5 chỉ vàng 24k.
Toàn bộ tài sản này, sau ngày cưới, vợ chồng chị Thúy đã tiêu xài hết, chỉ còn lại đôi bông tai hiện tại chị
Thúy vẫn đang sử dụng và quản lý.
Hai vợ chồng có một con chung là Trần Anh Thư sinh ngày 18/6/1999, hiện cháu đang ở với mẹ.
Trước khi lấy nhau, anh Vĩnh được cha mẹ ruột cho một phần đất gồm 7 công đất nông nghiệp tọa lạc tại
ấp N, xã T, huyện H, tỉnh C. Sau ngày cưới, hai vợ chồng tiếp tục quản lý, sản xuất trên số công đất này.
Một năm sau, vào năm 1999, vợ chồng anh Vĩnh được bố mẹ cho ở riêng, cha mẹ chồng tuyên bố cho vợ
chồng anh Vĩnh số đất nói trên. Sau đó, anh chị đã xây dựng một căn nhà trên diện tích đất này, phần còn lại, hai
vợ chồng tiếp tục canh tác. Năm 2000, anh chị được Ủy ban nhân dân cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với thửa đất đang sử dụng, với diện tích là 11.190 m 2 tờ bản đồ số 21, thửa số 38, tọa lạc tại ấp N, xã T, huyện H,
tỉnh C.
Về tình cảm, hai vợ chồng hiện tại sống ly thân, nguyên nhân là do vợ chồng thường xuyên cãi vã mất
hạnh phúc. Theo chị Thúy thì anh Vĩnh có tính ghen tuông rồi đánh đập chị. Vợ chồng thường xuyên bất đồng
quan điểm, dẫn đến mục đích hôn nhân không đạt được. Sau nhiều lần được địa phương, gia đình hòa giải mà
không được. Ngày 2/tháng 5/X anh Vĩnh và chị Thúy quyết định yêu cầu Tòa án cho họ thuận tình ly hôn. Nếu
anh Vĩnh, chị Thúy nhờ anh, chị tư vấn.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Vấn đề gì mà anh, chị thấy cần thiết phải trao đổi với anh Vĩnh, chị Thúy?
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Trên cơ sở này, hãy giúp anh Vĩnh, chị Thúy viết đơn yêu cầu gửi Tòa án.
Tình tiết bổ sung
Sau khi thụ lý yêu cầu thuận tình ly hôn, qua xác minh, Tòa án được biết anh Vĩnh và chị Thúy kết hôn


năm 1998, có đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, tại Tòa án, chị Thúy cung cấp thêm thông tin là trước khi kết hôn với
chị Thúy, anh Vĩnh đã đăng ký kết hôn với chị Hồng - (một người cùng xã với anh Vĩnh). Hai người đã có đăng ký
kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của anh Vĩnh. Gia đình hai bên cũng có đi lại theo đúng phong tục ở
địa phương và định ngày cưới cho đôi trẻ. Trước ngày cưới, do hiểu lầm giữa hai gia đình, nên gia đình chị Hồng
không cho tổ chức lễ cưới, buộc chị Hồng phải trả lại trầu cau dạm hỏi. Sau sự kiện này, chị Hồng bỏ đi khỏi địa
phương. Anh Vĩnh cũng đã tìm kiếm chị Hồng nhưng không được. Hai năm sau, anh Vĩnh gặp chị Thúy. Hai
người đem lòng yêu nhau và sau đó đi đến hôn nhân. Sau khi cưới, anh Vĩnh và chị Thúy đã đi đăng ký kết hôn
đúng thủ tục tại Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của chị Thúy. Khi yêu nhau cũng như khi cưới, chị Thúy có biết
chuyện của anh Vĩnh trước khi gặp chị, nhưng cho rằng giữa anh Vĩnh và chị Hồng chưa làm lễ cưới, chưa chung
sống với nhau nên chị Thúy cũng không quan tâm.
Anh Vĩnh thừa nhận sự việc đúng như chị Thúy đã trình bày. Theo anh Vĩnh thì anh và chị Hồng đã đăng
ký kết hôn, nhưng thực tế hai người chưa chung sống với nhau, chưa là vợ chồng. Việc này địa phương anh cũng
biết rõ nên khi anh làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị Thúy thì địa phương không gây khó khăn gì cho anh
Vĩnh.
Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T, nơi cư trú của anh Vĩnh, Tòa án được biết vào năm 1995, anh Trần
Văn Vĩnh có làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị Nguyễn Thị Hồng.
Anh Vĩnh cho biết, sau khi kết hôn do không chung sống với nhau nên anh Vĩnh và chị Hồng cũng không
làm thủ tục ly hôn tại Tòa án.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Với tình tiết này, quan hệ hôn nhân giữa anh Vĩnh và chị Thúy sẽ được giải quyết theo thủ tục nào?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Trong trường hợp đó, việc thuận tình ly hôn đã được Tòa án thụ lý sẽ được giải quyết thế nào?
Tình tiết bổ sung
Về con, anh Vĩnh đồng ý với chị Thúy là nếu ly hôn, chị Thúy sẽ nuôi con là Trần Anh Thư, anh Vĩnh có
trách nhiệm cấp dưỡng.
Về tài sản, anh Vĩnh thừa nhận căn nhà trị giá 55.000.000 đồng là tài sản chung của vợ chồng. Anh Vĩnh
đồng ý nếu ly hôn, căn nhà sẽ chia đôi, mỗi người sử dụng một nửa căn nhà. Về thửa đất 11.190 m 2 là tài sản của
cha mẹ anh cho riêng anh Vĩnh từ năm 1997. Khi anh Vĩnh và chị Thúy xây nhà ở riêng thì cha mẹ anh cho anh
với chị Thúy để hai người quản lý, sản xuất tạo lập cuộc sống của vợ chồng cũng như cho con cái sau này. Nay chị
1



Thúy có yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý, riêng về thửa đất thì anh không đồng ý chia cho chị Thúy theo yêu cầu của
chị Thúy mà anh sẽ trả lại đất cho bố mẹ.
Các khoản nợ chung anh chị nợ: chị Nguyễn Thị Tho 02 chỉ vàng 24k, chị Thúy có trách nhiệm trả. Khoản
nợ ông Đùm: 1,5 chỉ vàng 24k, anh Vĩnh có trách nhiệm trả.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) đối với tài sản chung của vợ chồng anh Vĩnh, chị Thúy?
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Thỏa thuận về nuôi con và tranh chấp về tài sản giữa anh Vĩnh, chị Thúy có được giải quyết luôn cùng với
quan hệ hôn nhân giữa hai người hay không?
Tình tiết bổ sung
Quá trình Tòa án đang giải quyết vụ việc giữa anh Vĩnh và chị Thúy, Tòa án nhận được một đơn đề nghị
của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện H, tỉnh C. Theo đơn của Ngân hàng thì ngày 9/8/X-2
Ngân hàng có cho anh Trần Văn Vĩnh vay số tiền 85.000.000 đồng, lãi suất trong hạn là 1%, lãi suất quá hạn là
1,5%/tháng, thời hạn vay tính đến ngày 9/8/X, bằng hình thức thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M660711, tờ bản đồ số 21 thửa sổ 38 có diện tích 11.190 m 2, do chị Trần Thị Thúy và anh Trần Văn Vĩnh đứng tên
chủ sử dụng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Yêu cầu đòi nợ của Ngân hàng có được giải quyết trong vụ việc giữa anh Vĩnh và chị Thúy mà Tòa án
đang giải quyết hay không?
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Nếu anh Vĩnh, chị Thúy đồng ý giải quyết luôn khoản nợ ngân hàng trong vụ án thì Tòa án có giải quyết
được không?
Tình tiết bổ sung
Về yêu cầu của Ngân hàng, chị Thúy cho biết chị có biết việc vay tiền Ngân hàng của anh Vĩnh, nhưng đó
là việc anh Vĩnh vay tiền giúp cha của anh Vĩnh là ông Đùm để mua máy cày sản xuất riêng chứ không phải phục
vụ cho cuộc sống chung giữa chị Thúy và anh Vĩnh. Theo chị Thúy, chị không có trách nhiệm đối với khoản nợ
này.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Quan điểm của anh, chị về việc xác định ai là người phải trả nợ cho Ngân hàng?

Tình tiết bổ sung
Về khoản nợ, anh Vĩnh cũng thừa nhận sự việc đúng như lời khai của chị Thúy, anh Vĩnh nhận trách
nhiệm trả khoản nợ này cho ngân hàng và chị Thúy không phải có trách nhiệm đối với khoản nợ.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Trình bày lập luận của anh (chị) về việc giải quyết yêu cầu đòi nợ của ngân hàng?
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
Tóm tắt hồ sơ----------------------------------------------------------------------------------:
-Chị Thúy đăng ký kết hôn A Vĩnh 5/1998.Có 1 con chung năm 1999.Năm 1999 bố mẹ chồng cho đất,anh chị làm
nhà,năm 2000 được cấp GCNQSDD
-A Vĩnh ghen,đánh vợ,sống ly thân,hòa giải không được.2/5/X xin thuận tình ly hôn
Câu 1-Cần thiết phải trao đổi vấn đề gì với A nh Chị-----------------------------------Tìm hiểu yêu cầu của khách hàng,cần gì?Muốn gì? Để giúp họ thực hiện quyền tự định đoạt của mình.
-Căn cứ yêu cầu khách hàng,LS xác định trường hợp Anh Chị là :Thuận tình ly hôn(đ 90 LHNGD),nên tiếp tục thỏa
thuận hoặc tranh chấp tại Tòa án về chia tài sản (đ 95-97-98 LHNGD) và nuôi con. (điều 92 LHNGD)
- Xác định thu nhập,điều kiện riêng về yêu cầu cấp dưỡng
-Hướng dẫn về thủ tục :Nếu tranh chấp nuôi con,tài sản thì LS hướng dẫn các bên thu thập chứng cứ xác định tình
trạng hôn nhân qua phản ánh của cha ,mẹ,cơ quan…
Câu 2- Viết đơn yêu cầu ly hôn gởi Tòa án:
----------------------------------------------------------------------------------------------------CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
ĐƠN
Kính gửi:

XIN

LY

Tòa án Nhân dân Quận ………. -Tp H

Chúng tôi đồng ký tên yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn:
1- Chồng :


Sinh ngày / /

tại
2

HÔN


CMND
Hộ khẩu thường trú tại
2 -Vợ :
CMND
Hộ khẩu thường trú tại
Địa chỉ liên lạc hiên nay:

do Công An

cấp ngày

Sinh ngày / /
do Công An

tại
cấp ngày /

/

/


/

ĐT

3 - Trường hợp hôn nhân:
* Chúng tôi là đã đăng ký kết hôn từ năm …… tại UBND phường … quận ………… Tp H.
* Trong thời gian hôn nhân,vợ chồng chúng tôi sinh sống tại ………..Phường .. ………….. Tp H .
4- Yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn
- Xét thấy tình trạng hôn nhân của gia đình chúng tôi ngày càng trầm trọng ,đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích hôn nhân không đạt được,nên đồng ý cùng làm đơn: yêu cầu Tòa án giải quyết việc chúng tôi thuận tình xin ly hôn
- Thực tế cả hai chúng tôi đã sống ly thân từ năm …….. đến nay
- Khi ly hôn: việc nuôi con ,việc chia tài sản và thanh toán các nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng do chúng tôi tự thỏa
thuận với nhau,nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Làm tại ……………. ngày
tháng năm
Người làm đơn
Chồng
Vợ
Câu 3:Tình tiết bổ sụng:Trước khi kết hôn với Chị Thúy năm 1998 tại xã BB(nơi cư trú chi Thúy),Anh Vĩnh đã từng làm
đăng ký kết hôn (nhưng không sống chung)với chị Hồng vào năm 1995 tại xã T (nơi cư trú A Vĩnh).Hỏi quan hệ hôn
nhân Chị Thúy-Anh Vĩnh sẽ giải quyết theo thủ tục nào?
------------------------------------------------------------------------------------------------------Anh Vĩnh kết hôn chị Thúy năm 1998-thuộc thời điểm áp dụng hiệu lực của Luật HNGD 1986.
-Điều 8 LHNGD 1986 qui định :Việc kết hôn do UBND xã phường công nhận..mọi nghi thức kết hôn khác đều không có
giá trị pháp lý.Nên giữa Anh Vĩnh và chị Hồng ,tuy không tổ chức đám cưới và không sống chung,nhưng có đăng ký kết
hôn nên là hôn nhân được pháp luật công nhận.
-Điều 7-khoản a LHNGD 1986 qui định:Cấm kết hôn trong trường hợp đang có vợ có chồng.Nên việc Anh Vĩnh – kết
hôn sau với chị Thúy là trái pháp luật.
-Diều 9 LHNGD 1986 qui định:Một trong hai bên có quyền yêu cầu Tòa án Nhân dân hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Nên quan hệ hôn nhân chị Thúy với Anh Vĩnh giải quyết theo thủ tục việc dân sự:Tòa án ra QD hủy việc kết hôn trái
pháp luật theo yêu cầu của Anh Vĩnh hoặc Chị Thúy.

