Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

bai giang quản trị doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 64 trang )

CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC
QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
Mã số của môn học: MH 16
Thời gian của môn học: 30 giờ.

(LT: 19giờ; BT: 9giờ; KT: 2giờ)

I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT MÔN HỌC
- Vị trí:
+ Môn học Quản trị doanh nghiệp được bố trí sau khi sinh viên đã học xong các
môn học như chính trị, pháp luật.
+ Môn học cơ sở bắt buộc trước khi sinh viên học các môn chuyên môn nghề.
- Tính chất:
+ Là môn học cơ sở thuộc các môn học đào tạo nghề bắt buộc.
+ Là môn học giúp cho sinh viên có khả năng sắp xếp các công việc và phân
phối nguồn lực trong doanh nghiệp đạt hiệu quả.
II. MỤC TIÊU MÔN HỌC:
- Chỉ ra và phân biệt được các loại hình doanh nghiệp đang hoạt động trong nền
kinh tế.
- Vận dụng được công tác dự báo trong sản xuất một cách hiệu quả như: dự báo
nhu cầu nguyên vật liệu, nhân công, máy móc thiết bị, sản phẩm...
- Lập được phương pháp phối hợp các nguồn lực một cách hiệu quả nhất như
với các nguồn lực cho trước phối hợp sao cho sản lượng là lớn nhất hay chi phí là thấp
nhất,...
- Thực hiện được các nguyên tắc sắp xếp các công việc và phân công công việc
trong công ty để đạt hiệu quả cao nhất.
- Vận dụng những kiến thức của môn học để kiểm tra đánh giá hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực
sáng tạo trong học tập.


1


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP
Mục tiêu:
- Trình bày được bản chất và vai trò của doanh nghiệp
- Phân biệt được các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế
- Xác định được nhiệm vụ và quyền hạn của doanh nghiệpkhi đi vào hoạt động.
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực
sáng tạo trong học tập.
1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp hay đúng ra là doanh thương là một tổ chức kinh tế, có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
1.1 Quan điểm nhà tổ chức về doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều
lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn[1].
So với Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp Nhà nước thường được cho là kém
hiệu quả hơn, lợi nhuận thấp hơn. Tuy nhiên, trong khi các công ty tư nhân chỉ phải tối
đa hóa lợi nhuận cho cổ đông, Doanh nghiệp Nhà nước thường phải gồng gánh một số
trách nhiệm xã hội, hoạt động vì lợi ích của người dân, được thành lập để đối phó với
những thất bại của thị trường. Điều đó dẫn đến việc các Doanh nghiệp Nhà nước
không hướng đến và cũng không cần cố gắng tối đa hóa lợi nhuận như các công ty tư
nhân.
1.2 Quan điểm doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp VN
Cũng theo Luật doanh nghiệp 2005 giải thích, Kinh doanh là việc thực hiện liên
tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy
doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có

các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận.
1.3 Đặc điểm của doanh nghiệp
1.3.1 Sự cần thiết và vai trò của kinh doanh:
Hiện nay, mỗi quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà có đủ mọi
thứ được. Vì vậy đòi hỏi họ phải có sự trao đổi diễn ra trên thị trường và thị trường ở
đây không chỉ giới hạn ở trong nước mà còn có sự trao đổi giữa các quốc gia khác
nhau.
Sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ thông qua hành vi mua bán gọi là kinh doanh, là
hình thưc của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hóa riêng biệt của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hiện nay muốn tồn tại và phát triển thì họ phải có khả năng
kinh doanh mà trong kinh doanh có lãi, lỗ ... Các doanh nghiệp hoạt động đều muốn
thu được doanh thu và lợi nhuận cao. Điều đó tất yếu phải tiến hành hoạt động kinh
doanh. Nếu một doanh nghiệp nào mà khả năng kinh doanh kém, không sáng tạo và
2


mọi hoạt động đều mang tính tự phát không theo một quy luật, chính sách nào thì hoạt
động của họ sẽ không đạt kết quả như mong muốn, dẫn tới tình trạng thua lỗ và có khả
năng bị phá sản do nợ nần chồng chất mà không có khả năng thanh toán. Trong kinh
doanh các doanh nghiệp phải có các thủ thuật chiến lược ... để cho nó hoạt động có
hiệu quả nhất.
Kinh doanh đóng một vai trò sống còn của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển nhằm đạt kết quả khả quan cả về doanh số và lợi nhuận. Trong
kinh doanh có các chiến lược và sách lược quan trọng. Các doanh nghiệp vận dụng tốt
sẽ thành công trên con đường kinh doanh của mình. Kinh doanh sẽ giúp cho các Công
ty, doanh nghiệp đứng vững hơn trên thị trường.
Hiện nay, nước ta có hàng loạt các doanh nghiệp được thành lập và hoạt đọng
kinh doanh trên thị trường. Họ đều nhận thức được rằng chỉ có hoạt động kinh doanh
mới đưa doanh nghiệp đến thành công cả về mặt tài chíhn cungx như danh tiếng ...

Trước đây nền kinh tế nước ta còn trong cơ chế tập trung bao cấp cho nên mọi sự trao
đổi hàng hóa đều tập tung và do Nhà nước bao cấp, tư tưởng con người chậm tiến,
chưa nhận thức được vai trò của kinh doanh. Nhưng ngày nay, nước ta chuyển đổi cơ
cấu kinh tế mới đó là cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước. Cơ chế này cho phép
các doanh nghiệp có thể hoạt động trên phạm vi và quy mô rộng lớn và mọi hoạt động
kinh doanh của họ đều phải chịu tách nhiệm với Nhà nước về công việc của mình.
Như vậy ta đã thấy được sự cần thiết và vai trò của kinh doanh nó quan trọng
như thế nào đối với sự sống còn của các doanh nghiệp.
1.3.2 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh:
Hoạt động kinh doanh diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến mọi
mặt của xã hội như hàng hóa - kỹ thuật công nghệ ... Chính vì thế các loại hình doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh rất đa dạng, bao gồm các Công ty nhà nước hay các
doanh nghiệp tư nhân. Trong hoạt động kinh doanh ngày nay giữa các doanh nghiệp
luôn có sự cạnh tranh gay gắt, điều đó thể hiện tính chất sống còn của doanh nghiệp,
có rất nhiều hình thức hoạt động kinh doanh trên thị trường mà các doanh nghiệp sử
dụng, có doanh nghiệp sử dụng hình thức này, có doanh nghiệp sử dụng hình thức kia,
họ cho là hình thức kinh doanh mà mình sử dụng là có hiệu quả, nhưng mục đích cuối
cùng của các doanh nghiệp là doanh số và ln để có khả năng tồn tại và phát triển.
2. Các loại hình doanh nghiệp
2.1 Doanh nghiệp nhà nước
2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập
và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp
quản lý.
3