Câu 4:Việc thuận tình ly hôn sẽ được Tòa án giải quyết như thế nào?
-Do Tòa án xác minh kết hôn trái pháp luật,nên theo BLTTDS (hiệu lực từ 01/01/2005 )Thẩm phán ra quyết định không
chấp nhận yêu cầu việc dân sự về thuận tình ly hôn (đ 314 và 315 BLTTDS).Đồng thời Thầm phán sẽ ra quyết định hủy
việc kết hôn trái pháp luật vào năm 1998.
Câu 5:Tình tiết bổ sung: Khi ly hôn,Anh Vĩnh đồng ý cấp dưỡng để chị Thúy nuôi con.Nhà là tài sản chung.Đất trả lại bố
mẹ chồng.Nợ chung chia hai.Hỏi quan điểm đối với tài sản chung của vợ chồng Vĩnh-Thúy?
-Về đất:năm 2000 Anh Chi được cấp GCN QSDD nên thuộc hiệu lực LDD 1993 –sdbs 1998. Thời điểm đó,đất đai
thuộc sở hữu toàn dân ,Hộ gia đình sử dụng đất ở vì lý do chuyển đi hay không còn nhu cầu ở mới được chuyển nhượng
QSDD ( đ 75 LDD 1993 ) ,nên việc trả lại đất cho cha mẹ chồng là điều không có căn cứ pháp luật.
Theo đ118 BLDS 1995 :Quyền sữ dụng đất hợp pháp của hộ gia đình cũng là tài sản chung của hộ.
-Căn nhà là tài sản chung của hai vợ chồng,nên chia hai.
Câu 6:Thỏa thuận nuôi con và tranh chấp tài sản có được giải quyết luôn với quan hệ hôn nhân không?
- Khi hủy việc kết hôn trái pháp luật(đ 9 LHNGD 1986)
+Tài sản giải quyết theo nguyên tắc: Tài sản riêng của ai thuộc quyền sở hữu người ấy.Tài sản chung được chia
theo công sức mỗi bên.Quyền lợi chính đáng bên bị lừa dối (chị Thúy) được bảo vệ.
+Quyền lợi của con giải quyết như ly hôn.
Nên Tòa án khi ra quyết định hủy việc kết hôn sẽ giải quyết luôn tài sản và thỏa thuận nuôi con
Câu 7:Tình tiết bổ sung:Tòa án nhận đơn đòi nợ của Ngân hàng do trước đây Anh Vĩnh vay 85 triệu có thế chấp
GCNQSDD.
Hỏi yêu cầu đòi nợ của Ngân hàng có được Tòa án giải quyết cùng lúc với quan hệ hôn nhân không?
-Quan hệ hôn nhân Tòa giải quyết theo thủ tục của việc dân sự bằng QD hủy việc kết hôn trái pháp luật
3


-Yêu cầu đòi nợ của Ngân hàng vì có tính tranh chấp nên được Tòa án giải quyết theo trình tự xét xử vụ án dân sự.
Do thủ tục tố tụng khác nhau,nên Tòa án không giải quyết 2 thủ tục cùng một lúc được
-----------------------------------------------------------------------------------------------------Câu 8:Nếu Anh Vĩnh chị Thúy đồng ý giải quyết luôn khoản nợ Ngân hàng trong vụ án thì Tòa án có giải quyết
được không?
- Hợp đồng vay tiền năm X-2 thuộc hiệu lực áp dụng BLDS 1995,khoản 2 điều 117 BLDS 1995 qui định:Giao dịch dân
sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập ,thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền ,nghĩa vụ của cả hộ

gia dình.Do đó,khoản nợ của Ngân hàng có thể được Tòa án giải quyết cùng với quyết định hủy hôn,trong phần quyết
định chia tài sản,nếu Anh Vĩnh Chị Thúy có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cấn trừ khoàn nợ Ngân hàng theo thủ tục việc
dân sự.
Câu 9:Tình tiết bổ sung: Chị Thúy cho biết:Việc vay tiền là mua máy cày cho cha anh Vĩnh,chị không có trách nhiệm
khoản nợ Ngân hàng.
Quan điểm ai là người trả nợ Ngân hàng?
-Nếu chi Thúy chứng minh được việc anh Vĩnh vay tiền không vì lợi ích chung của gia đình thì không phát sinh nghĩa
vụ trả nợ của chị (k2 đ117 BLDS 1995)
Câu 10:Tình tiết bổ sung:Anh Vĩnh thừa nhận trách nhiệm trả nợ ngân hàng.Lập luận về việc giải quyết yêu cầu đòi nợ
của Ngân hàng?
-Anh Vĩnh thừa nhận trách nhiệm trả nợ Ngân hàng,nên là nợ cá nhân.
-Diều 15 LHNGD 1986 qui định:Việc thực hiện giao dịch có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thỏa
thuận của vợ chồng.Nên việc một mình Anh Vĩnh ký HD vay thế chấp cả căn nhà là cơ sở để Tóa án tuyên vô hiệu phần
thế chấp của Hợp đồng vay .Do đó, Ngân hàng nên chờ Tòa án ra quyết định hủy hôn,chia ½ căn nhà cho anh Vĩnh,Tòa
mới có yêu cầu Anh Vĩnh bán nhà trả nợ,hoặc kiện đòi phát mãi tài sản thế chấp.
Mã số: LS.DS/TN-02/240
-----------------*--------------Theo đơn trình bày của chị Chiêm Thị Thanh Tâm, sinh năm 1967 thì năm 1990, chị và anh Trần Đình
Thạch cùng cư trú tại tổ 1, ấp 1, xã Nha Bích, huyện B, tỉnh T được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo đúng
phong tục, tập quán tại địa phương.
Sau khi lấy nhau, hai người được bố mẹ cho đất làm nhà ở riêng. Năm 1992, anh chị sinh con đầu lòng là
cháu Trần Đình Long. Một năm sau, do lỡ kế hoạch, chị Tâm sinh cháu thứ hai là Trần Thu Hoa. Do sinh con quá
gần nhau, sức khỏe chị Tâm ngày càng yếu, con cái lại thường xuyên đau ốm nên kinh tế gia đình sa sút. Nương
rẫy, ruộng vườn cũng được đầu tư trồng cây, hết củ mì, đến trồng mía, nhưng một phần do thiên tai, phần khác là
do các nhà máy chế biến không bán được sản phẩm nên không thu mua nguyên liệu càng đẩy cuộc sống của vợ
chồng vào hoàn cảnh khó khăn. Năm 1997, anh Thạch nói với chị Tâm là anh cần phải lên thành phố tìm việc
kiếm sống cho gia đình. Mặc dù chị Tâm không muốn nhưng hoàn cảnh gia đình không thể khác được. Một hai
năm đầu, anh Thạch cũng có một vài lần về thăm gia đình. Sau đó từ năm 1999 đến nay, chị Tâm không thấy anh
Thạch về nhà nữa. Chị Tâm cũng đã gửi con cho ông bà nội trông để lên thành phố tìm chồng nhưng không tìm
được.
Tháng 5 năm X, chị Tâm có đơn xin ly hôn gửi Tòa án B, tỉnh T. Theo chị Tâm, là phận gái từ khi cưới cho

đến ngày hai vợ chồng có hai con chung, rồi anh Thạch ra đi, sự chờ đợi của chị cũng có giới hạn. Xét thấy anh
Thạch vô trách nhiệm với vợ con, không có thiện ý xây dựng hạnh phúc gia đình, chị Tâm tha thiết đề nghị Tòa
án cho chị được ly hôn với anh Thạch theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy cho biết điều kiện quan trọng nhất để Tòa án có thể thụ lý yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm?
Tình tiết bổ sung
Năm 2003, chị Tâm nghe có người nói gặp anh Thạch ở Campuchia, anh Thạch nói anh đang tìm đường
để đi định cư ở Mỹ hoặc ở một nước nào đó. Từ đó đến nay chị Tâm không có bất kỳ một tin tức nào của anh
Thạch. Cũng vì không có tin tức gì của con, bố mẹ anh Thạch cũng đã tuyên bố từ anh Thạch, không coi anh
Thạch là con nữa. Hiện tại không ai biết anh Thạch đang ở đâu, ở Việt Nam hay ở nước ngoài.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Nếu được tư vấn cho chị Tâm trước khi khởi kiện yêu cầu ly hôn, anh (chị) có thể tư vấn cho chị Tâm như
thế nào?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Trên cơ sở này, giúp chị Tâm làm đơn yêu cầu gửi Tòa án?
Tình tiết bổ sung
Xác minh của Tòa án được biết những thông tin mà chị Tâm trình bày là đúng sự thật. Năm 1997, anh
Thạch bỏ đi khỏi địa phương và từ đó đến nay không có tin tức gì. Bản thân bố mẹ đẻ của anh Thạch hiện cũng
không biết chính xác anh Thạch đang ở đâu vì anh Thạch cũng không có liên hệ với bố mẹ. Năm 2003, gia đình
anh Thạch cũng có nhận được tin đồn hình như anh Thạch đã vượt biên ra nước ngoài. Còn chính thức thế nào
thì vợ con, bố mẹ anh Thạch đều không có tin tức gì.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
4


Hãy cho biết quy định của pháp luật về việc giải quyết những yêu cầu của chị Tâm?
Tình tiết bổ sung
Sau khi trao đổi, chị Tâm đồng ý với những trao đổi của anh (chị) và đề nghị anh (chị) bảo vệ quyền lợi
của chị Tâm.
Câu hỏi 5: (1 điểm)

Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, anh (chị) hãy xác định những thủ tục cần thiết để yêu cầu
Tòa án giải quyết yêu cầu của chị Tâm?
Tình tiết bổ sung
Sau ba mươi lăm ngày, kể từ ngày thông báo tìm người mất tích được công bố trên đài truyền hình, bố đẻ
của anh Thạch là ông Trần Văn Quyết đến Tòa án trình bày: Do con ông là Trần Thạch đã bỏ nhà đi từ năm 1997,
để lại một vợ và hai con cùng bố mẹ già. Thất vọng vì không nhận được tin tức của anh Thạch, ông bà đã nhiều
lần tuyên bố từ anh Thạch. Việc chị Tâm gửi đơn xin ly hôn anh Thạch và yêu cầu Tòa án tuyên bố anh Thạch
mất tích, ông bà cũng biết và không có ý kiến gì, chỉ đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Tuy nhiên, sau khi
Tòa án có thông báo tìm kiếm người mất tích thì gia đình có nhận được tin tức của anh Thạch. Cách đây một
ngày, anh Thạch gọi điện về nhà một người quen, nhắn rằng hiện tại anh đã định cư tại Canada và đang làm thủ
tục xin về thăm gia đình. Khi đó anh sẽ ra trình diện tại Tòa án. Ông Quyết và gia đình cũng chỉ nghe người quen
nói lại, hiện tại gia đình cũng chưa liên hệ được với anh Thạch và anh Thạch cũng chưa liên hệ với gia đình vì gia
đình ông không có điện thoại. Nhưng ông Quyết cho biết, anh Thạch sẽ liên hệ ngay với Tòa án trong một ngày
gần đây.
Ngay sau khi có thông tin trên, Tòa án đã thông báo cho chị Tâm và yêu cầu chị Tâm rút lại yêu cầu tuyên
bố một người mất tích.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với quan điểm giải quyết của Tòa án hay không?
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Trong trường hợp khách hàng của anh (chị) cũng như bản thân anh (chị) không đồng ý với cách giải quyết
của Tòa án, anh (chị) phải làm gì?
Tình tiết bổ sung
Tháng 8/X, Tòa án nhận được thư viết của anh Thạch, gửi từ Canada. Trong thư, anh Thạch cho Tòa biết
hiện tại anh đang làm thủ tục xin về thăm gia đình, đoàn tụ cùng vợ con. Về phía chị Tâm, chị cho biết chị cũng có
nhận được tin tức về anh Thạch, nhưng chỉ là nghe nói chứ chưa được trực tiếp nhận thông tin từ anh Thạch. Chị
cho biết do anh Thạch đã bỏ rơi mẹ con chị trong nhiều năm, tình cảm và cuộc sống của chị đã bị thương tổn quá
nhiều, vì vậy chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn của mình với anh Thạch.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu tuyên bố người mất tích và yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm cần được giải quyết thế
nào về mặt thủ tục là tốt nhất cho chị Tâm?

Tình tiết bổ sung
Thái độ của chị Tâm khi biết tin về anh Thạch làm nhiều người bất ngờ. Tìm hiểu thì được biết, sau nhiều
năm tìm và chờ đợi chồng mà không có tin tức, thời gian gần đây, chị Tâm có một người bạn trai. Người đàn ông
này đã giúp đỡ mẹ con chị nhiều và chị đã quyết định gắn bó cuộc đời mình với người đàn ông mới. Có ý kiến cho
rằng, với tình tiết này, chị Tâm khó có thể xin ly hôn được với anh Thạch, nhất là thời điểm này đã có tin tức về
anh Thạch.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến trên hay không?
Tình tiết bổ sung
Vào ngày Tòa án mở phiên tòa giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm, anh Thạch về nước và cũng có
mặt tại phiên tòa. Anh Thạch tha thiết đề nghị Tòa án giúp anh được đoàn tụ với vợ con. Phía chị Tâm vẫn kiên
quyết xin ly hôn.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày những lập luận để bảo vệ quyền lợi cho chị Tâm?
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
Mã số LS.DS/TN 02-240
Tóm tắc hồ sơ:
-Chị Tâm làm đám cưới với Anh Thạch năm 1990.Từ 1999 Anh Thạch đi biệt tích không về nhà,gia đình tìm không
được.Tháng 5/X chị Tâm có đơn ly hôn.
-------------------------------------------------------------------------------------------------Câu 1:Điều kiện quan trọng nhất để TA thụ lý yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm?
-Thời điểm anh Thạch đi biệt tích thuộc hiệu lực BLDS 1995
-Khoản 1-Điều 88 BLDS 1995 qui định: Khi một người biệt tích hai năm mà không có tin tức,Tòa án có thể tuyên bố
người đó mất tích.
-Khoản 2 Điều 88 BLDS 1995:Vọ người tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án cho ly hôn.
5


Vậy,điều kiện quan trọng nhất để TA thụ lý yêu cầu ly hôn của chị Tâm là Anh Thạch biệt tích hơn 2 năm, đã áp dụng các
biện pháp thông báo tìm kiếm .Chị Tâm là người có quyền và lợi ích liên quan có quyền yêu cầu TA tuyên bố chồng mất
tích và xin ly hôn

Câu 2:Không ai biết Anh Thạch đang ở đâu.Anh Chị Tư vấn gì cho chị Tâm trước khi khởi kiện?
-Chị Tâm viết đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm chồng vắng mặt tại nơi cư trú (đ324 BLTTDS)
-Tòa án có quyết định chấp nhận yêu cầu và ra thông báo tìm kiếm
-Công bố thông báo tìm kiếm người vắng mặt (đ328 BLTTDS)
-Chị Tâm phải viết đơn yêu cầu TA tuyên bố chồng bi mất tích (đ330 BLTTDS)
-Chờ TA thực hiện thông báo tìm kiếm trong 4 tháng (đ331 BLTT)
-Chờ TA mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố mất tích (đ332BLTTDS )
-Khi có quyết định TA tuyên bố anh Thạch mất tích,chị Tâm mới có đủ cơ sở pháp lý nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly
hôn được.
Câu 3:Giúp chị Tâm làm yêu cầu gửi Tòa án? (Đơn yêu cầu đ 312 BLTTDS)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
Đ Ơ N Y Ê U C Ầ U GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
Kính gủi: Tòa án Nhân dân . . . . . . . . . . .
Tôi tên
CMND
do Công An
Hiện đang thường trú tại
Nay làm đơn yêu cầu Tòa án Nhân dân
Lý do

cấp ngày
xem xét giải quyết việc

Tên và địa chỉ người có liện quan (Nếu có)
Các thông tin khác
Ngày tháng năm
Người làm đơn yêu cầu
Tài liệu chứng cứ gủi kèm theo đơn
Câu 4:Tình tiết bổ sung:Tòa án xác minh sự thật Anh Thạch bỏ đi khỏi địa phương năm 1997.Vợ con không biết tin tức

gì,có tin đồn Anh đi vượt biên.
Cho biết qui định pháp luật vể việc giải quyết những yêu cầu của chị Tâm?
-Viện dẫn điều 88 BLDS 1995 về tuyên bố Anh Thạch mất tích
Câu 5:Xác định thủ tục cần thiết yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu chị Tâm?
-Thủ tục yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú
+Đơn yêu cầu tìm kiếm
+Tài liệu chứng cứ chứng minh Anh Thạch biệt tích 6 tháng trở lên như Xác nhận tình trạng người vắng
mặt tại nơi cư trú..
-Thủ tục yêu cầu tuyên bố Anh Thạch mất tích :
+Dơn yêu cầu tuyên bố mất tích (đ 330 BLTTDS)
+Chứng cứ chứng minh Anh Thạch biệt tích 2 năm trở lên
-Thủ tục yêu cầu khởi kiện
+Đơn khởi kiện xin ly hôn theo yêu cầu một bên
+Tài liệu chứng cứ chứng minh Anh Thạch biệt tích 2 năm như:QD Tòa án tuyên bố Anh Thạch mất tích..
Câu 6:Tình tiết bổ sung:35 ngày sau khi Đài truyền hình thông báo tìm người mất tích,Ba Anh Thạch đến Tòa án trình
bày: Anh Thạch từ Canada nhắn người quen báo lại cho ông biết: sắp tới Anh Thạch sẽ về nhà và trình diện Tòa án.
Tòa án đã thông báo cho chị Tâm,yêu cầu chị rút lại yêu cầu tuyên bố một người mất tích.Anh Chi có đồng ý với quan
điểm giải quyết của Tòa án không?
-Là Luật sư,tôi không đồng ý quan điểm giải quyết của Tòa án,vì thông tin về người mất tích thông qua lời nhắn
gửi,không có cơ sở xác định,chưa thể sử dụng làm bằng chứng để Tòa án ra quyết định không chấp nhận yêu cầu tìm
người mất tích của chị Tâm được (điểm g -đ 315 BLTTDS).,nên việc Tòa đề nghị chị Tâm rút lại yêu cầu tìm người mất
tích là thiếu căn cứ ??????
6


-----------------------------------------------------------------------------------------------Câu 7: Trường hợp không đồng ý cách giải quyết Tòa án,Anh Chị phải làm gì?
-Điều 316 BLTTDS cho phép người có yêu cầu có quyền kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự để yêu cầu Tòa án
cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
-Chị Tâm phải chờ Tòa án ra quyết định không chấp nhận yêu cầu tìm kiếm người mất tích ,nếu không đồng ý,thì làm
đơn kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 7 ngày.