Doanh nghiệp Nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên
lãnh thổ Việt Nam.
2.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp Nhà nước.
- Là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn và trực tiếp thành lập.
+ Doanh nghiệp Nhà nước đều do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký
quyết định thành lập khi thấy việc thành lập Doanh nghiệp là cần thiết. Việc thành lập
doanh nghiệp Nhà nước dựa trên nguyên tắc chỉ thành lập theo những ngành, lĩnh vực
then chốt, xương sống của nền kinh tế dựa trên những đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế
thời điểm dó và chủ trương của Đảng và ngành nghề lĩnh vực đó.
+Doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước đầu từ vốn nên nó thuộc sở hữu Nhà
nước, tài sản của doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận của tài sản Nhà nước. Doanh
nghiệp Nhà nước sau khi được thành lập là một chủ thể kinh doanh, tuy nhiên chủ thể
kinh doanh này không có quyền sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp mà chỉ là
người quản lý tài sản và kinh doanh trên cơ sở sở hữu của Nhà nước. Nhà nước giao
vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc
bảo toàn và phát triển vốn mà Nhà nước giao.
- Doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước tổ chức quản lý và hoạt động theo mục
tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
+ Nhà nước quản lý doanh nghiệp Nhà nước thông qua cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền theo phân cấp của Chính phủ. Bao gồm những nội dung sau:

Nhà nước quy định mô hình cơ cấu tổ chức quản lý trong từng loại doanh
nghiệp Nhà nước phù hợp với quy mô của nó.

Những quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ cấu tổ chức
trong doanh nghiệp Nhà nước như hội đồng quản trị, Tổng giám đốc...

Những quy định thẩm quyền trình tự thủ tục của việc bổ nhiệm miễn
nhiệm khen thưởng kỷ luật các chức vụ quan trọng của doanh nghiệp như chủ tịch Hội
đồng quản trị.

+ Hoạt động của doanh nghiệp chịu sự chi phối của nhà nước về mục tiêu kinh
tế xã hội do nhà nước giao.
Nếu Nhà nước giao cho doanh nghiệp Nhà nước nào thực hiện hoạt động kinh
doanh thì doanh nghiệp Nhà nước đó phải kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp Nhà
nước nào được giao thực hiện hoạt động công tích thì doanh nghiệp Nhà nước đó phải
thực hiện hoạt động công ích nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội.
- Doanh nghiệp Nhà nước là một pháp nhân chịu trách nhiệm hữu hạn về mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi số vốn Nhà nước giao.
2.1.3 Phân loại doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước được phân loại theo nhiều phương diện, góc độ khác
nhau.
a) Dựa vào mục đích hoạt động gồm:
- Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh: Là doanh nghiệp Nhà nước
hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
4


- Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích: Là doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ quốc tế phòng an ninh.
* Việc phân loại theo tiêu thức này giúp doanh nghiệp tập trung vào mục tiêu
hoạt động chính của mình. Nhà nước có cơ chế quản lý và có chính sách phù hợp với
từng loại doanh nghiệp.
Đồng thời thực hiện việc mở rộng quyền và trách nhiệm của loại doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhằm thực hiện 1 bước việc đưa loại
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh hoạt động trên cùng mặt bằng plý và
bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đảm bảo khả năng
cạnh tranh của loại doanh nghiệp này.
b) Dựa vào quy mô và hình thức gồm:
- Doanh nghiệp Nhà nước độc lập: Là doanh nghiệp Nhà nước không ở trong cơ

cấu tổ chức của doanh nghiệp khác.
- Doanh nghiệp thành viên và Tổng công ty Nhà nước
+ Doanh nghiệp Nhà nước thành viên: Là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu tổ
chức của một doanh nghiệp lớn hơn.
+ Tổng công ty Nhà nước: Là doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn bao gồm
các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công
nghệ, thông tin, đào tạo... trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính
do Nhà nước thành lập nhằm tăng cường, tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn
hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và
hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty, đáp ứng nhu
cầu của nền kinh tế.
c) Dựa vào cách thức tổ chức, quản lý doanh nghiệp, gồm:
- Doanh nghiệp Nhà nước có hội đồng quản trị: Là doanh nghiệp Nhà nước mà
ở đó Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý hoạt động của doanh nghiệp chịu
trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan quản lý Nhà nước được Chính phủ uỷ
quyền về sự phát triển của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp Nhà nước không có hội đồng quản trị: Là doanh nghiệp Nhà
nước mà ở đó chỉ có giám đốc doanh nghiệp theo chế độ thủ trưởng.
2.2 Doanh nghiệp tư nhân
2.2.1. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân:
Là doanh nghiệp do 1 cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân:

doanh
nghiệp
không


cách

pháp
nhân.
Do 1 cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ, chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn
quyền quản lý Công ty.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của
doanh nghiệp.
5


- Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
2.2.3- Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân :
- Quyền quản lý doanh nghiệp : chủ DNTN có toàn quyền quyết định đối với
tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có toàn quyền quyết định việc sử dụng
lợi nhuận sau thuế ; có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý điều hành doanh
nghiệp nhưng phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp: do chủ doanh nghiệp tự khai và có nghĩa
vụ khai báo chính xác. Toàn bộ vốn và tài sản, kể cả vốn vay và tài sản thuê đưa vào
hoạt động kinh doanh đều phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ DNTN có quyền tăng hoặc
giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp
giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký, thì chủ DNTN chỉ được giảm
vốn sau khi đã khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh.
- Cho thuê doanh nghiệp: Chủ DNTN có quyền cho thuê toàn doanh nghiệp
của mình nhưng phải báo cáo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng có công chứng
đến cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế. Trong thời hạn cho thuê, chủ DNTN
vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp.
Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người thuê đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp được quy định trong hợp đồng cho thuê.
- Bán doanh nghiệp tư nhân: Chủ DNTN có quyền bán doanh nghiệp của mình

cho người khác, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán
và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác. Người mua doanh nghiệp phải đăng
ký kinh doanh lại theo quy định của Luật doanh nghiệp.
- Tạm ngừng hoạt động: chủ DNTN có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, nhưng phải báo cáo bằng văn bản về thời hạn tạm ngừng cho cơ
quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế. Trong thời hạn tạm ngừng hoạt động, chủ
doanh nghiệp phải nộp đủ số thuế còn nợ, vẫn phải chịu trách nhiệm với các chủ nợ,
chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đã ký với khách hàng và người lao động trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
2.3 Công ty TNHH
2.3.1 Khái niệm
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
được pháp luật thừa nhận (Luật Doanh nghiệp). Chủ sở hữu công ty và công ty là hai
thực thể pháp lý riêng biệt. Trước pháp luật, công ty là pháp nhân, chủ sở hữu công ty
là thể nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp có không quá 50 thành
viên cùng góp vốn thành lập và công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi nghĩa vụ tài sản của công ty.
2.3.2 Sự hình thành và phát triển của mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn
6


Thế giới
Xét về mặt lịch sử, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn ra đời sau hình
thức công ty cổ phần và càng muộn hơn so với các loại hình công ty đối nhân. Các
công ty theo mô hình của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ thực sự xuất hiện ở cuối thế
kỷ 19 và phát triển mạnh ở thế kỷ 20. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng mô hình công ty
trách nhiệm hữu hạn xuất hiện như là một sản phẩm của hoạt động lập pháp khi mà
người Đức đã "sáng tạo" ra mô hình Gesellschaft mit beschränkter Haftung - GmbH

theo một đạo luật về công ty vào năm 1892.
Sự xuất hiện của mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn có lẽ sẽ thích hợp cho
kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ. Mô hình công ty này vừa có yếu tố quan hệ nhân
thân gữa các thành viên như công ty đối nhân, vừa có tư cách pháp nhân và chế độ
trách nhiệm hữu hạn của thành viên như công ty cổ phần. Vì thế, mô hình này dường
như được ưa chuộng ở tất cả các nước. Tỷ lệ các công ty trách nhiệm hữu hạn trong
tổng số các công ty thường chiếm rất cao, ví dụ ở Anh vào tháng 3 năm 2001 có tới
99% trong tổng số 1,5 triệu công ty ở nước này là công ty trách nhiệm hữu hạn
(private company).[3] Vào cuối tháng 6 năm 2002, ở Úc có tới 98,3% trong tổng số
1,248 triệu các công ty là công ty trách nhiệm hữu hạn (proprietary company limited
by shares).[4]
Việt Nam
Pháp luật công ty châu Âu đã được người Pháp đem đến Việt Nam từ cuối thế
kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi mà pháp luật công ty của
Việt Nam đã bị ảnh hưởng lớn bởi mô hình luật công ty châu Âu. Các hình thức công
ty như trong luật thương mại của Pháp đã xuất hiện trong các Bộ luật thời Pháp thuộc
như Dân luật thi hành tại các tòa án Nam Bắc kỳ 1931 và Bộ luật thương mại Trung
Kỳ 1942. Hai bộ luật này đều có quy định về các mô hình công ty, được gọi là hội hay
công ty, mà chúng ta thấy ngày nay trong luật định Việt Nam. Những quy định của Bộ
luật thương mại Trung Kỳ vẫn tiếp tục được áp dụng tại miền Nam Việt Nam cho đến
khi Bộ luật thương mại Sài Gòn 1972 có hiệu lực áp dụng. Trong Bộ luật thương mại
Sài Gòn 1972, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn (hội trách nhiệm hữu hạn) cũng
tiếp tục được ghi nhận bên cạnh các hình thức công ty khác.
2.3.3 Công ty TNHH một thành viên và hai thành viên:
2.3.3.1. Công ty TNHH hai thành viên trở lên
a. Bản chất pháp lý
Theo Điều 38 Luật Doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thành viên công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt
quá năm mươi. Công ty phải lập Sổ đăng ký thành viên ngay sau khi đăng ký kinh

doanh. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp (trách nhiệm hữu
hạn).
7


- Việc chuyển nhượng vốn góp bị hạn chế hơn so với công ty cổ phần. Phần vốn
góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật (Các Điều
43, 44 và 45 Luật Doanh nghiệp).
- Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
bằng tài sản của công ty (trách nhiệm hữu hạn).
- Công ty không được quyền phát hành cổ phần. Như vậy, công ty TNHH hai
thành viên trở lên được huy động vốn trên thị trường chứng khoán, kể cả việc chào bán
chứng khoán ra công chúng bằng các hình thức chứng khoán không phải là cổ phần.
b. Chế độ pháp lý về tài sản
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty đối vốn không được phát hành
cổ phiếu ra thị trường. Khi thành lập công ty, các thành viên phải cam kết góp vốn vào
công ty với giá trị vốn góp và thời hạn góp vốn cụ thể. Thành viên phải góp vốn đầy
đủ và đúng hạn như đã cam kết. Khi góp đủ giá trị phần vốn góp, thành viên được
công ty cấp giấy chứng nhận phần vốn góp. Giấy chứng nhận phần vốn góp có các nội
dung được quy định tại Khoản 4 Điều 39 Luật Doanh nghiệp. Trường hợp có thành
viên không góp đầy đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết, thì số vốn chưa góp được coi là
nợ của thành viên đó đối với công ty và thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Người đại
diện theo pháp luật của công ty, nếu không thực hiện đúng nghĩa vụ thông báo cho cơ
quan đăng ký kinh doanh (xem Khoản 1 Điều 39 Luật Doanh nghiệp), thì phải cùng
với thành viên chưa góp đủ vốn liên đới chịu trách nhiệm đối với công ty về phần vốn
chưa góp và các thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.
Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền yêu cầu công ty mua lại phần

vốn góp của mình trong những trường hợp nhất định (quy định tại Điều 43 Luật
Doanh nghiệp).
Trong quá trình hoạt động của công ty, thành viên có quyền chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác (Xem Điều 44 Luật Doanh
nghiệp). Luật Doanh nghiệp còn quy định việc xử lý phần vốn góp trong trường hợp
khác (Xem Điều 45 Luật Doanh nghiệp).
Theo quyết định của Hội đồng thành viên công ty có thể tăng vốn điều lệ bằng
các hình thức như: Tăng vốn góp của thành viên; điều chỉnh tăng mức vốn điều lệ
tương ứng với giá trị tài sản tăng lên của công ty; tiếp nhận vốn góp của thành viên
mới. Công ty có thể giảm vốn điều lệ theo quyết định của Hội đồng thành viên bằng
các hình thức và thủ tục được quy định tại Điều 60 Luật Doanh nghiệp.
Công ty chỉ được chia lợi nhuận cho các thành viên khi kinh doanh có lãi, đã
hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đồng thời vẫn phải bảo đảm
thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đến hạn phải trả khác sau khi đã chia
lợi nhuận.
c. Quản trị nội bộ
8


Bộ máy quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên bao
gồm: Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc).
Khi công ty có trên 11 thành viên thì phải có Ban kiểm soát; tuy nhiên, trường hợp có
ít hơn 11 thành viên, công ty có thể thành lập Ban kiểm soát để phù hợp với yêu cầu
quản trị doanh nghiệp.
- Hội đồng thành viên
Hội đồng thành viên là tổ chức có quyền quyết định cao nhất của công ty bao
gồm tất cả các thành viên công ty. Nếu thành viên là tổ chức thì phải chỉ định đại diện
của mình vào Hội đồng thành viên. Thành viên có thể trực tiếp hoặc ủy quyền bằng
văn bản cho thành viên khác dự họp Hội đồng thành viên.
Hội đồng thành viên không làm việc thường xuyên mà chỉ tồn tại trong thời gian

họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến của các thành
viên bằng văn bản.
Hội đồng thành viên gồm các thành viên, là cơ quan quyết định cao nhất của
công ty. Thành viên là tổ chức chỉ định người đại diện theo uỷ quyền tham gia Hội
đồng thành viên. Điều lệ công ty quy định cụ thể định kỳ họp Hội đồng thành viên,
nhưng ít nhất mỗi năm phải họp một lần.
Hội đồng thành viên có thể được triệu tập họp bất cứ khi nào theo yêu cầu của
Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc của thành viên (hoặc nhóm thành viên) sở hữu trên
25% vốn điều lệ của công ty (hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn do điều lệ công ty quy định).
Thủ tục triệu tập họp Hội đồng thành viên, điều kiện, thể thức tiến hành họp và ra
quyết định của hội đồng thành viên được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều
50 đến Điều 54 Luật Doanh nghiệp.
Với tư cách là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, Hội đồng thành viên có
quyền xem xét và quyết định những vấn đề chủ yếu, quan trọng nhất của công ty như:
Phương hướng phát triển công ty; tăng, giảm vốn điều lệ, cơ cấu tổ chức quản lý công
ty, tổ chức lại, giải thể công ty... Các quyền và nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng thành
viên được quy định trong Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty (Xem Điều 47 Luật
Doanh nghiệp).
- Chủ tịch Hội đồng thành viên
Hội đồng thành viên bầu một thành viên làm Chủ tịch. Chủ tịch Hội đồng thành
viên có thể kiêm Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty. Chủ tịch Hội đồng thành viên có
các quyền và nhiệm vụ được quy định trong Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty.
Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty nếu
Điều lệ công ty quy định như vậy. Trong trường hợp này các giấy tờ giao dịch của
công ty phải ghi rõ tư cách đại diện theo pháp luật cho công ty của Chủ tịch Hội đồng
thành viên.
- Giám đốc (Tổng giám đốc)
Giám đốc (Tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày
của công ty, do Hội đồng thành viên bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng và chịu trách nhiệm
trước Hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Chủ tịch

9


Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp
luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện theo pháp luật của
công ty phải thường trú tại Việt Nam; trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên ba mươi
ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ công ty
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty.
Giám đốc (Tổng giám đốc) có các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật
Doanh nghiệp và Điều lệ công ty.
- Ban kiểm soát
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ mười một thành viên trở lên phải thành lập
Ban kiểm soát. Trường hợp có ít hơn mười một thành viên, có thể thành lập Ban kiểm
soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty. Khác với công ty cổ phần, trong công ty
TNHH, những vấn đề như: Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc
của Ban kiểm soát, Trưởng ban kiểm soát hoàn toàn do Điều lệ công ty quy định.
d. Hợp đồng, giao dịch phải được Hội đồng thành viên chấp thuận
Điều 59 Luật Doanh nghiệp quy định những hợp đồng, giao dịch giữa công ty
với các đối tượng nhất định phải được Hội đồng thành viên chấp thuận. Người đại diện
theo pháp luật của công ty phải gửi đến các thành viên Hội đồng thành viên, đồng thời
niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty dự thảo hợp đồng hoặc thông báo
nội dung chủ yếu của giao dịch dự định tiến hành. Trường hợp Điều lệ không quy định
thì Hội đồng thành viên phải quyết định việc chấp thuận hợp đồng hoặc giao dịch
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày niêm yết; trong trường hợp này, hợp đồng,
giao dịch được chấp thuận nếu có sự đồng ý của số thành viên đại diện ít nhất 75%
tổng số vốn có quyền biểu quyết. Thành viên có liên quan trong các hợp đồng, giao
dịch không có quyền biểu quyết.
Trường hợp những hợp đồng, giao dịch trên đây được giao kết hoặc thực hiện
nhưng chưa được sự chấp thuận của Hội đồng thành viên thì bị coi là hợp đồng, giao
dịch vô hiệu và bị xử lý theo quy định của pháp luật. Người đại diện theo pháp luật