Câu 8:Tình tiết bổ sung:Tòa án nhận được thư của Anh THạch viết từ Canada gủi về cho biết đang làm thủ tục xin về
thăm gia đình,đoàn tụ vơ con.Còn chi Tâm vẩn giữ nguyên yêu câu xin ly hôn của mình.
Theo Anh Chi yêu cầu tuyên bố mất tích và yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm cần giải quyết thế nào về mặt thủ tục là tốt
nhất cho chị Tâm?
-Mục đích của chị Tâm là ly hôn
-Việc ly hôn có thể thực hiện theo các hướng thủ tục sau :
*-Điều 88 BLDS 1995 qui định: Khi một người biệt tích hai năm mà không có tin tức,Tòa án có thể tuyên bố
người đó mất tích.Vợ người tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án cho ly hôn
Hiên nay,chưa thể thực hiện theo thủ tục nầy vì Anh Thạch đã gửi thư về cho Tòa án,nên chưa đủ điều kiện về thông tin
người mất tích để Tòa tuyên bố mất tích theo đ88 BLDS 1995
* Chị Tâm làm đơn xin ly hôn theo yêu cầu của một bên theo điều 91 LHNGD
Năm 2000,trong đó căn cứ xin Tòa xét cho ly hôn theo khoản 1 đ 89 LHNGD :mục đích hôn nhân không đạt được.????
Câu 9:Tình tiết bổ sung:Chị Tâm quyết định gắn bó đời mình với người đàn ông mới.Có ý kiến cho rằng vì điều này mà
Chị Tâm khó có thể xin ly hôn ,nhất là thời điểm đã có tin tức anh Thạch.
Anh Chị có đồng ý với ý kiến trên không?
-Là Luật sư,tôi không đồng ý với ý kiến trên.Vì: Việc chị Tâm muốn đến người đàn ông khác không ảnh hưởng đến
quyết định Tòa án khi giải quyết ly hôn.Việc có tin tức anh Thạch chỉ làm thay đổi thủ tục giải quyết việc ly hôn mà
thôi.Còn yêu cầu ly hôn của chi Tâm là có căn cứ do thời gian đi biệt tích của chồng đã quá lâu,dù nay,anh Thạch có ý
định trở về.
Câu 10:Tình tiết bổ sung:Anh Thạch trở về và có mặt tại phiên Tòa giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm.Anh Thạch
đề nghị Tòa giúp Anh được đoàn tụ gia đình.Chị Tâm vẫn kiên quyết xin ly hôn.
Trình bày những lập luận để bảo vệ quyền lợi cho chị Tâm?
-Nêu căn cứ đề nghị Tòa án cho ly hôn:
+Chứng minh việc anh Thạch “bỏ mặc vợ con trong nhiều năm ở trong nước,muốn sống sao thì sống” là đủ căn
cứ coi là tình trạng vợ chồng trầm trọng theo NQ 02/2000/NQ-HDTP 23/12/2000
+Chứng minh trong thời gian anh Thạch rời bỏ gia đình ra đi,không có bất cứ liên lạc thư từ với vợ con,chứng
tỏ :Mục đích hôn nhân khộng đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng,không bình đẳng nghĩa vụ của chồng trong chăm
sóc con cái.
Nên đủ căn cứ yêu cầu Tòa án cho ly hôn theo điều 89 LHNGD 2000.
-Đề cập nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn theo điều 95 LHNGD ,trong đó:

+Chú trọng công sức đóng góp của chị Tâm duy trì –tu bổ tài sản suốt thời gian anh Thạch ra đi.
+Bảo vệ quyền-lợi ích hợp pháp vợ,con chưa thành niện
+Bảo vệ lợi ích chính đáng của chị Tâm là người đang làm ăn sinh sống trên diện tích đất-căn nhà chung của hai
người.
+Việc thanh toán các nghĩa vụ chung về tài sản do chi Tâm vay mượn để nuôi con (nếu có) trong thời gian anh
Thạch vắng nhà.
-Đề nghị Tòa cho ly hôn theo yêu cầu của chi Tâm

ĐỀ SỐ 3 Mã số: LS.DS/TN-03/240
-----------------*--------------Ngày 17/12/X-2 tại Sở giao dịch 3 - Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tại thành
phố Đ và ông Nguyễn Phước Cư địa chỉ 371 Phan Chu Trinh - thành phố Đ, ký kết một hợp đồng vay tiền số 41200007/HĐ. Theo nội dung hợp đồng, Sở giao dịch 3 đồng ý cho ông Nguyễn Phước Cư vay với số tiền 300.000.000
đồng (ba trăm triệu đồng), thời hạn vay 6 tháng, với lãi suất 2,5%/tháng, thời hạn trả hết nợ ngày 17/06/X-1 và có
gia hạn thêm 6 tháng nữa đến ngày 17/12/X-1.
Tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng vay giữa Chi nhánh 3 với ông Nguyễn
Phước Cư là 02 ngôi nhà: Ngôi nhà số 371 Phan Chu Trinh, thành phố Đ đứng tên ông Nguyễn Phước Cư và bà
Trần Thị Thiệp được thế chấp để bảo đảm cho số tiền vay là 220.000.000 đồng (hai trăm hai mươi triệu đồng);
Ngôi nhà tại xã Hoà Hải, huyện Hoà Vang - tỉnh Q, có số nghiệp chủ số 157HH/TLHC, do UBND huyện Hoà Vang
cấp ngày 16/07/1994 thuộc sở hữu của vợ chồng ông Nguyễn Quốc Trị và bà Võ Thị Lý đồng ý thế chấp cho Sở
giao dịch 3 để bảo lãnh số tiền vay 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) mà ông Cư đã vay tại Sở giao dịch 3.
Ngày 17/5/X, Sở giao dịch 3 đến văn phòng Luật sư nhờ anh (chị) giúp đỡ về mặt pháp lý yêu cầu ông Cư
trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận hợp đồng.
7


Có ý kiến cho rằng việc ngân hàng nhận thế chấp tài sản của ông Nguyễn Quốc Trị và bà Võ Thị Lý để
bảo đảm khoản tiền vay của ông Nguyễn Phước Cư là không đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Ý kiến của anh (chị)?
Tình tiết bổ sung
Hợp đồng thế chấp tài sản được công chứng.

Câu hỏi 2: (1 điểm)
Căn cứ vào quy định của pháp luật, bạn hãy cho biết hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực pháp luật hay
không?
Tình tiết bổ sung
Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông Nguyễn Phước Cư đã thanh toán các khoản tiền lãi hàng tháng
cho Sở giao dịch 3. Riêng về tiền gốc thì đến ngày 17/6/X-1, ông Cư đã thanh toán được số nợ gốc 220.000.000
đồng do ngôi nhà 371 Phan Chu Trinh thế chấp bảo đảm. Ngay sau khi ông Cư trả được số nợ này, Sở giao dịch 3
đã làm thủ tục giải chấp ngôi nhà số 371 Phan Chu Trinh, thành phố Đ cho vợ chồng ông Cư. Số tiền vay
80.000.000 đồng còn lại, sau nhiều lần được Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn gia hạn
ông Cư vẫn chưa thanh toán được.
Sở giao dịch 3 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn muốn khởi kiện ra Toà án quận H, thành
phố Đ yêu cầu ông Nguyễn Phước Cư trả số tiền 80.000.000 đồng cả nợ gốc và lãi theo hợp đồng vay được lập
ngày 17/12/X-2.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Hãy giúp Sở giao dịch 3 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn viết đơn khởi kiện.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Xác định các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khởi kiện?
Tình tiết bổ sung
Tính từ ngày lập hợp đồng vay là ngày 17/12/X-2, sau khi hết hạn hợp đồng, Chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn đã gia hạn nhiều lần và hạn cuối cùng là ngày 17/4/X. Ngày 20/5/X là ngày ngân
hàng khởi kiện đòi nợ ra Tòa án. Ngày 17/9/X là ngày Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm. Giả định mức lãi suất trần
của Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm này là 0,6%/tháng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Hãy tính toán số tiền gốc và tiền lãi mà Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn phải
thu hồi?
Tình tiết bổ sung
Ngôi nhà tại xã Hòa Hải, Hòa Vang, tỉnh Q được xây dựng trên diện tích đất là 200 m 2, được cấp cho ông
Nguyễn Quốc Trị và bà Võ Thị Lý. Về ngôi nhà này, UBND tỉnh Q đã có quyết định số 1324 ngày 20/08/2005 thu
hồi lô đất trên và hiện nay ngôi nhà cũng không còn nữa. Nhưng có ý kiến cho rằng, trường hợp ngôi nhà trên vẫn
còn tồn tại thì phía ngân hàng cũng không thể yêu cầu thanh toán khoản nợ của ông Cư vì việc thế chấp trong

trường hợp này là vô hiệu.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị)?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết vụ án, Sở giao dịch 3 phát hiện vợ chồng ông Cư có dấu hiệu bán căn nhà mà trước
đây ông bà đã thế chấp cho ngân hàng và đã được giải chấp. Sở giao dịch 3 muốn đề nghị Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp không cho ông bà Cư bán nhà. Nhưng có ý kiến cho rằng Sở giao dịch không thể yêu cầu Tòa án
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Anh (chị) hãy tư vấn cho Sở giao dịch 3 về vấn đề này?
Tình tiết bổ sung
Ông Cư thừa nhận số tiền vay giữa ông và Sở giao dịch 3, số tiền đã trả cũng như số tiền còn nợ lại của Sở
giao dịch 3. Nhưng ông cho rằng ông không vi phạm hợp đồng tín dụng. Vì số tiền 80.000.000 đồng còn nợ Sở giao
dịch 3, ông Cư không có trách nhiệm phải thanh toán, mặc dù ông là người đứng tên trong hợp đồng vay tiền và
trực tiếp nhận tiền, nhưng số tiền đó do bà Lý dùng tài sản bảo lãnh với ngân hàng để trả nợ cho ông. Theo ông
Cư, sở dĩ có việc vợ chồng bà Lý dùng nhà ở để bảo lãnh cho ông Cư vay tiền ở ngân hàng vì bà Lý có nợ ông Cư
một số tiền lớn. Khi ông Cư yêu cầu bà Lý thanh toán số tiền nợ khi đến hạn nhưng bà Lý không chịu thanh toán.
Sau nhiều lần được ông Cư gia hạn nhưng bà Lý vẫn thất hẹn không trả được nợ, ông Cư và bà Lý thỏa thuận
ông Cư sẽ vay tiền ở ngân hàng, bà Lý sẽ có trách nhiệm bảo lãnh số tiền vay bằng tài sản thuộc sở hữu của gia
đình bà. Ông Cư cũng cho biết, ông Trị là chồng bà Lý cũng đồng ý với giải pháp này. Sau đó, ông Cư đã tiến
hành thủ tục tại Sở giao dịch 3 - Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đ, với việc
thế chấp và bảo lãnh như đã nói ở trên.
Vì vậy, ông Cư cho rằng ông không có trách nhiệm thanh toán số tiền 80.000.000 đồng còn nợ theo hợp
đồng vay cho Sở giao dịch 3 mà bà Lý là người phải có trách nhiệm thanh toán.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Bạn có đồng ý với quan điểm của ông Cư hay không?
8


Tình tiết bổ sung

Bà Võ Thị Lý hiện đang chấp hành án tù tại trại giam có lời khai: Năm X-2, do có nợ ông Cư một khoản
tiền, nên khi ông Cư yêu cầu bà Lý phải dùng tài sản của gia đình bà để thế chấp khoản tiền vay của ông Cư tại
ngân hàng, bà Lý buộc phải đồng ý. Thực tế, nhà đất của vợ chồng bà đã bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Q thu hồi trước
đó mấy tháng. Bà Lý có thông báo việc này cho ông Cư nhưng ông Cư không tin vì cho rằng bà viện lý do để trốn
tránh trách nhiệm trả nợ.
Khi ông Cư vay tiền ở Sở giao dịch 3, chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành
phố Đ, bà Lý đã cùng với chồng là ông Nguyễn Quốc Trị phải đến ký giấy thế chấp. Còn việc thực hiện thủ tục thế
chấp như vậy có đúng quy định hay chưa, bà Lý cũng không rõ.
Bà Lý cũng thừa nhận khoản nợ tiền 100 triệu đồng bà nợ ông Cư, đến thời điểm này bà chưa thể thanh
toán cho ông Cư, vì sau khi bà bị bắt và bị xét xử trong một vụ án hình sự khác, gia đình bà tan nát, con cái mỗi
người một nơi, chồng bà hiện nay ở đâu không ai biết, tài sản hiện tại không còn gì. Về quan hệ thế chấp của bà
trong vụ án dân sự ngân hàng kiện đòi nợ ông Cư, thì bà Lý đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Hãy chuẩn bị những nội dung cơ bản trong luận cứ bảo vệ quyền lợi của Chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn.
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, ông Cư vẫn giữ nguyên quan điểm là ông không có trách nhiệm gì đối với khoản nợ còn lại
vì theo hợp đồng vay, số nợ gốc này đã được bảo đảm bằng căn nhà của vợ chồng bà Lý. Chính ngân hàng là
người đã ký vào hợp đồng thế chấp với vợ chồng bà Lý. Vậy ngân hàng phải đòi nợ vợ chồng bà Lý. Sau khi trình
bày xong, ông Cư bỏ ra về. Hội đồng xét xử đã phải hội ý về tình huống này để quyết định có phải hoãn phiên tòa
hay không.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Là luật sư của phía ngân hàng, anh (chị) hãy trình bày lập luận của mình về việc Hội đồng xét xử không
thể hoãn phiên tòa.
Bài giải
Câu 1:
-Ý kiến này đúng. Áp dụng điều 342 BLDS 2005. Căn nhà này phải thuộc quyền sở hữu của ông Cư, bà
Thiệp thì ông Cư bà Thiệp mới thế chấp được.
-Trong trường hợp này, áp dụng điều 361 BLDS 2005, ông Trị, bà Lý đã dùng căn nhà của mình để bảo lãnh

khoản vay 80.000.000 đồng của ông Cư bà Thiệp.
Câu 2:
Hợp đồng thế chấp được công chứng là đúng theo quy định điều 343 BLDS 2005. Nhưng về nội dung, nhà
thế chấp là nhà ông Trị bà Lý không phải là nhà của ông Cư bà Thiệt nên việc thế chấp căn nhà không có hiệu lực (áp
dụng điều 342, điều 122 BLDS 2005).
Câu 3: Đơn khởi kiện
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Thành phố H, ngày tháng năm
ĐƠN KHỞI KIỆN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H
Nguyên đơn:
-Cơ quan: CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN PTNT TẠI TP.H
-Địa chỉ:
-Đại diện là ông/bà:
Bị đơn:
-Họ và tên: Ông NGUYỄN PHƯỚC CƯ
-Địa chỉ: 371 phường ……………………
Nội dung đơn khởi kiện:
(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
Yêu cầu Quý Tòa buộc bị đơn trả nợ gốc là 80.000.000 đồng và lãi phát sinh là………………
Chứng cứ kèm theo:
-Hợp đồng vay
-Công văn trao đổi…
9


Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.
Đại diện nguyên đơn

Câu 4:
Những giấy tờ cần thiết gồm:
1. Quyết định cử người đại diện
2. Chứng minh nhân dân
3. Hợp đồng vay tiền
4. Và các giấy tờ có liên quan
Câu 5:
Có thể xác định:
-Thời gian thực hiện hợp đồng
: ngày 17.12.(x-2) đến 17.4.x
(Tính luôn thời gian gia hạn hợp đồng)
-Ngày khởi kiện
: ngày 20.5.x
-Ngày xử sơ thẩm
: ngày 17.9.x
-Lãi suất
: 0,6%/tháng
-Nợ gốc là
: 80.000.000 đồng
-Thời gian tính lãi
:
+Từ ngày 17.12.(x-2) đến ngày 17.12.(x-1) là
12 tháng
+Từ ngày 17.12.(x-1) đến ngày 17.9.x là
09 tháng
Như vậy lãi sẽ là: 21 tháng x 0,6% x 80.000.000 đ = 10.080.000 đ
Tổng gốc và lãi là 90.080.000 đồng.
Câu 6:
Nhận định đúng. Vì việc thế chấp vô hiệu. (Dựa vào câu số 02).
Câu 7:

Ngân hàng không có quyền, vì căn nhà này chỉ dùng thế chấp cho khoản vay 220.000.000 đồng đã thanh lý
xong, không thế chấp cho khoản vay 80.000.000 đồng. Đối với khoản vay 80.000.000 đồng, việc thế chấp là vô hiệu. Chỉ
có Tòa án (Bằng bản án) và Thi hành án dân sự mới có quyền kê biên tài sản của vợ chồng ông Cư (gồm cả căn nhà –nếu
còn) để đảm bảo thực hiện khoản vay 80.000.000 đồng. (áp dụng điều 342, khoản 7 điều 351 BLDS 2005).
Câu 8:
Tôi không đồng ý với ý kiến của ông Tư. Ông Cư vay bà Lý là 01 quan hệ. Bà Lý bảo lãnh thế chấp cho ông
Cư là 01 quan hệ khác. Ở đây ông Cư vay 80.000.000 đồng mà không đồng ý trả nợ là không đúng. Nếu như điều kiện
bảo lãnh thế chấp phát sinh thì bên bảo lãnh, bên có tài sản thế chấp (bà Lý) sẽ phải trả nợ thay cho ông Cư. Nhưng ở đây
bà Lý ông Trị dùng nhà của mình thế chấp (không phải là bảo lãnh) cho ông Cư nên việc thế chấp này vô hiệu. Ở đây
không có việc bảo lãnh, không có hợp đồng bảo lãnh. Do đó, khoản vay 80.000.000 đồng ông Lý không được bảo lãnh,
hay thế chấp nên ông Cư phải là người trả nợ 80.000.000 đồng và lãi phát sinh.
Câu 9:
Nội dung chính của bản luận cứ:
-Vợ chồng ông Cư và bà Lý có quan hệ làm ăn,… Bà Lý nợ ông Cư 100 triệu là có thật và chưa thanh toán
được.
-Bà Lý ông Trị đã tự nguyện dùng căn nhà thuộc sở hữu của mình để thế chấp cho khoản vay 80 triệu của
ông Cư. Việc thế chấp này là sai. Đúng ra là phải bảo lãnh. Sự sai sót này vì sự kém hiểu biết của các bên, sự tắc trách
của Ngân hàng,…Nhưng thực tế các bên đều xác định đây là sự bảo lãnh. Do đó, kính đề nghị Tòa án chấp nhận việc bảo
lãnh, buộc vợ chồng bà Lý phải có trách nhiệm trả nợ 80 triệu và lãi,…
Câu 10:
Trong vụ án này, ông Cư là bị đơn. Ông Cư tự ý bỏ về chứ không phải ông Cư không đến phiên tòa. Đặc biệt
trước khi ra về ông Cư đã nói rõ về tư cách tham gia tố tụng của mình và bà Lý. Bà Lý chính là người bảo lãnh nên bà Lý
phải trả nợ thay. Đúng là ông Cư là người đã ký hợp đồng vay nhưng sự vắng mặt của ông Cư trong trường hợp này
không đủ cơ sở để hoãn phiên tòa. Khoản 1 điều 200 BLTTDS quy định: “Bị đơn phải………phiên tòa.”

ĐỀ SỐ 4 (Mã số LS.DS/TN-04/240)
Mã số: LS.DS/TN-04/240
-----------------*--------------Chị Hoàng Thị Định kết hôn với anh Hà Thanh Chiến năm 1982, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn
tại Uỷ ban nhân dân xã. Vợ chồng chung sống hạnh phúc tại xã T, huyện C, tỉnh H đến năm 1997 thì phát sinh
mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị Định nghi ngờ anh Chiến có quan hệ bất chính với người đàn bà khác. Từ đó,

10


vợ chồng thường xuyên xô xát, cãi vã nhau. Gia đình hai bên, chính quyền địa phương và các đoàn thể giúp đỡ
nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng không hàn gắn được. Tháng 7 năm X, chị Định có đơn xin ly hôn.
Về con chung, vợ chồng chị Định có hai con chung:
- Cháu Hà Thị Thanh Hương sinh năm 1983;
- Cháu Hà Mạnh Thắng sinh năm 1985.
Hiện tại, hai cháu ở với mẹ.
Về tài sản chung: Một nhà cấp 3 diện tích 93,79 m 2 trên diện tích đất 137 m 2 (đất thuê 40 năm); một nhà
bán mái diện tích sử dụng 24,9 m 2 và một số tài sản khác. Tổng giá trị tài sản được xác định khoảng gần 200 triệu
đồng.
Về các khoản nợ: Vợ chồng có các khoản nợ như sau:
- Nợ Ngân hàng nông nghiệp tỉnh H cả gốc và lãi tính đến ngày 31/11/X-1 là 81.918.700 đồng;
- Nợ bà Hoàng Thị Tâm số tiền 50 triệu đồng;
- Nợ anh Nguyễn Văn Dự số tiền 15 triệu đồng;
- Nợ anh Hoàng Thanh Bình số tiền 8 triệu đồng;
- Nợ anh Nguyễn Văn Kiên số tiền 8 triệu đồng.
Ly hôn, chị Định xin được nuôi hai con, yêu cầu anh Chiến hàng tháng đóng góp 500.000 đồng nuôi con.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Trao đổi với chị Định những nội dung cần thiết trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp chị Định viết một đơn khởi kiện trên cơ sở những nội dung đã trao đổi thống nhất với
chị Định?
Tình tiết bổ sung
Anh Chiến cũng thừa nhận thời điểm kết hôn và quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa vợ chồng anh
đúng như chị Định đã trình bày. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, chị Định lại thường xuyên
ghen tuông vô cớ. Anh Chiến cũng đồng ý xin ly hôn với chị Định.
Về con chung: Anh Chiến nhất trí để chị Định nuôi con. Hàng tháng, anh Chiến đóng góp mỗi tháng
500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng chẵn)

Về tài sản chung: Nhất trí với chị Định, nhưng anh Chiến xin được sử dụng toàn bộ tài sản và thanh toán
chênh lệch tài sản cho chị Định 100 triệu đồng. Anh Chiến chịu trách nhiệm thanh toán tất cả các khoản nợ, bao
gồm nợ Ngân hàng, nợ anh Bình, nợ chị Tâm, nợ anh Dự, nợ anh Kiên. Tổng số tiền nợ là 103.918.000 đồng.
Chị Định cũng nhất trí với anh Chiến về việc phân chia tài sản như đề xuất của anh Chiến.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Với tư cách là luật sư bảo vệ cho chị Định, anh (chị) tư vấn cho chị Định cũng như anh Chiến phải làm gì
để thỏa thuận của hai người có cơ sở chấp nhận?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Trên cơ sở đó, xác định những chứng cứ, tài liệu mà anh (chị) cần phải giúp chị Định bổ sung trong hồ sơ
khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Lời khai của chị Trần Thị Cúc là người đại diện theo ủy quyền cho Ngân hàng nông nghiệp tỉnh H ngày
4/9/X như sau: Ngày 11/11/X-5, Ngân hàng nông nghiệp tỉnh cho vợ chồng anh Chiến, chị Định vay 80 triệu, lãi
suất 1,05%/tháng, thời hạn trả nợ 4/12/X. Khi vay có thế chấp tài sản là nhà đất của vợ chồng anh Chiến. Quá
trình vay nợ, vợ chồng anh Chiến thực hiện đúng nghĩa vụ. Tất cả các khoản lãi đều được trả đầy đủ theo đúng
hợp đồng vay. Riêng tiền gốc thì vợ chồng anh Chiến phải thanh toán khi đến hạn. Tính đến ngày 31/11/X-1, vợ
chồng anh Chiến phải trả gốc và lãi là 81.918.700 đồng. Quan điểm của Ngân hàng là nghĩa vụ trả nợ của vợ
chồng anh Chiến sẽ theo đúng hợp đồng vay. Trường hợp anh Chiến, chị Định không thực hiện thì sẽ xử lý tài sản
thế chấp theo pháp luật.
Quan điểm của Tòa án thì cho rằng, do đây là vụ án ly hôn của vợ chồng anh Chiến, chị Định nên quan hệ
tài sản của vợ chồng, trong đó có khoản nợ chung cần được giải quyết luôn trong vụ án ly hôn này.
Phía khách hàng của anh (chị) là chị Định cũng muốn Tòa án giải quyết luôn khoản tiền nợ của Ngân
hàng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Quan điểm của anh, chị về vấn đề trên?
Tình tiết bổ sung
Lời khai của chị Tâm ngày 4/9/X như sau: Chị Tâm có cho vợ chồng anh Chiến, chị Định vay 50 triệu
đồng làm nhiều lần. Các lần vay đều có mặt đầy đủ cả hai vợ chồng. Vì quen biết nên chị Tâm cho vợ chồng anh
Chiến vay không tính lãi. Nay anh chị ly hôn, chị Tâm đề nghị hai người phải có trách nhiệm thanh toán khoản nợ
cho chị Tâm.

Lời khai của anh Dự ngày 4/9/X: Ngày 10/2/X-5, anh Dự cho vợ chồng anh Chiến vay 15 triệu. Khi vay,
hai bên thỏa thuận lãi suất là 1%. Vợ chồng anh Chiến đã trả đều lãi. Nay vợ chồng ly hôn, anh Dự đề nghị vợ
chồng phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Dự.

11


Cùng ngày 4/9/X, Tòa án còn lấy lời khai của anh Kiên. Anh Kiên cho biết ngày 10/1/X-3, anh Kiên có cho
vợ chồng anh Chiến vay 8 triệu đồng, lãi suất 1%/tháng. Vợ chồng anh Chiến thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả lãi
hàng tháng. Nay vợ chồng ly hôn, anh Kiên yêu cầu vợ chồng anh Chiến phải có trách nhiệm trả nợ cho anh.
Anh Bình cũng cho biết khoảng tháng 10/X-4, anh Bình có cho vợ chồng anh Chiến vay 8 triệu đồng. Vì
quen biết nên anh Bình không tính lãi, hẹn khi nào có tiền thì trả. Nhưng nay vợ chồng ly hôn, anh Bình đề nghị
vợ chồng anh Chiến phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Bình.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Hãy cho biết hướng giải quyết đối với những khoản nợ trên?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết, Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Cả chị Định và anh Chiến
đều cương quyết xin ly hôn. Đồng thời hai bên cũng thỏa thuận được về người nuôi con là chị Định và anh Chiến
hàng tháng chịu trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con là 500.000 đồng. Hai bên cũng thỏa thuận toàn bộ tài sản chung
sẽ thuộc quyền quản lý của chị Định, chị Định có trách nhiệm thanh toán cho anh Chiến số tiền chênh lệch là 70
triệu đồng. Chị Định có trách nhiệm thanh toán tất cả các khoản nợ chung của vợ chồng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Có ý kiến cho rằng, trong vụ án ly hôn này, con chung giữa anh Chiến và chị Định đều đã trưởng thành.
Bố mẹ không còn phải có trách nhiệm đối với con nên không cần thiết phải giải quyết quan hệ đối với con trong
vụ án này.
Ý kiến của anh (chị)?
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Đối với việc giải quyết quan hệ về nợ chung vợ chồng, có ý kiến cho rằng, chưa đủ cơ sở để Tòa án công
nhận sự thỏa thuận của vợ chồng.
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến đó hay không?

Tình tiết bổ sung
Trên cơ sở sự thỏa thuận của anh Chiến, chị Định, Tòa án đã ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn
giữa chị Định và anh Chiến, trong đó bao gồm cả quyết định về quan hệ hôn nhân, về con, về tài sản và nợ chung
đúng như nội dung trên.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Căn cứ quy định của pháp luật, hãy cho biết Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn trong
trường hợp này có đúng hay không?
Tình tiết bổ sung
Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, chị Định, anh Chiến vẫn giữ nguyên các quan
điểm. Phía các chủ nợ giữ nguyên yêu cầu đòi nợ. Riêng đại diện ngân hàng cũng giữ nguyên yêu cầu là chưa buộc
vợ chồng anh Chiến, chị Định phải trả nợ trước thời hạn.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày những lập luận cơ bản để bảo vệ quyền lợi của chị Định?
Câu 1:
-Giải thích, động viên chị hàn gắn tình cảm gia đình
-Giải thích hậu quả việc ly hôn
-Giải thích quyền lợi, nghĩa vụ của các bên khi giải quyết ly hôn
Câu 2: Đơn xin ly hôn:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Huyện C, ngày tháng năm
ĐƠN XIN LY HÔN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C
Nguyên đơn:
-Họ tên:
-Địa chỉ:
Bị đơn:
-Họ và tên:
-Địa chỉ:
Nội dung đơn khởi kiện:

12


(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
Yêu cầu Quý Tòa giải quyết các yêu cầu sau:
-Về hôn nhân: Cho ly hôn
-Về tài sản:
-Về con chung:
Chứng cứ kèm theo:
-Giấy kết hôn
-Giấy tờ về tài sản
-Giấy tờ có liên quan khác…
Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.
Nguyên đơn
Câu 3:
Vợ chồng cần làm văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung, trình Tòa án xem xét.