của công ty, thành viên có liên quan và người có liên quan của thành viên đó phải bồi
thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc thực
hiện hợp đồng, giao dịch đó.
2.3.3.2. Công ty TNHH một thành viên
a. Bản chất pháp lý
Trong quá trình phát triển, pháp luật công ty đã có những quan niệm mới về
công ty đó là thừa nhận mô hình công ty TNHH một thành viên. Thực tiễn kinh doanh
ở nước ta các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính
trị-xã hội, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do một cá nhân, tổ chức đầu tư
về bản chất cũng được tổ chức và hoạt động giống như công ty TNHH một thành viên
(một chủ sở hữu). Luật Doanh nghiệp (1999) chỉ quy định công ty TNHH một thành
viên là tổ chức; Luật Doanh nghiệp (2005) đã phát triển và mở rộng cả cá nhân cũng
có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên. Theo đó công ty TNHH một thành
viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (gọi là chủ sở
10


hữu công ty). Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ.
Công ty TNHH một thành viên có những đặc điểm sau đây:
- Do một thành viên là tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu, chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của
công ty (trách nhiệm hữu hạn).
- Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác; trường hợp rút một
phần hoặc toàn bộ vốn đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì phải liên đới
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cũng như người chủ sở hữu, công ty
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong kinh doanh trong

phạm vi số vốn điều lệ của công ty (trách nhiệm hữu hạn).
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ
phần. Tuy nhiên, giống như công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công
ty này được huy động vốn trên thị trường chứng khoán, kể cả việc chào bán chứng
khoán ra công chúng bằng các hình thức chứng khoán không phải là cổ phần.
b. Chế độ pháp lý về tài sản
Các quy định về tài sản và chế độ tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn 1
thành viên được quy định cụ thể như sau:
- Phải tách biệt tài sản của chủ sở hữu công ty với tài sản của công ty. Đối với
chủ sở hữu công ty là cá nhân còn phải tách biệt các chi tiêu tài sản của cá nhân và gia
đình với các chi tiêu tài sản trên cương vị là Chủ tịch công ty và Giám đốc (Tổng giám
đốc) công ty;
- Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác;
- Không được rút lợi nhuận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác.
c. Quản trị nội bộ
* Đối với công ty TNHH một thành viên là tổ chức
Chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một hoặc một số người đại diện theo uỷ quyền với
nhiệm kỳ không quá 5 năm để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định của pháp luật. Chủ sở hữu công ty có quyền thay thế người đại diện theo uỷ
quyền bất cứ lúc nào.
- Trường hợp có ít nhất 2 người được bổ nhiệm làm đại diện theo uỷ quyền thì
cơ cấu tổ chức của công ty gồm: Hội đồng thành viên; Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
và Kiểm soát viên. Hội đồng thành viên gồm tất cả những người đại diện theo uỷ
quyền.

11



- Trường hợp một người được bổ nhiệm là đại diện theo uỷ quyền thì cơ cấu tổ
chức của công ty gồm: Chủ tịch công ty; Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát
viên.
Điều lệ công ty quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty
hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam; nếu vắng mặt
quá ba mươi ngày ở Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác làm
người đại diện theo pháp luật của công ty theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty,
Giám đốc (Tổng giám đốc) và Kiểm soát viên do Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công
ty quy định (xem từ Điều 68 đến Điều 71 Luật Doanh nghiệp).
* Đối với công ty TNHH một thành viên là cá nhân
Cơ cấu tổ chức của công ty TNHH một thành viên là cá nhân gồm: Chủ tịch
công ty; Giám đốc (Tổng giám đốc). Chủ sở hữu công ty đồng thời là Chủ tịch công ty.
Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc (Tổng giám đốc) là người đại diện theo pháp luật của
công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc
thuê người khác làm Giám đốc (Tổng giám đốc). Quyền, nghĩa vụ cụ thể của Giám
đốc (Tổng giám đốc) do Điều lệ công ty quy định hoặc hợp đồng lao động mà Giám
đốc (Tổng giám đốc) đã ký với Chủ tịch công ty.
2.4 Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn được hình
thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông, trong đó vốn của công ty
được chia nhỏ thành nhiều phần bằng nhau nên được gọi là cổ phần.
Công ty CP được phát hành cổ phiếu để huy động vốn, cho phép các nhà đầu tư thuộc
mọi thành phần kinh tế tham gia. Các cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp
pháp cổ phần được gọi là cổ đông.
Cổ đông được quyền tham gia quản lý, kiểm soát, điều hành công ty thông qua
việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí quản lý trong công ty. Ngoài ra, cổ đông còn được
quyền hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra cũng như các khoản thua lỗ tương
ứng với mức độ góp vốn.

Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần bao gồm Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban Tổng giám đốc, các Giám đốc điều hành
và các chức danh quản lý Phòng, Ban.
Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên sáng lập công ty đóng góp và được ghi
vào Điều lệ công ty. Vốn điều lệ do các thành viên tự thỏa thuận, cam kết góp vốn và
được doanh nghiệp kê khai, đăng ký với cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.
Ý nghĩa của vốn điều lệ:
Vốn điều lệ là sự cam kết mức trách nhiệm vật chất của doanh nghiệp với khách
hàng. Vốn điều lệ cũng là vốn để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động của công ty và
12


cũng là cơ sở đánh giá hoạt động của công ty với quy mô lớn hay nhỏ. Vốn điều lệ
cũng là cơ sở để phân chia lợi nhuận, chia sẽ rủi ro của các thành viên góp vốn trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty.
3. Nhiệm vụ và quyền hạn của doanh nghiệp
3.1 Nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 9 Luật Doanh nghiệp thì doanh nghiệp có những nghĩa
vụ như sau:
- Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi
kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
- Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xác,
đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán.
- Đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính
khác theo quy định của pháp luật.
- Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao
động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao

động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm.
- Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn
đã đăng ký hoặc công bố.
- Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê; định kỳ
báo cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định; khi phát hiện các thông tin
đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung
các thông tin đó.
- Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng
cảnh.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
3.2 Quyền hạn của doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 8 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì doanh nghiệp có
những quyền như sau:
- Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh
doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước
khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm,
dịch vụ công ích.
- Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn.
- Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng.
- Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu.
- Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh.
- Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh.
13


- Tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ.
- Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp.

- Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định.
- Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng theo
quy định của pháp luật.
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Khái niệm về doanh nghiệp và cho biết các loại hình doanh nghiệp của
nhà nước ta hiện nay ?
Câu 2: Cho biết bổ chức của một công ty cỏ phần ?
Câu 3: Cho biết các loại hình doanh nghiệp có vốn nhà nước ?
Câu 4: nhiệm vụ và quyền hnạ của doanh nghiệp khi than gia sản xuất kinh
doanh ?

14


Chương 2: DỰ BÁO TRONG QUẢN TRỊ SẢN XUẤT
Mục tiêu:
- Chỉ ra được tầm quan trọng của công tác dự báo trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Thực hiện được dự báo nhu cầu sản xuất khi có các dữ liệu cần thiết.
- Đánh giá được hiệu quả của các dự báo khi có số liệu thực tế.
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực
sáng tạo trong học tập.
1. Khái niệm về dự báo, các loại dự báo, trình tự thực hiện dự báo
1.1 Khái niệm
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà quản trị thường xuyên
phải đưa ra các quyết định liên quan đến những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai. Để
giúp các quyết định này có độ tin cậy cao, giảm thiểu mức độ rủi ro, người ta đã đưa ra
kỹ thuật dự báo. Vì vậy kỹ thuật dự báo là hết sức quan trọng và cần thiết cho các

doanh nghiệp, đặc biệt là ngày nay các doanh nghiệp lại hoạt động trong môi trường
của nền kinh tế thị trường mà ở đó luôn diễn ra những sự cạnh tranh gay gắt giữa các
doanh nghiệp với nhau.
Vậy dự báo là gì? Chúng ta có thể hiểu dự báo qua khái niệm dự báo như sau.
Dự báo là khoa học và nghệ thuật nhằm tiên đoán trước các hiện tượng và sự
việc sẽ
xảy ra trong tương lai được căn cứ vào các tài liệu như sau:
- Các dãy số liệu của các thời kỳ quá khứ;
- Căn cứ vào kết quả phân tích các nhân tố ảnh hưởng đối với kết quả dự báo;
- Căn cứ vào các kinh nghiệm thực tế đã được đúc kết. Như vậy, tính khoa học
ở đây thể hiện ở chỗ:
- Căn cứ vào dãy số liệu của các thời kỳ quá khứ;
- Căn cứ vào kết quả phân tích các nhân tố ảnh hưởng đối với kết quả dự báo.
Tính nghệ thuật được thể hiện: Căn cứ vào các kinh nghiệm thực tế và từ nghệ
thuật phán đoán của các chuyên gia, được kết hợp với kết quả dự báo, để có được các
quyết định với độ chính xác và tin cậy cao.
1.2 Các loại dự báo
Dự báo được phân chia theo nhiều cách khác nhau. Trong đó có 2 cách phân loại
cơ bản căn cứ vào thời gian và lĩnh vực dự báo.
a) Căn cứ vào thời gian dự báo:

15


 Dự báo dài hạn: Khoảng thời gian từ 3 năm trở lên. Dự báo dài hạn được ứng
dụng cho lập kế hoạch sản xuất sản phẩm mới, kế hoạch nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ mới, định vị doanh nghiệp hay mở rộng doanh nghiệp.
 Dự báo trung hạn: Khoảng thời gian dự báo thường là từ 3 tháng đến 3 năm.
Nó cần cho việc lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch bán hàng, dự thảo ngân sách,
kế hoạch tiền mặt, huy động các nguồn lực và tổ chức hoạt động tác nghiệp.

 Dự báo ngắn hạn: Khoảng thời gian dự báo có thể đến một năm, nhưng
thường là ít hơn ba tháng. Loại dự báo này thường được dùng trong kế hoạch
mua hàng, điều độ công việc, cân bằng nhân lực, phân chia công việc.
Dự báo trung hạn và dài hạn có ba đặc trưng khác với dự báo ngắn hạn:
Thứ nhất, dự báo trung hạn và dài hạn phải giải quyết nhiều vấn đề có tính toàn
diện và yểm trợ cho các quyết định quản lý thuộc về hoạch định kế hoạch sản xuất sản
phẩm và quá trình công nghệ.
Thứ hai, dự báo ngắn hạn thường dùng nhiều loại phương pháp luận hơn là dự
báo dài hạn. Đối với các dự báo ngắn hạn người ta dùng phổ biến các kỹ thuật toán
học như bình quân di động, san bằng mũ và hồi quy theo xu hướng. Nói cách khác thì
các phương pháp ít định lượng được dùng để tiên đoán các vấn đề lớn toàn diện như
có cần đưa một sản phẩm mới nào đó vào danh sách các chủng loại mặt hàng của công
ty không.
Thứ ba, dự báo ngắn hạn có khuynh hướng chính xác hơn dự báo dài hạn. Vì
các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thay đổi hàng ngày, nếu kéo dài thời gian dự báo ra
thì độ chính xác có khả năng giảm đi. Do vậy, cần phải thường xuyên cập nhật và hoàn
thiện các phương pháp dự báo.
b) Căn cứ vào lĩnh vực dự báo:

16


 Dự báo kinh tế: là dự báo các hiện tượng kinh tế như:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Tỷ lệ lạm phát.
- Giá cả.
- Trữ lượng tài nguyên…
 Dự báo công nghệ và kỹ thuật sản xuất: là dự báo các vấn đề liên quan đến
công nghệ và kỹ thuật sản xuất như:
- Năng lượng mới.