3.
4.
5.
6.

Câu 4:
Giấy tờ:
1. Giấy kết hôn
2. Chứng minh nhân dân, hộ khẩu
Giấy tờ nhà đất
Giấy tờ vay mượn
Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản

Giấy tờ khác

Câu 5:
Điều 424 BLDS 2005 quy định rất chung chung. Nếu trong hợp đồng vay có quy định là sẽ chấm dứt hợp
đồng khi li hôn thì hợp đồng này sẽ chấm dứt, Tòa án giải quyết luôn, còn không quy định thì hợp đồng vay này đương
nhiên còn hiệu lực thi hành.
Câu 6:
-Vay bà Tâm
nhiều lần
50 triệu
không lãi
-Vay ông Bình
10.(x-4)
08 triệu
không lãi
(Hai trường hợp này áp dụng k1, điều 477 BLDS 2005)
-Vay ông Dự
10.2.(x-5)
15 triệu
1% lãi
-Vay ông Kiên
10.1.(x-3)
08 triệu
1% lãi
(Hai trường hợp này áp dụng k2, điều 477 BLDS 2005)
Cả 04 trường hợp này: Các bên cần thỏa thuận thống nhất, nếu không vẫn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Câu 7:
Con của họ đã thành niên, không tàn tật, không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, theo điều 92
Luật HNGĐ 2000 thì họ không có trách nhiệm nữa. Tuy nhiên, trong bản án ly hôn vẫn phải ghi là con đã thành niên,…
Câu 8, và Câu 9: Áp dụng điều 90 Luật HNGĐ về thuận tình ly hôn.

Câu 10:
Lập luận cơ bản bảo vệ chị Định:
-Hôn nhân tự nguyện, có con chung, có tài sản chung
-Nay do mâu thuẫn….
-Mà ai bên đã thuận tình ly hôn, đã thỏa thuận được về con chung và tài sản chung
-----> Đề nghị Tòa cho ly hôn.
ĐỀ SỐ 5 (Mã số LS.DS./TN-05-/240)
Mã số: LS.DS/TN-05/240
-----------------*--------------Ngày 2/4/2002, Vợ chồng bà Nguyễn Thị M và ông Phạm Văn P, trú tại số 2, ngõ 16, Đường Nguyễn Ngọc
Nại, quận T, thành phố N và bà Trần Thị T, trú tại 72, Đường Nguyễn Viết Xuân, quận T, thành phố N có thoả
thuận mua bán một căn nhà mái bằng 01 tầng diện tích 80 m2 trên tổng diện tích 100 m2. Người bán là vợ chồng
13


bà M, ông P; người mua là bà T. Nguồn gốc căn nhà này là do cơ quan quân đội cấp cho vợ chồng bà M và ông P
từ năm 1982. Giá ngôi nhà và đất được hai bên thỏa thuận là 1.700.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm triệu đồng).
Cùng ngày hai bên có làm giấy giao nhận một số tiền là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) và hẹn khi
nào bên mua bàn giao nốt số tiền còn lại thì bên bán sẽ giao nhà. Việc bàn giao số tiền trên có sự chứng kiến của
anh Phan Hồng Vinh, người hàng xóm của bà T, đồng thời số tiền được giao tại Chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp quận T. Số tiền cũng được chuyển vào tài khoản cá nhân của bà M tại Chi nhánh ngân hàng này. Giấy giao
nhận không ghi thoả thuận thời gian cụ thể giao nốt tiền mà chỉ thoả thuận khi nào bà T bán được ngôi nhà của
mình tại 343 Bạch Đằng, quận H, thành phố H thì sẽ trả hết cho vợ chồng bà M.
Theo bà M, sau nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán nốt số tiền còn lại thông qua anh Vinh, nhưng không
thấy bà T trả lời. Cho nên, ngày 4/8/2002 bà M làm hợp đồng mua bán chính ngôi nhà đã thoả thuận bán cho bà T
với anh Chu Xuân A với giá 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng). Hợp đồng này chưa được công chứng, chứng thực,
nhưng hai bên trên thực tế đã bàn giao nhà ngay sau khi ký hợp đồng. Anh A đã phá ngôi nhà cũ và xây thành 02
căn hộ 04 tầng và lại bán ngay cho 02 chủ khác vào tháng 6/2003 với giá 3.200.000.000 đồng (ba tỷ hai trăm triệu
đồng).
Biết được sự việc, bà T đã phản đối vì không nhận được yêu cầu nào của bà M và đề nghị bà M tôn trọng
hợp đồng đã ký kết. Thực tế hai bên cũng làm giấy mua bán, tuy giấy tờ mua bán chưa được cơ quan có thẩm

quyền chứng thực. Bà T cũng đã thanh toán cho bà M số tiền là 200.000.000 đồng. Nhưng bà M không chấp nhận,
vì thực tế bà cũng đã bán nhà và bàn giao nhà cho người khác từ năm 2002. Ngày 20/5/X Bà T muốn khởi kiện
yêu cầu bà M thực hiện hợp đồng mua bán đã ký kết với bà T.
Bà T nhờ anh (chị) tư vấn.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Theo anh (chị) bà T có nên khởi kiện bà M hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà T cho biết sở dĩ có chuyện bà M bán nhà trong suốt thời gian dài như vậy mà bà không có ý kiến gì vì
trong thời gian này bà T không sinh sống ở thành phố N mà đang sống cùng con trai ở thành phố M. Qua một
người quen là anh Vinh, bà T biết vợ chồng bà M có nhu cầu bán nhà nên thông qua anh Vinh, bà đã thỏa thuận
mua nhà với vợ chồng bà M. Khi mua có viết giấy nhưng trong giấy mua không nói đến thời hạn kết thúc hợp
đồng mua vì thực tế bà T chưa thực sự có nhu cầu về chỗ ở. Bà T cho rằng người có lỗi trong trường hợp này là
vợ chồng bà M, nhưng do nhà đã bán, người mua đã xây nhà mới, đã chuyển qua nhiều chủ khác nên bà T quyết
định yêu cầu bà M trả lại cho mình số tiền đã giao là 200.000.000 đồng.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Ngoài số tiền 200.000.000 đồng, bà T có quyền yêu cầu bà M phải chịu khoản tiền phạt hợp đồng do không
thực hiện hợp đồng hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà M thừa nhận các nội dung như bà T trình bày, nhưng không đồng ý cho rằng bà M là người có lỗi.
Theo bà M, sau khi nhận tiền của bà T từ tháng 4/2002, bà đã nhiều lần liên lạc với bà T yêu cầu thanh lý hợp
đồng vì vợ chồng bà đang cần tiền nhưng không thấy bà T trả lời. Trước đó bà M có thỏa thuận miệng với bà T là
sau ba tháng, nếu bà T không trả nốt tiền thì bà M sẽ bán nhà nếu gặp khách. Từ đó đến giờ, bà T mới gặp bà để
yêu cầu đòi nhà thì bà không thể chấp nhận được vì bà M đã bán nhà cho người khác. Bà M đồng ý sẽ trả lại cho
bà T 200.000.000 đồng, nhưng hiện tại số tiền đó được gửi ở ngân hàng chưa đến kỳ rút tiền và hẹn khi nào đến
hạn rút tiền thì sẽ trả dần cho bà T, mỗi lần 30.000.000 đồng. Bà T không đồng ý. Trên thực tế, từ đó đến nay, bà
M vẫn chưa trả tiền cho bà T. Ngày 5/6/X, bà T đã khởi kiện ra Toà án yêu cầu bà M trả lại số tiền 200.000.000
đồng và bồi thường thiệt hại.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà T làm đơn khởi kiện.
Câu hỏi 4: (1 điểm)

Xác định những giấy tờ cần thiết kèm theo đơn khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Bà M uỷ quyền cho luật sư Nguyễn Văn K, trưởng Văn phòng luật sư X có trụ sở tại 90 Tô Hiệu, Quan
hoa, quận C. thành phố N. Trong biên bản lấy lời khai lần 2, luật sư K cho rằng bà T không phải là người trực
tiếp giao dịch mua bán với thân chủ của mình. Do đó, Luật sư đề nghị Toà án xác định nhân thân và tư cách của
nguyên đơn, đồng thời không công nhận chứng cứ do nguyên đơn đưa ra - đó là Giấy biên nhận số tiền
200.000.000 đồng mà nguyên đơn khai rằng là do chính bà M viết.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) đề nghị của luật sư K có ý nghĩa gì cho việc bảo vệ quyền lợi của bà M hay không?
Tình tiết bổ sung
Vì biết được bị đơn có tài khoản cá nhân tại Ngân hàng nông nghiệp Quận T, bà T muốn đề nghị Toà án
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài khoản của bà M. Mặt khác, bà T cho rằng số tiền trong tài khoản
của bị đơn có thể không đủ số tiền để trả cho bà, nên bà T muốn Tòa án áp dụng thêm biện pháp kê biên tài sản là
ngôi nhà mà bà M đang cư trú.
14


Câu hỏi 6: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) đối với yêu cầu của bà T về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời?
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Trên cơ sở quan điểm này, hãy giúp bà T làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết, ngoài yêu cầu đòi bà M phải trả lại số tiền 200.000.000 đồng, bà T còn đề nghị Tòa
án giải quyết bồi thường thiệt hại tính theo tỷ lệ số tiền đã giao so với giá trị nhà đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
Đồng thời còn yêu cầu bà M phải trả lãi đối với số tiền 200.000.000 đồng theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Yêu cầu của bà T có cơ sở chấp nhận không?
Tình tiết bổ sung
Trong phần mở đầu phiên tòa, sau khi đã kiểm tra căn cước của đương sự, bà M đã tự ý bỏ về không tiếp
tục tham gia phiên tòa mà không nêu ra bất kỳ lý do nào. Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa.

Câu hỏi 9: (1 điểm)
Không đồng ý với việc hoãn phiên tòa, anh (chị) phải làm gì?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà M không thừa nhận chữ viết và chữ ký của bà trong giấy biên nhận số tiền 200.000.000
đồng. Hội đồng xét xử công bố biên bản lấy lời khai ngày 11/11/2005, người được lấy lời khai là bà M, trong đó bà
M thừa nhận vào khoảng năm 2002, bà có thỏa thuận bán nhà cho bà T và có viết giấy biên nhận số tiền
200.000.000 đồng. Bà M cho rằng, hiện tại bà đã già hiện nay 73 tuổi, trí nhớ không minh mẫn, lúc nhớ, lúc quên
nên đã nhận là có viết giấy biên nhận số tiền của bà T. Thực ra bà không nhận tiền của bà T và cũng không viết
giấy biên nhận. Bà M đề nghị Tòa án cho hoãn phiên tòa để giám định chữ viết của bà M.
Không đồng ý với yêu cầu của bà M vì cho rằng bà M làm vậy là để cố tình kéo dài thời gian kết thúc vụ
án, kéo dài thời gian phải thanh toán tiền cho bà T nên đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà M.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày lập luận của mình tại phiên tòa về vấn đề trên
Bài giải
Câu 1:
Bà T không nên khởi kiện vì:
-Hợp đồng mua bán nhà không có công chứng -> vô hiệu về hình thức -> Xử lý vô hiệu: Các bên trả lại
những gì đã nhận, bà T chỉ nhận được 200.000.000 đồng (Nếu bà T chứng minh được bà k có lỗi thì mới được bồi
thường. Mà để chứng minh được, đây là điều khó).
-Bà M đã bán nhà, nhà này bị đập bỏ, xây thành 02 nhà mới, lại được bán cho 02 chủ mới, nghĩa là không
còn nhà để bán cho bà T nên bà T không thể yêu cầu bà M tiếp tục bán cái nhà không còn tồn tại
-Việc kiện tụng tốn thời gian, công sức, tiền bạc,…Tốt nhất bà T nên thương lượng để lấy lại tiền
Câu 2:
Bà T không thể phạt vi phạm hợp đồng:
-Có hợp đồng đâu mà đòi phạt?
-Sự vi phạm hình thức hợp đồng có cả lỗi của bà T
-Việc mua bán nhà đã vô hiệu
-Hơn nữa, nếu giả sử có hợp đồng hợp pháp, mà 02 bên không thỏa thuận việc phạt ghi trong hợp đồng thì
cũng pó tay, không thể đương nhiên phạt vi phạm hợp đồng
Áp dụng điều 410, 422 BLDS 2005.