- Nguyên liệu mới.
- Phương pháp công nghệ mới.
- Máy móc thiết bị mới…
 Dự báo nhu cầu: là dự báo nhu cầu sản xuất như:
- Nhu cầu số lượng sản phẩm.
- Nhu cầu nguyên vật liệu.
- Nhu cầu máy móc thiết bị…
Lĩnh vực dự báo mà chúng ta nghiên cứu trong chương này, nếu phân loại theo
thời gian thì gọi là dự báo ngắn hạn, nếu phân theo lĩnh vực thì gọi là dự báo nhu cầu.
1.3 Trình tự tiến hành dự báo
Dù là dùng phương pháp nào, để tiến hành dự báo ta triển khai theo các bước
như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu của dự báo;
Bước 2: Xác định độ dài thời gian dự báo (ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn);
Bước 3: Lựa chọn phương pháp dự báo;
Bước 4: Lựa chọn đối tượng để thu thập thông tin;
Bước 5: Thu thập thông tin dự báo bằng bảng câu hỏi, phỏng vấn trực tiếp hoặc
thông qua đội ngũ cộng tác viên marketing;
Bước 6: Xử lý thông tin;
Bước 7: Xác định xu hướng dự báo (Xu hướng tuyến tính, xu hướng chu kỳ, xu
hướng thời vụ hay xu hướng ngẫu nhiên);
Bước 8: Phân tích, tính toán, ra quyết định về kết quả dự báo.
Nếu việc dự báo được tiến hành một cách đều đặn trong thời gian dài, thì các dữ
liệu sẽ được thu thập thường xuyên và việc tính toán dự báo được tiến hành một cách
tự động, thường là được thực hiện trên máy tính điện toán.
2. Các phương pháp dự báo theo chuỗi thời gian
17


Có hai cách tiếp cận dự báo chính và cũng là hai con đường đề cập đến cách lập

mô hình dự báo. Một là phân tích định tính dựa vào suy đoán cảm nhận. Phương pháp
này phụ thuộc nhiều vào trực giác, kinh nghiệm và sự nhạy cảm của nhà quản trị để dự
báo. Hai là phương pháp dự báo theo phân tích định lượng dựa chủ yếu vào các mô
hình toán học trên cơ sở những dữ liệu, tài liệu đã qua thống kê.
2.1 Phương pháp định tính
2.1.1 Phương pháp lấy ý kiến của hội đồng điều hành
Đây là phương pháp được sử dụng khá rộng rãi. Theo phương pháp này, một
nhóm nhỏ các cán bộ quản lý điều hành cao cấp sử dụng tổng hợp các số liệu thống kê
phối hợp với các kết quả đánh giá của cán bộ điều hành marketing, kỹ thuật, tài chính
và sản xuất để đưa ra những con số dự báo về nhu cầu sản phẩm trong thời gian tới.
Phương pháp này sử dụng được trí tuệ và kinh nghiệm của những cán bộ trực tiếp liên
quan đến hoạt động thực tiễn. Phương pháp này có ưu điểm là nhanh và dễ (chỉ cần tập
hợp các chuyên gia).
Tuy nhiên, các quyết định được nhất trí này cũng có những thiếu sót:
 Thứ nhất là dự báo chỉ là sự tiên đoán của cá nhân, mang tính chủ quan;
 Thứ hai là quan điểm của người có quyền lực, có địa vị cao thường gây ảnh
hưởng lớn đến các cán bộ điều hành khác.
2.1.2 Phương pháp lấy ý kiến của nhân viên bán hàng từng khu vực
Do những nhân viên bán hàng là những người thường hiểu rõ nhu cầu và thị
hiếu của người tiêu dùng. Vì thế họ có thể dự đoán được lượng hàng có thể bán được
trong thời gian tới tại khu vực mình bán hàng.
Nếu chúng ta tập hợp ý kiến của các nhân viên bán hàng ở các khu vực khác
nhau, ta sẽ có được lượng dự báo tổng hợp về nhu cầu đối với loại sản phẩm cần dự
báo.
Phương pháp này có ưu, nhược điểm như sau:
 Ưu điểm: Sát với nhu cầu của khách hàng.
 Nhược điểm: Phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của nhân viên bán hàng.
Thường có hai xu hướng:
- Xu hướng lạc quan quá (Đánh giá cao chất lượng hàng bán ra của mình);
- Xu hướng bi quan quá (Muốn giảm nguồn hàng xuống để dễ đạt được định

mức).
2.1.3 Phương pháp lấy ý kiến của khách hàng
Phương pháp này sẽ thu thập nguồn thông tin từ đối tượng người tiêu dùng về
nhu cầu hiện tại cũng như tương lai. Cuộc điều tra nhu cầu được thực hiện bởi những
nhân viên bán hàng hoặc nhân viên nghiên cứu thị trường. Họ thu thập ý kiến khách
hàng thông qua phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp hay điện thoại... Cách tiếp cận này
không những giúp cho doanh nghiệp về dự báo nhu cầu mà cả trong việc cải tiến thiết
kế sản phẩm. Phương pháp này mất nhiều thời gian, việc chuẩn bị phức tạp, khó khăn
và tốn kém, có thể không chính xác trong các câu trả lời của người tiêu dùng.
2.1.4 Phương pháp Delphi
18


Phương pháp này thu thập ý kiến của các chuyên gia trong hoặc ngoài doanh
nghiệp theo những mẫu câu hỏi được in sẵn và được thực hiện như sau:
- Mỗi chuyên gia được phát một thư yêu cầu trả lời một số câu hỏi phục vụ
cho việc dự báo;
- Nhân viên dự báo tập hợp các câu trả lời, sắp xếp chọn lọc và tóm tắt lại các
ý kiến của các chuyên gia;
- Dựa vào bảng tóm tắt này nhân viên dự báo lại tiếp tục nêu ra các câu hỏi để
các chuyên gia trả lời tiếp;
- Tập hợp các ý kiến mới của các chuyên gia. Nếu chưa thỏa mãn thì tiếp tục
quá trình nêu trên cho đến khi đạt yêu cầu dự báo.
Ưu điểm của phương pháp này là tránh được các liên hệ cá nhân với nhau,
không xảy ra va chạm giữa các chuyên gia và họ không bị ảnh hưởng bởi ý kiến của
một người nào đó có ưu thế trong số người được hỏi ý kiến.
2.2 Các phương pháp định lượng
Phương pháp dự báo định lượng bao gồm các mô hình dự báo theo chuỗi thời
gian và hàm số nhân quả. Dựa vào các số liệu thống kê và thông qua các công thức
toán học được thiết lập để dự báo nhu cầu tương lai. Ở đây mối quan hệ giữa thời gian