Câu 3: Đơn khởi kiện
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Quận T, ngày tháng năm
ĐƠN KHỞI KIỆN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T
Nguyên đơn:
-Họ tên: Bà T
-Địa chỉ:
Bị đơn:
-Họ và tên: Bà M
-Địa chỉ:
Nội dung đơn khởi kiện:
15


(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
Yêu cầu Quý Tòa buộc bị đơn trả nợ gố là 200.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại……
Chứng cứ kèm theo:
-Hợp đồng vay
-Giấy tờ khác
Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.
Nguyên đơn
Câu 4:
Các giấy tờ gồm:
1. Giấy tay vay tiền
2. Chứng minh nhân dân, hộ khẩu
3. Sự xác nhận của người làm chứng
4. Thư từ trao đổi,…

Câu 5:
Luật sư K được bà M ủy quyền muốn:
-Xác định bà T không phải là nguyên đơn ---->ông Vinh sẽ là nguyên đơn
-Giấy biên nhận là giả giám định
Cách này có thể làm cho vụ việc kéo dài, bà M được chiếm dụng tiền của bà T lâu hơn, gây nhiều khó khăn
cho bà T
Câu 6:
Yêu cầu này là chấp nhận được. Áp dụng theo quy định tại điều 99, khoản 10, 11 điều 102 BLDS 2005.
Câu 7:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Quận T, ngày tháng năm
ĐƠN
YÊU CẦU ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T
Kính thưa Quý Tòa,
Tôi tên: T
Địa chỉ:
Là bị đơn trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tiền được Tòa án thụ lý số…………………..
Bị đơn trong vụ án này là………………. Bà M thiếu tôi………….
Được biết bà M có……………..
Theo qui định của pháp luật, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tôi cũng như để vụ án được giải quyết
thuận lợi, mau chóng, tôi kính đề nghị Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT đối với bà M bao gồm:
-Biện pháp phong tỏa nhà………………
-Biện pháp phong tỏa tài khoản…………..
Rất mong được sự đồng ý của Tòa án. Tôi thành thật cảm ơn.
Người làm đơn (nguyên đơn)
Bà T
Câu 8:
Bà T yêu cầu bà M:

-Trả 200.000.000 đồng: chấp nhận được
-Bồi thường thiệt hại: Nếu có thiệt hại và chứng minh được
-Lãi của 200.000.000 đồng: Không chấp nhận, do hợp đồng vô hiệu, chỉ trả lại tiền đã trao

16


Câu 9:
Không có cơ sở hoãn. Áp dụng khoản 1 điều 208 và điều 200 BLTTDS.
Câu 10:
Áp dụng điều 91 BLTTDS, sự giám định là cần thiết để làm sáng tỏ vụ án.
---------------------------------------------------------------------------------------ĐỀ SỐ 6 (Mã số LS.DS/TN-06/240)
Mã số: LS.DS/TN-06/240
-----------------*--------------Vào lúc 19h10 ngày 19/2/X, tại đường Quốc Phòng thuộc thôn 4 Điện Dương, huyện Đ, tỉnh H giữa xe
môtô do Trần Văn Công điều khiển với xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều khiển chở phía sau cháu Nguyễn
Quang 5 tuổi và Nguyễn Thị Ba. Hậu quả là cả ba người trên xe của Vinh đều bị thương nặng.
Diễn biến như sau: Tối hôm đó, Công đi mua thức ăn cho tôm. Sau khi mua xong thức ăn cho tôm, Công
điều khiển xe môtô chạy về hướng thôn 5 Điện Dương, đoạn đường quốc phòng rộng 3m và dọc 2 bên đường là
khu vực dân cư, Công cho xe chạy với tốc độ 55km/h (lời khai của Công). Khi đến đoạn đường chợ chiều thuộc
thôn 4 xã Điện Dương, Công phát hiện hướng ngược chiều có xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều khiển chở phía
sau là Nguyễn Quang 5 tuổi và Nguyễn Thị Ba đang chạy đến nhưng chạy giữa đường. Thấy vậy, Công lấn trái và
bọc qua bên phải xe môtô ngược chiều để tránh. Khi bọc qua phải thì va vào dọc theo bên phải xe ngược chiều
nên làm cho xe của Vinh ngã qua trái và nằm gần giữa đường bên phải theo hướng đi của Vinh, còn xe của Công
điều khiển chạy luôn về phía trước và đâm qua bên trái đường dài 20m10 mới nằm lại. Qua hiện trường để lại có
nhiều mảnh vỡ nhựa của đèn, yếm xe bị bể và điểm cày xước của xe của Vinh điều khiển, vị trí này cách mép
đường bên trái hướng đi xe của Vinh là 1m70, cũng như biên bản khám hai xe đều thấy hai xe bị bể các dụng cụ
như trên. Xác minh các mảnh vỡ của xe cho thấy đó là điểm va chạm của xe.
Hậu quả của tai nạn:
- Trần Văn Công: Gãy xương đùi trái đoạn 1/3 trên, gãy đầu trên xương chày phải phức tạo, kèm gãy
xương mác, gãy 1/3 dưới xương quay tay phải, gãy các xương bàn tay 2,3,4,5 và xương đốt một ngón 3 bàn tay

phải. Đã được giám định thương tích là 50%.
- Nguyễn Văn Vinh: Gãy kín đầu dưới xương mác chân phải được giám định thương tích là 9%.
- Nguyễn Thị Ba: Gãy kín đi lệch đoạn 1/3 dưới xương cánh tay phải, gãy đầu dưới xương quay tay phải
được giám định thương tích là 28%.
Riêng cháu Quang năm tuổi may mắn không bị sao.
Cơ quan công an đã kết luận:
“Căn cứ vào hiện trường để lại, các dấu vết để lại trên hai xe và tài liệu trong hồ sơ thì nguyên nhân của tai
nạn là do:
- Trần Văn Công điều khiển xe môtô chạy vượt quá tốc độ cho phép và chạy lấn sang phần đường bên trái
nên đã va vào xe môtô ngược chiều để xảy ra tai nạn.
- Đối với Nguyễn Văn Vinh trong vụ tai nạn này không có lỗi vì Vinh đã đi đúng phần đường quy định. Riêng
bản thân không có giấy phép lái xe sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định 39/CP của Chính phủ.
Như vậy, hành vi của Trần Văn Công đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ Việt Nam đã
được Quốc hội khoá 9 Kỳ họp thứ X thông qua ngày 29/6/2001, nhưng vì thương tích của người bị hại còn thấp chưa
đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn Công.
Do đó công an huyện Đ xử lý hành chính đối với Trần Văn Công. Về trách nhiệm dân sự thì bản thân Công
có trách nhiệm bồi thường cho bên bị hại theo chứng từ hợp lệ, do hai bên thỏa thuận hoặc giải quyết theo quy định
của pháp luật”.
Kết luận điều tra của cơ quan công an đã được thông báo tới các đương sự.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Hồ sơ vụ tai nạn có được cơ quan công an chuyển sang để Toà án giải quyết về trách nhiệm bồi thường
dân sự hay không?
Tình tiết bổ sung
Sau khi được cơ quan thông báo, gia đình người bị hại đã làm đơn khởi kiện Trần Văn Công ra Toà án.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Những người bị hại có thể làm chung một đơn khởi kiện hay mỗi người phải làm riêng một đơn khởi
kiện?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Xác định những giấy tờ cần thiết được gửi kèm theo đơn khởi kiện?
Tình tiết bổ sung

Trong hồ sơ vụ tai nạn do cơ quan công an chuyển giao cho cơ quan Toà án có một “Đơn xin nhận lại xe”
viết ngày 2/8/X. Nội dung của đơn này như sau:
“Tên tôi là: Trần Thị Hồng Ánh, là chủ xe mang biển số ….
Tôi viết giấy này xin nhận lại xe của tôi vì vào ngày 19/2/X, tôi có cho em trai tôi là Trần Văn Công mượn xe
và trong quá trình điều khiển xe thì em tôi đã bị tai nạn giao thông. Và hiện giờ xe còn đang bị tạm giữ tại cơ quan
công an huyện Đ.
17


Trong khi chờ đợi sự chấp thuận của cấp trên, tôi xin thành thật biết ơn”.
Đoạn cuối trong đơn này có ghi: “Đã nhận lại xe mang biển số, tình trạng xe đúng như biên bản khám
nghiệm ngày 25/2/X” và chữ ký của Trần Thị Hồng Ánh.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Việc cơ quan công an giải quyết trả lại xe theo đơn trình bày của chị Ánh là đúng hay không?
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Tài liệu này có ý nghĩa như thế nào đối với việc giải quyết vụ án dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức
khỏe của các bị hại?
Tình tiết bổ sung
Hồ sơ vụ tại nạn cũng có lưu một bản sao Giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô - xe máy số No 637400 ghi tên
chủ xe Trần Thị Hồng Ánh, số biển kiểm soát, loại xe C100; thời hạn bảo hiểm từ 15h ngày 12/10/X-1 đến …h
ngày 11/10/X. Phần mức trách nhiệm hoàn toàn bỏ trống.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm trong vụ tai nạn giao thông này hay không?
Tình tiết bổ sung
Về phía các nguyên đơn trong vụ kiện dân sự, Nguyễn Văn Vinh và Nguyễn Thị Ba đã kê ra các khoản
tiền hại sau đây:
1/Nguyễn Văn Vinh:
- Thuốc điều trị:
262.000 đ
- Tiền công lao động: 45 ngày x 40.000 đ/ngày

Tổng cộng:
1.800.000 đ
- Tiền ăn 45 ngày x 25.000 đ/ngày 1.005.000 đ
Tổng cộng:
3.187.000 đ
2/ Nguyễn Thị Ba:
- Tiền thuốc:
2.518.000 đ
- Tiền công chăm sóc: 60 ngày x 40.000đ/ngày
Tổng cộng:
2.400.000 đ
- Tiền xe đi lại:
300.000 đ
- Tiền công lao động:
60 ngày x 30.000 đ/ngày
1.800.000 đ
Tổng cộng:
10.500.000đ.
3/ Tiền sửa xe:
300.000 đ
Tổng cộng toàn bộ số tiền yêu cầu bồi thường là 13.987.000 đồng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu bồi thường của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Phía bị đơn, anh Trần Văn Công cho rằng trước khi xảy ra tai nạn, anh Vinh đã điều khiển xe đi lấn sang
phần đường của anh Công, làm anh Công phải lách qua trái gây tai nạn. Do vậy, anh Công không chấp nhận bồi
thường thiệt hại cho anh Vinh vì anh Vinh cũng có lỗi trong tai nạn giao thông. Riêng chị Ba là người ngồi sau nên
anh Công chấp nhận bồi thường cho chị Ba số tiền thuốc điều trị là 2.518.000 đồng. Ngoài ra anh Công không
chấp nhận bồi thường bất kỳ một khoản nào khác. Anh Công là nông dân, hiện tại đang bị thương tích cũng rất
nặng và khó có khả năng để thực hiện việc bồi thường.

Câu hỏi 8: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) về việc xác định trách nhiệm bồi thường trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tòa án đã mở phiên tòa giải quyết vụ án. Triệu tập tham gia phiên tòa có anh Công, anh Vinh, chị Ba và
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh Vinh, chị Ba.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Tòa án đã triệu tập đầy đủ những người phải tham gia tố tụng hay chưa?
Tình tiết bổ sung
Có ý kiến cho rằng, trong vụ án này, Tòa án cần phải triệu tập cơ quan bảo hiểm tham gia tố tụng.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Trong trường hợp đồng ý với quan điểm này, anh, chị hãy trình bày lập luận của mình để thuyết phục hội
đồng xét xử hoãn phiên tòa để triệu tập thêm cơ quan bảo hiểm.
Bài giải
Câu 1:
Về hình sự không khởi tố. Về dân sự, các bên phải thương lượng, kiện hay không là quyền của các bên. Sau
khi thụ lý vụ án, Tòa sẽ yêu cầu công an cung cấp hồ sơ. Chứ công an không có tự động chuyển hồ sơ.
Câu 2:
Nên viết riêng đơn kiện. Tòa án sẽ gom và xử chung 1 vụ.
Câu 3:
Giấy tờ gồm:
18


-Chứng thương, hóa đơn thuốc men,..
-Giấy tờ khác
-Chứng minh nhân dân, hộ khẩu
Câu 4:
Công an trả xe đúng theo quy định tại điều……..BLHS về xử lý tang vật.
Câu 5:
Tài liệu này có ý nghĩa:

Theo điều 623 BLDS 2005: Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải liên đới bồ thường. (Hiện nay cũng có
nhiều cách hiểu, nhiều tranh cãi). Do đó, xe trả ra rồi, không được chuyển cho Tòa án để đảm bảo thi hành án cũng là
điều bất lợi cho nguyên đơn. Nhưng không sao. Nguyên đơn có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tại thời, kê
biên sau chiếc xe này….
Câu 6:
Mức trách nhiệm bồi thường bị bỏ trống, thể hiện sự sai sót khi viết giấy này. Nhưng thực tế vẫn làm phát
sinh trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm –bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3, căn cứ theo hợp đồng đã ký.
Câu 7, 8:
Áp dụng điều 608, 609 BLDS 2005.
Câu 9:
Còn thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan:
-Bà Trần Thị Ánh Hồng là chủ xe nguồn nguy hiểm cao độ đã gây ra thiệt hại.
-Cơ quan bảo hiểm
Câu 10:
-Bảo hiểm phải bồi thường vì:
+đã kí hợp đồng bảo hiểm
+đã phát sinh sự kiện bảo hiểm
-Bảo hiểm là người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan
--- Tòa cần hoãn xử để triệu tập Bảo hiểm
---------------------------------------------------------------------------------ĐỀ SỐ 7 (Mã số LS.DS/TN-07/240)
Mã số: LS.DS/TN-07/240
-----------------*--------------Theo lời trình bày của anh Trần Văn Khoa: Ngày 18/11/X-4 anh vay của bà Phương ở xã Tân Lý, huyện
C, Tiền Giang 13 chỉ vàng. Hai bên thỏa thuận mỗi quý trả lãi là 2.5 chỉ vàng. Anh trả lãi đến tháng 2/X-3 thì
ngưng. Tháng 4/X-2 phía bà Phương ngang nhiên chiếm 500m2 đất trên phần diện tích 990m2 đất thuộc quyền sử
dụng của anh Khoa (Mảnh đất 990m2 này anh Khoa đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
01041/QSDĐ ngày 20/4/1998 tọa lạc tại xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang). Bà Phương tuyên bố với vợ chồng anh
lấy đất để cấn trừ nợ. Sau đó bà Phương đã xây nhà cho con là vợ chồng chị Hà Minh ở trên diện tích 300m 2.
Ngoài ra, phần còn lại 200m2 bà Phương tự cho ông Luật thuê, thu lợi. Anh Khoa đã nhiều lần yêu cầu bà Phương,
vợ chồng chị Hà Minh trả đất nhưng bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh không trả. Đầu năm X-1 vợ chồng chị
Hà Minh đổ đất và vật liệu xây dựng nhà kiên cố trên đất, vợ chồng anh Khoa đã phản đối quyết liệt, hai bên xô

sát công an xã Tân Lý đã đến lập biên bản yêu cầu các bên giữ nguyên hiện trạng chờ giải quyết. Nay, anh Khoa
yêu cầu bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh dỡ nhà trả lại cho vợ chồng anh toàn bộ diện tích đất lấn chiếm. Số
tiền vợ chồng anh Khoa nợ là 13 chỉ vàng 24k vợ chồng anh Khoa sẽ trả nếu bà Phương yêu cầu
Ngày 1/3/X anh Khoa đến nhờ anh (chị) khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Câu hỏi 1: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Phương và chị Hà Minh: Vào năm X-4, anh Khoa có vay của vợ chồng bà
Phương 13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN diện tích 0,41ha để làm ăn. Sau
đó, năm X-3, X-2 vợ chồng anh Khoa nhiều lần đến vay tiền và vàng. Việc vay mượn những lần tiếp theo này hai
bên không làm biên nhận và không lập hợp đồng. Cứ 4 tháng một lần chị Diệp (vợ anh Khoa) viết giấy cộng trả
lãi (lãi 4%) tổng cộng 6 lần: lần 1 là 0,5 chỉ vàng 24K; lần 2 là 8,5 chỉ vàng 24K; lần 3 là 3 triệu đồng; lần 4 là 1
triệu đồng; lần 5 là 7 triệu đồng; lần 6 là 2,5 chỉ vàng 24K. Ngoài ra, còn mượn thêm 10 triệu đồng không làm
giấy biên nhận. Tổng cộng vàng và tiền quy ra vàng là 7,3 cây tiền vốn và lãi trả hàng tháng. Bà Phương đã đòi
nhiều lần nhưng vợ chồng anh Khoa không trả. Vì vậy, 2 bên thỏa thuận sang nhượng diện tích đất 500m 2 vì chỗ
quen biết nên không làm giấy tờ. Sau khi sang nhượng bà Phương tiến hành san lấp mặt bằng và trồng chuối dừa,
tổng chi phí là 18 triệu đồng. Năm X-2 bà Phương cho anh Luật thuê mặt bằng sửa xe trong thời hạn 3 năm. Bà
Phương yêu cầu được tiến hành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Vụ kiện này có nhiều ý kiến về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:
(i) Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
(ii) Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản;
(iii) Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
19


Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong hồ sơ vụ kiện này?
Tình tiết bổ sung

Qua xác minh về nguồn gốc và diện tích đất, địa chính xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang cho biết diện tích
đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của vợ chồng anh Khoa. Ngoài ra, anh Khoa còn thế chấp quyền sử dụng đất
này tại ngân hàng T, huyện C, Tiền Giang. Tòa án nhân dân huyện C, Tiền Giang đã gửi thông báo thụ lý vụ kiện
đến ngân hàng T nhưng Ngân hàng T đã có công văn từ chối tham gia tố tụng. Ngân hàng T cho rằng đợi đến hạn
nếu vợ chồng anh Khoa không thực hiện việc trả nợ, ngân hàng T sẽ khởi kiện thành một vụ kiện khác.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà Phương và anh Khoa đều thừa nhận năm X -4 anh Khoa có vay của vợ chồng bà Phương
13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN diện tích 0,41ha để làm ăn.
Ngoài ra, theo bà Phương: Tổng cộng các lần anh Khoa vay tiếp theo cả vốn và lãi tính đến tháng 4 năm X-3
là 35 triệu đồng. Bà Phương xuất trình cho Hội đồng xét xử giấy tính nợ do chị Diệp vợ anh Khoa viết nhưng
không có chữ ký của chị Diệp ở dưới tờ văn bản nhận nợ này. Vì không có khả năng trả được nợ nên vợ chồng
anh Khoa đã đồng ý cắt đất giao cho bà Phương. Diện tích đất giao được 2 bên xác định tương đương với số vàng
và tiền anh Khoa vay vào thời điểm vay. Anh Khoa đã tự nguyện làm hàng rào để xác định ranh giới đất giao cho
bà Phương. Sau đó bà Phương cùng vợ chồng chị Hà Minh tiến hành xây dựng nhà, việc xây dựng nhà kéo dài 2
tháng, anh Khoa không ngăn cản, đồng thời cũng không bị cơ quan chức năng xử phạt vi phạm hành chính. Bà
Phương cho rằng bà không lấn chiếm đất của anh Khoa. Đây là sự thỏa thuận đồng tình chuyển nhượng đất bằng
miệng. Bà Phương yêu cầu anh Khoa tiếp tục lập thủ tục sang tên đất cho bà.
Anh Khoa không thừa nhận số nợ 35.000.000 đồng như bà Phương khai. Anh Khoa chỉ thừa nhận có nợ
13 chỉ vàng 24 K, vợ chồng anh đã trả lãi đến năm 2. Việc anh đưa sổ nông nghiệp kê khai nộp thuế cho bà
Phương để làm tin không thể xem là thế chấp và nếu thế chấp cũng trái pháp luật. Anh Khoa khẳng định không
hề cắt đất để cấn trừ nợ cho bà Phương, không có bất kỳ một văn bản nào thể hiện sự thỏa thuận về việc chuyển
nhượng đất giữa hai bên. Thực tế, anh Khoa vẫn đứng tên chủ sử dụng hợp pháp diện tích đất tranh chấp này.
Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, chị Diệp không thừa nhận chữ viết trên giấy tính nợ mà bà Phương xuất trình cho Hội đồng
xét xử là của chị Diệp. Vì vậy, bà Phương đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để giám định chữ viết của chị
Diệp làm căn cứ để giải quyết vụ án.

Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của bà Phương có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Phương phân tích rằng: Có việc vay nợ tiền vàng giữa anh
Khoa và chị Phương. Sau đó anh Khoa cắt đất cấn trừ nợ, hiện tại bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh đã xây
dựng nhà kiên cố và cho ông Luật thuê làm cơ sở hàn gò. Việc xây dựng nhà của bà Phương phía nguyên đơn
không xuất trình được bất cứ một giấy tờ gì để chứng minh bị cơ quan chức năng xử phạt vi phạm hành chính đối
với việc xây dựng của bà Phương. Vì vậy, có căn cứ để xác định có việc thỏa thuận chuyển nhượng đất miệng giữa
bà Phương và vợ chồng anh Khoa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào mục b3, tiểu mục 2.3, mục 2, phần II, Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC buộc anh Khoa tiếp tục thực hiện
hợp đồng.
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng anh Khoa tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày 29/12/X của TAND huyện C, Tiền Giang đã quyết định:
“1. Bác yêu cầu khởi kiện của anh Khoa;
Buộc anh Khoa phải có nghĩa vụ lập thủ tục tách quyền sử dụng đất cho bà Phương diện tích 500m 2 đất trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01041/QSDĐ/1541/QĐ-UB ngày 30/5/1998 cấp cho hộ anh Khoa (kèm theo
sơ đồ);
2. Bà Phương được quyền đăng ký kê khai diện tích đất theo quyết định đã tuyên. Thời gian thực hiện khi án
có hiệu lực pháp luật;
3. Kiến nghị UBND huyện C điều chỉnh diện tích đất theo khoản 3 của quyết định này;
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự”.
Anh Khoa không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày 29/12/X của TAND
huyện C, Tiền Giang và muốn kháng cáo toàn bộ bản án này.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn kháng cáo.
20



Câu 1:
-Tòa án: Huyện C
-Nguyên đơn: anh Khoa
-Bị đơn: bà Phương
-Người liên quan:
+ông Luật
+vợ chồng Hà Minh
-Nội dung đơn kiện: Như đề bài
-Yêu cầu của nguyên đơn: Trả lại 500m2 đất
Câu 2:
Chọn (iii).
Câu 3:
Cần chứng minh:
-Có việc vay không?
-Có việc thế chấp đất không?
-Có việc chuyển nhượng đất trừ nợ không?
Câu 4:
Tư các đương sự như câu 1, bổ sung Ngân hàng vào người liên quan.
Câu 5:
Trọng tâm các vấn đề cần hỏi và tranh luận:
-Có việc vay không?
-Có việc thế chấp đất không?
-Có việc chuyển nhượng đất trừ nợ không?
-Tại sao các bên lại vi phạm về hình thức và trình tự thủ tục hợp đồng vay, hợp đồng chuyển nhượng đất?
Câu 6:
Việc giám định là cần thiết để làm sáng tỏ nội dung vụ án. Áp dụng điều 91 BLTTDS.
Câu 7:
Luật sư đã lập luận đúng. Tùy khả năng của từng người, tìm những lý lẽ và cơ sở khác để “vớt vát” chút đỉnh.
Câu 8:
-Kính gửi Tòa án huyện C, và Tòa án tỉnh Tiền Giang

-Nội dung kháng cáo cần làm rõ: Việc chuyển nhượng là bất hợp pháp

ĐỀ SỐ 8 (Mã số LS.DS/TN-08/240)
Mã số: LS.DS/TN-08/240
-----------------*--------------Theo lời trình bày của Bà Kim: Căn nhà số 4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H có nguồn gốc là của
ông Hoàng Văn Nam và bà Phan Thị Khánh. Bà Khánh chết ngày 08/8/2002, ông Nam chết ngày 01/6/2004. Ông
Nam, bà Khánh có hai con chung là chị Thu hiện cư trú tại số nhà 38 phố T, quận M, Tp. H và anh Hoàng Văn
hiện đang định cư tại Hoa Kỳ.
Ngày 01/8/2004 chị Thu và bà Kim có thỏa thuận lập hợp đồng chuyển nhượng căn nhà số 4/61 Lê Đức Thọ,
phường X, quận G, Tp. H cho bà Kim, trị giá nhà bán là 1 tỷ đồng. Hợp đồng được lập thành văn bản nhưng
không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo thỏa thuận hợp đồng bà Kim đã trả trước cho chị
Thu số tiền 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng). Sau khi nhận được khoản tiền này chị Thu có giao
cho bà Kim 01 (bản sao) giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đứng tên ông Hoàng Văn Nam (giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 7135/2002 ngày 18/3/2002); 01 tờ khai sử dụng đất ngày 23/5/2003;
tờ cam kết ngày 01/8/2004 đã được sự thỏa thuận đồng ý của em chị Thu là anh Hoàng Văn cho chị Thu được
toàn quyền định đoạt căn nhà này. Sau khi bà Kim giao tiền, chị Thu viết giấy biên nhận tiền và hẹn 02 tháng khi
làm xong giấy tờ nhà giao cho bà Kim thì bà Kim trả hết số tiền còn lại cho chị Thu là 350.000.000 đồng (ba trăm
năm mươi triệu đồng). Chị Thu cam kết: “Nếu có gì thay đổi không thực hiện đúng như thỏa thuận trong hợp đồng
thì chị Thu sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường cho bà Kim thỏa đáng”.
Sau 2 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, chị Thu đã không thực hiện các thỏa thuận trong hợp đồng. Bà Kim
đã nhiều lần đàm phán yêu cầu chị Thu thực hiện hợp đồng nhưng chị Thu đưa ra nhiều lý do về việc chậm thực
hiện nghĩa vụ của mình. Ngày 06/5/2005 chị Thu thương lượng với bà Kim đề nghị đưa thêm 85.000.000 đồng
(tám mươi lăm triệu đồng), chị Thu hứa sẽ giao nhà vào cuối tháng 7/2005 và tự ý viết giấy thực hiện giao tiền lần 2
đưa cho bà Kim cùng với giấy đồng ý để bà Kim đến gặp bà Đồng Thị Thảo (người đã nhận cầm giấy tờ nhà của
chị Thu) để bà Kim đến chuộc lại giấy tờ nhà nói trên và khi giao nhà thì bà Kim chỉ còn phải giao nốt số tiền mua
21


nhà là 260.000.000 đồng (hai trăm sáu mươi triệu đồng). Do chị Thu đã không thực hiện đúng việc thỏa thuận ban
đầu nên bà Kim đã không chấp nhận đề nghị này của chị Thu.

Ngày 20/7/X bà Kim muốn khởi kiện ra Tòa xin hủy hợp đồng mua bán nhà, yêu cầu chị Thu thanh toán lại
số tiền đã nhận cho bà là 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng).
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Thu soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho phía nguyên đơn
Tình tiết bổ sung
Tòa án thụ lý vụ án, sau khi nhận được thông báo về vụ kiện. Chị Thu có đơn trình bày gửi Tòa với nội
dung: Căn nhà 4/61 Lê Đức Thọ là của cha mẹ chị là ông Hoàng Văn Nam và bà Phan Thị Khánh đã chết để lại,
chị không có quyền quyết định. Năm 2003 chị Thu đã thế chấp giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G,
Tp. H cho bà Đồng Thị Thảo để vay số tiền 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) với lãi suất 13%/tháng. Chị
Thu xác nhận có ghi hợp đồng bán nhà cho bà Kim với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), theo hợp đồng chị
Thu đã nhận trước 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng) nhưng thực tế chị Thu cho rằng chị không
nhận số tiền này. Chị Thu khẳng định chỉ có nợ của bà Kim số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng), không
có giấy nợ. Nay chị Thu chỉ đồng ý trả nợ cho bà Kim số tiền 70.000.000 đồng bằng cách trả góp mỗi tháng 2 triệu
đồng.
Anh Hoàng Văn gửi đơn trình bày với nội dung: Hợp đồng mua bán nhà ngày 01/8/2004 do chị Thu lập là
không hợp lệ, anh Văn không hề có sự ủy quyền nào cho chị Thu được toàn quyền định đoạt căn nhà này. Anh
được biết chị Thu viết giấy mua bán nhà theo yêu cầu của bà Kim, thực tế chị Thu không nhận tiền. Nay có việc
tranh chấp giữa bà Kim với chị Thu về việc đòi tiền, anh Văn không liên quan.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án này?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Thảo: Ngày 20/7/2003 chị Thu có nhờ bà vay số tiền 80.000.000 đồng. Khi vay chị
Thu có thế chấp giấy tờ nhà do ông Hoàng Văn Nam đứng tên chủ quyền, 01 tờ khai sử dụng đất, 01 giấy chứng
minh nhân dân của chị Thu. Đến nay chị Thu cũng chưa trả nợ cho bà nên bà Thảo đã thế chấp toàn bộ giấy tờ
nhà trên cho bà Lê Thủy Tiên để vay số tiền 120.000.000 đồng thanh toán nợ mà bà đã vay. Nay chị Thu muốn
bán nhà thì phải trả số tiền nợ trên để nhận lại toàn bộ giấy tờ nhà.

Bà Lê Thủy Tiên khai: Ngày 20/6/2004 bà có cho bà Đồng Thị Thảo vay số tiền 120.000.000 đồng (một trăm
hai mươi triệu đồng), lãi suất 1,5%/tháng. Bà Thảo có giao cho bà một số giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ phường X,
quận G, Tp. H (bản chính). Bà Thảo hẹn vài tháng sẽ trả nợ nhưng từ đó đến nay cũng chưa trả nợ vốn và lãi cho
bà. Nay, bà Tiên đồng ý giao toàn bộ hồ sơ nhà lại cho bà Thảo với điều kiện bà Thảo phải trả lại tiền nợ vay cho
bà. Đối với việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa bà Kim với chị Thu, bà không liên quan.
Theo đơn trình bày của anh Hoàng Văn, anh đề nghị Tòa án giải quyết thu hồi toàn bộ giấy tờ nhà 4/61 Lê
Đức Thọ phường X, quận G, Tp. H do chị Thu đã thế chấp vay nợ của bà Đồng Thị Thảo năm 2003 số tiền
80.000.000 đồng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của anh Hoàng Văn có được giải quyết ngay trong vụ án này không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, chị Thu cho rằng khi chị viết hợp đồng mua bán nhà với bà Kim là do chị bị áp lực và do bà
Kim ép buộc. Việc ép buộc này có chính quyền địa phương biết. Thực tế chị Thu không có nhận số tiền như chị đã
ghi trong hợp đồng là đã nhận trước số tiền của bà Kim giao là 650.000.000 đồng. Chị Thu chỉ thừa nhận nợ của
bà Kim số tiền 70.000.000 đồng. Nay chị Thu xin trả dần mỗi tháng 2 triệu đồng.
Hội đồng xét xử công bố các chứng cứ có trong hồ sơ, ngoài hợp đồng mua bán nhà ngày 01/8/2004, ngày
24/11/2004 chị Thu có làm giấy hẹn là “tháng 2/2005 chị Thu sẽ giao giấy tờ nhà, bà Kim sẽ giao tiền cho chị Thu
và chị Thu giao nhà cho bà Kim”; ngày 06/5/2005 chị Thu lập hợp đồng mua bán nhà tiếp tục giao tiền lần hai với
số tiền là 85.000.000 đồng. Hẹn 01 tháng kể từ ngày nhận tiền lần hai sẽ sang tên chính thức chủ quyền nhà 4/61
Lê Đức Thọ cho bà Kim và bà Kim sẽ giao hết số tiền còn lại 260.000.000 đồng, hẹn cuối tháng 7 sẽ giao nhà cho
bà Kim. Chị Thu đề nghị hoãn phiên tòa để xác minh tại chính quyền địa phương về việc hợp đồng giao kết giữa
chị Thu với bà Kim là bị áp lực và do ép buộc.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu của chị Thu có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh tại ủy ban nhân dân phường X, quận G, Tp. H : UBND không biết việc bà Kim dùng áp lực
buộc chị Thu phải viết giấy bán nhà. Ủy ban nhân dân phường không nhận được đơn khiếu nại nào của chị Thu
về việc này.

22


Tại phiên tòa, Luật sư của chị Thu xuất trình xác nhận của Công an phường X, quận G, TP. H xác nhận
ngày 16/8/2005, chị Thu có gởi đơn tố cáo bà Kim đe dọa và ép buộc chị Thu ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, Công an
phường X xét thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết nên Công an phường không thụ lý vụ việc. Luật sư của chị
Thu cho rằng, bà Kim hoàn toàn có lỗi trong việc thực hiện giao dịch chuyển nhượng này.
Câu hỏi 8: (2 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho bà Kim tại phiên tòa sơ thẩm.
Câu 1:
Tòa án nhân dân quận G.
Câu 2:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Quận G, ngày tháng năm
ĐƠN KHỞI KIỆN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G
Nguyên đơn:
-Họ tên: bà Kim
-Địa chỉ:
Bị đơn:
-Họ và tên: bà Thu
-Địa chỉ:
Nội dung đơn khởi kiện:
(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
Yêu cầu Quý Tòa buộc bị đơn trả nợ gố là 650.000.000 đồng và lãi phát sinh là………………
Chứng cứ kèm theo:
-Hợp đồng vay…
Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.

Nguyên đơn
Câu 3:
Như câu 1, 2 bổ sung Người liên quan là bà Thảo và ông Hoàng Văn.
Câu 4:
Trọng tâm:
1-Nhà của ai?
2-Thu có thế chấp cho Thảo k?
3-Thu có bán nhà cho Kim?
4-Số tiền Thu nhận là bao nhiêu?
Câu 5:
Câu 6:
Có quyền. Để làm sáng tỏ vụ án.
Câu 7:
Như câu 4, cần làm rõ thêm vụ 70 triệu
Câu 8:
Các nội dung chính:
-Bà Thu có bán nhà cho bà Kim
-Bà Kim có giao 650.000.000 đồng cho bà Thu
-Bà Kim không hề đe dọa, ép buộc bà Thu ký hợp đồng
-Yêu cầu bà Thu trả lại 650.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại,…
Mã số: LS.DS/TN-12/240
-----------------*--------------Theo lời trình bày của chị Nguyễn Thị Tuyết ngày 2/6/X: Chị xây dựng gia đình với anh Bình năm 1985 có
tìm hiểu có đăng ký kết hôn ngày 07/01/1985 tại UBND xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương. Sau khi cưới, vợ chồng
sống bình thường, đến năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do kinh tế khó khăn, anh
Bình không có công ăn việc làm nên hay la cà quán xá, rượu say về đánh đập chị Tuyết và đuổi chị Tuyết ra khỏi
23


nhà. Từ năm 2003 đến nay, chị phải đi thuê nhà tại thị trấn M, huyện T, Hải Dương để ở và mở cửa hàng gội đầu
để kiếm tiền nuôi con. Vợ chồng chị sống ly thân đã 5 năm. Nay chị Tuyết xác định tình cảm vợ chồng không còn

nên xin được ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc Thái sinh ngày 15/2/1986 và cháu Nguyễn
Kiều Ngân sinh ngày 08/04/1990. Khi ly hôn các cháu ở với ai chị Tuyết cũng đồng ý, nếu ở với chị thì chị không
yêu cầu anh Bình cấp dưỡng nuôi con, nếu các cháu ở với anh Bình thì chị cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 200.000
đồng.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 ti vi sony, 1tủ, 1 đầu video. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị được cấp đất
dãn dân với diện tích là 220m2 đất tại xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương. Anh Bình, chị Tuyết đóng gạch xây một nhà
cấp 4, bếp, công trình phụ. Diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Bình.
Năm 1998 vợ chồng anh chị đã bán cho vợ chồng anh Tính 55m 2 đất được 37.000.000đ, cả hai vợ chồng ký giấy
bán, hợp đồng chuyển nhượng không qua công chứng chứng thực, khi ly hôn chị không tranh chấp gì với hợp
đồng này. Vợ chồng không nợ nần gì ai và cũng không cho ai nợ nần gì. Ngoài ra vợ chồng và cháu Thái, cháu
Minh còn được cấp 2100m2 đất cấy lúa tại xã H, huyện B, Hải Dương. Nhà nước đã lấy hơn 300m 2 đất cấy lúa vào
các dự án. Tiền đền bù anh Bình cầm hết, nay còn hơn 1000m 2 đất cấy lúa. Chị Tuyết đề nghị Toà chia cho chị để
chị có ruộng cấy lúa. Khi ly hôn các đồ dùng sinh hoạt đã cũ nên chị Tuyết để anh Bình sử dụng. Chị Tuyết chỉ đề
nghị Toà chia phần đất để chị làm nhà ở và chia đất để chị cùng các con cấy lúa.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết yêu cầu của chị Tuyết.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp chị Tuyết soạn thảo đơn xin ly hôn và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho chị Tuyết.
Tình tiết bổ sung
Sau khi nhận được thông báo của Tòa án về việc thụ lý giải quyết vụ án ly hôn của chị Tuyết, anh Bình có
văn bản ghi ý kiến trình bày: Thời gian và điều kiện kết hôn như cô Tuyết trình bày là đúng. Năm 2000 vợ chồng
có va chạm về kinh tế, cô Tuyết xúc phạm tôi, tôi có bảo nếu không ở được thì đi, nên cô Tuyết đã bỏ nhà đi, cô
Tuyết viết đơn ly hôn ra xã, xã hoà giải cô Tuyết về được 3 năm đến năm 2003 cô Tuyết lại bỏ nhà đi, nay cô Tuyết
xin ly hôn, tôi xác định tình cảm không còn tôi đồng ý ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như cô Tuyết trình bày. Khi ly hôn tôi xin được nuôi cả hai con,
việc cấp dưỡng nuôi con là tuỳ cô Tuyết.
Về tài sản chung: Các đồ dùng sinh hoạt như cô Tuyết trình bày là đúng. Riêng về đất thì năm 1985 xã cấp
đất dãn dân tiêu chuẩn thương binh cho tôi. Năm 1997 chúng tôi trồng cây bị thua lỗ nên vợ chồng tôi đã bán cho
vợ chồng anh Tính, chị Nguyệt 55m2 đất để trả nợ, vợ chồng tôi không tranh chấp gì hợp đồng chuyển nhượng đất

này. Đến nay vợ chồng tôi không nợ nần gì ai. Khi ly hôn tài sản chung vợ chồng đề nghị chia đôi, riêng mảnh đất
là tài sản riêng của tôi, còn nhà là của mẹ tôi. Đề nghị Toà không chia nhà đất. Phần ruộng cấy lúa xã cấp cho 4
người gồm tôi, cô Tuyết, cháu Thái, cháu Ngân mỗi người 1,5 sào. Khi Nhà nước lấy 1 sào đất để đưa vào dự án đã
đền bù tiền, số tiền này tôi đã trả nợ hết. Cô Tuyết bỏ không cấy nhiều năm nay, vì vậy đề nghị Toà chia cho hai
cháu Thái và Ngân mỗi cháu 1,5 sào theo tiêu chuẩn, còn lại Tòa giao cho tôi để tôi có điều kiện sinh sống.
Câu hỏi 3: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định những vấn đề cần chứng minh trong vụ án này.
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Mão (là mẹ đẻ anh Bình): “Anh Bình lấy chị Tuyết năm 1985, tôi xây nhà cấp 4
năm 1986, trên mảnh đất anh Bình được cấp tháng 12 năm 1985, sau đó cho 2 vợ chồng ra đó ở riêng. Quá trình ở
anh chị không có công sức gì ngoài làm giếng khoan nhưng đã hỏng. Nếu anh chị ly hôn phải trả lại giá trị nhà
cho tôi”.
Anh Tính, chị Nguyệt cũng có văn bản trình bày gửi Tòa: Năm 1997 vợ chồng tôi mua của vợ chồng chị
Tuyết, anh Bình 55m2 đất với giá 45.000.000đ. Chúng tôi đã xây nhà ăn ở ổn định. Nay vợ chồng chị Tuyết ly hôn
đề nghị Toà bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng tôi. Chúng tôi xin được vắng mặt tại Toà.
Câu hỏi 4: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án.
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh tại chính quyền địa phương thì cuối năm 1985 xã có chủ trương cấp đất dãn dân cho các hộ
gia đình. Thời điểm này anh Bình mới xây dựng gia đình với chị Tuyết, do anh Bình là thương binh nên được ưu
tiên được gắp thăm nhận đất trước. Khi làm ăn thua lỗ cả hai vợ chồng cùng thỏa thuận chuyển nhượng đất cho
vợ chồng anh Tính 55m2. Đất cấy lúa gia đình anh Bình có 4 nhân khẩu gồm anh Bình, chị Tuyết, cháu Thái, cháu
Ngân được cấp 2.100m2. Sau đó Nhà nước lấy đất làm các công trình phúc lợi, gia đình anh Bình cũng bị thu hồi
281m2 đất và được đền bù, tiền do anh Bình đại diện hộ gia đình nhận. Riêng 170m 2 đất cũng nằm trong diện giải
toả và đã có phương án đền bù nhưng chưa nhận tiền, do vậy vẫn còn 1.725m2 là tiêu chuẩn của 4 nhân khẩu.
Anh Bình khẳng định đất ở cấp cho riêng anh, nhà do mẹ anh bỏ tiền ra xây, về ngôi nhà cấp 4 chị Tuyết
có công đóng gạch để xây nhà, và từ khi hai vợ chồng ra ở riêng có làm các công trình phụ như xây bếp, láng sân.
Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tài sản chung của vợ chồng chị Tuyết.
Câu hỏi 6: (1 điểm)

24


Xác định những vấn đề cơ bản cần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu và quan điểm của mình. Kết quả thẩm vấn tại phiên tòa thể
hiện đất tranh chấp thuộc loại đất dãn dân, cấp cho hộ gia đình anh Bình, chị Tuyết.
Bà Mão khẳng định đất chỉ cấp riêng cho anh Bình, chứng cứ là giấy tờ đất chỉ đứng tên anh Bình. Về nhà
ở, năm 1986 chị Tuyết và anh Bình mới lấy nhau chưa có tài sản nên bà Mão xây nhà hai gian, sau này do xã cấp
tiền chính sách thương binh nên anh Bình có xây thêm một gian nhà, vì vậy đề nghị chia giá trị ngôi nhà là 4
phần, của bà Mão 2 phần, anh Bình 1 phần, chị Tuyết 1 phần để hỗ trợ cho chị Tuyết khi ly hôn.
Câu hỏi 7: (2 điểm)
Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy viết bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chị Tuyết tại phiên tòa sơ thẩm.
Tóm tắt:
Chị Nguyễn Thị Tuyết kết hôn với anh Bình năm 1995 (có đăng ký kết hôn ngày 07/01/1985 tại UNND xã H, huyện
B, Tỉnh Hải Dương). Vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn (Kinh tế gia đình khó khăn,
anh Bình không có việc làm, hay la cà quán xá nhậu nhẹt, say rượu đánh đập và đưổi chị Tuyết ra khỏi nhà). Từ
năm 2003 đến nay chị Tuyết đi thuê nhà ở Thị trấn M huyện B, Tỉnh Hải Dương để mở tiệm gội đầu. Vợ chồng
C.Tuyết đã ly thân 05 năm, nay C.Tuyết xin ly hôn.
Về con chung: Cháu Nguyễn Quốc Thái – SN: 15/02/1986
Cháu Nguyễn Kiều Ngân – SN: 08/04/1990
C.Tuyết không tranh chấp về vấn đề nuôi con và cấp dưỡng, nếu các con ở với anh Bình thì C.Tuyết đồng ý cấp
dưỡng 200 ngàn/tháng/người.
Về Tài sản chung:
- Vật dụng: 01 Tivi Sony; 01 Tủ Lạnh; 01 đầu video (Phần này C.Tuyết để anh Bình sử dụng).
- Một mảnh đất 220 m2 tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (đất được cấp dãn dân sau khi kết hôn) trên đất có một
căn nhà cấp 4, bếp và công trình phụ do chị tuyết đóng gạch xây dựng. Miếng đất trên được cắt 55m2 bán cho
người khác được sự đồng ý của 2 vợ chồng, dù hợp đồng mua bán không có công chứng nhưng C.Tuyết không
tranh chấp gì hợp đồng này. C.Tuyết đề nghị tòa chia phần đất này để chị làm nhà ở.

- 2100 m2 đất cấy lúa tại xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương (nhà nước cấp cho 2 vợ chồng và 02 con để gieo gặt),
sau đó nhà nước thu hồi 300 m2 và đã đền bù cho Gia đình C.Tuyết (số tiến này do anh Bình giữ), nay còn
khoảng hơn 1000 m2 C.Tuyết đề nghị tòa chia phần đất này để chị và các con canh tác.
Hai vợ chồng không nợ nần gì ai.
Câu 1: Xác định tòa có thẩm quyền thụ lý, giải quyết yêu cầu của C.Tuyết ?
Căn cứ điểm a khoản 1Đ 33 và khoản 1 điều 35 BLTTDS thì tòa án có thẩm quyền thụ lý, giải quyết yêu cầu của C.Tuyết
là Tòa án Nhân dân Huyện B, Tỉnh Hải Dương.
Câu 2: Hãy giúp C.Tuyết soạn đơn ly hôn và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho C.Tuyết ?
Đơn xin ly hôn:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ViỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
……., ngày…tháng…năm…
ĐƠN XIN LY HÔN
Kính gửi: Toà án nhân dân Huyện B, Tỉnh Hải Dương
Nguyên đơn:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Tuyết , Ngày sinh…, CMND…;
Địa chỉ: UNND xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương
Bị đơn: Họ và tên:….Bình, Địa chỉ: UNND xã H, huyện B, Tỉnh Hải Dương, CMND:…….
Trình bày nội dung: Tôi kết hôn với anh Bình năm 1995 (có đăng ký kết hôn ngày 07/01/1985 tại UNND xã H, huyện
B, Tỉnh Hải Dương). Vợ chồng tôi sống hòa thuận đến năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn.Kinh tế gia đình khó khăn, anh
Bình không có việc làm lại hay la cà quán xá nhậu nhẹt, say rượu đánh đập và đưổi tôi ra khỏi nhà. Từ năm 2003 đến nay
tôi đi thuê nhà ở Thị trấn M huyện B, Tỉnh Hải Dương để mở tiệm gội đầu. Tính đến nay Vợ chồng tôi đã ly thân 05
năm, xét thấy tình cảm vợ chồng không thể cứu vãn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không
đạt được, nay tôi làm đơn này đề nghị tòa án xem xét cho chúng tôi được ly hôn. Chúng tôi có 02 con chung là háu
Nguyễn Quốc Thái – SN: 15/02/1986 và cháu Nguyễn Kiều Ngân – SN: 08/04/1990.
Về Tài sản chung, chúng tôi có:
25



×