và nhu cầu hoặc giữa các biến số với nhu cầu được thiết lập bằng những mô hình toán
tính hợp.
Dù là phương pháp nào thì dự báo định lượng cũng phải được thực hiện theo 8
bước sau đây:
- Xác định mục tiêu của dự báo;
- Chọn lựa những loại sản phẩm cần dự báo;
- Xác định độ dài thời gian dự báo;
- Chọn mô hình dự báo;
- Phê chuẩn;
- Thu thập dữ liệu cần thiết cho dự báo;
- Tiến hành dự báo;
- Áp dụng kết quả dự báo.
Các bước trên đây được tiến hành một cách có hệ thống và thống nhất từ khi tìm
hiểu, thiết kế đến áp dụng hệ thống dự báo. Nếu hệ thống dự báo được sử dụng đều
đặn trong một thời gian dài thì khi thu thập dữ liệu và dự báo có thể bỏ qua bước này
hay bước khác để đơn giản hóa trong tính toán.
Sau đây là một số mô hình dự báo định lượng:
2.2.1 Phương pháp tiếp cận giản đơn
Ở phương pháp này, người ta dự báo nhu cầu của thời kỳ sau (n) bằng với số
thực tế của thời kỳ trước đó (n - 1).
Ví dụ 2.1: Sản lượng của doanh nghiệp nước mắm Liên Thành vào tháng
04/2011 là 10 ngàn lít, nếu áp dụng phương pháp tiếp cận giản đơn để dự báo cho
tháng 05/2011 thì ta sẽ lấy đúng bằng sản lượng bán được của tháng 04/2011 là 10
ngàn lít.
19


 Ưu điểm: Dự báo nhanh chóng, đơn giản.
 Nhược điểm:
- Áp đặt thời kỳ trước cho thời kỳ sau, do đó thiếu chính xác;

- Không nghiên cứu được sự biến động của thị trường trong từng thời kỳ, do
đó không thấy được sự biến động của thị trường.
 Phạm vi áp dụng: Xí nghiệp quy mô nhỏ.
2.2.2 Phương pháp bình quân di động
Theo phương pháp này, kết quả dự báo của thời kỳ sau bằng số bình quân của
từng thời gian ngắn có khoảng cách đều nhau của những thời kỳ trước đó.
Ta có công thức tính dự báo theo phương pháp này như sau:

Trong đó:
Ft: Dự báo bình quân di động cho thời kỳ t;
Di: Nhu cầu thực tế cho thời kỳ i (ngày, tuần, tháng, quý, năm);
n: Số thời kỳ nhu cầu được đưa vào số trung bình tính toán.
Ví dụ 2.2: Cuối mỗi tuần người chủ cửa hàng tạp phẩm Meersburg muốn dự
báo mức cầu bánh mì tại cửa hàng của ông ta trong tuần tới. Doanh số hàng tuần trong
9 tuần vừa qua được cho như sau:
Tuần
1
2
3
4
5
6
Doanh số thực tế
110 102 108 121 112 105
(số ổ bánh mì)
Dự báo sử dụng bình quân di động giản đơn với n = 3

7

8


9

114

106

115

Tương tự tính được F5 = 110,33; F6 = 113,67; F7 = 112,67; F8 = 110,33; F9 =
108,33; F10 = 111,667; F11 = 111,667.
Phương pháp này có những ưu nhược điểm như sau:

 Ưu điểm: Đơn giản, dễ hiểu, san bằng được các biến động ngẫu nhiên trong dãy
số thời gian.
 Nhược điểm:
20


- Hoàn toàn dựa vào số liệu quá khứ;
- Cần nhiều số liệu quá khứ;
- Chưa đánh giá được tầm quan trọng khác nhau của các số liệu ở các thời kỳ
khác nhau.
 Phạm vi áp dụng: Dãy số liệu trong quá khứ phải ổn định (không biến động).
2.2.3 Phương pháp bình quân di động có hệ số
Trong trường hợp khi nhu cầu có sự biến động, trong đó thời gian gần nhất có
ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả dự báo, thời gian càng xa thì ảnh hưởng càng nhỏ, ta
dùng phương pháp bình quân di động có trọng số sẽ thích hợp hơn.
Phương pháp bình quân di động có trọng số được tính theo công thức sau:


Trong đó:
Ft: Dự báo bình quân di động thời kỳ t;
Di: Nhu cầu thực tế cho thời kỳ i;
Wi: Giá trị của trọng số gán cho dữ liệu ở thời kỳ i;
n: Số thời kỳ nhu cầu được đưa vào số trung bình tính toán.
Ví dụ 2.3: Cửa hàng tạp hóa Meersburg quyết định áp dụng mô hình dự báo
theo bình quân di động 4 tuần có trọng số với các trọng số cho các tuần như sau:
Giai đoạn
Tuần vừa qua
2 tuần trước đó
3 tuần trước đó
4 tuần trước đó
Tổng trọng số

Trọng số áp dụng
4
3
2
1
10

Kết quả dự báo theo mô hình này được thể hiện trong bảng 2.1 như sau:
Bảng 2.1: Tổng hợp kết quả dự báo theo phương pháp bình quân di động 4
thời kỳ có trọng số

21


Trong mô hình trên, tính chính xác của dự báo phụ thuộc vào khả năng xác định
trọng số có hợp lý hay không?

Các phương pháp bình quân đã trình bày ở trên có những đặc điểm sau:
- Khi số quan sát n (số giai đoạn quan sát) tăng lên, khả năng san bằng các dao
động tốt hơn, nhưng kết quả dự báo ít nhạy cảm hơn với những biến động
thực tế của nhu cầu;
- Dự báo thường không bắt kịp nhu cầu, không bắt kịp xu hướng thay đổi nhu
cầu;
- Đòi hỏi phải ghi chép số liệu đã qua rất chính xác và phải đủ lớn mới có kết
quả dự báo đúng.
2.2.4 Phương pháp san bằng số mũ
Để khắc phục những hạn chế của các phương pháp trên, người ta đề xuất sử
dụng phương pháp san bằng mũ để dự báo. Đây là phương pháp dễ sử dụng nhất.
Nó cần ít số liệu trong quá khứ. Công thức cơ bản của san bằng mũ có thể diễn
tả như sau:

Trong đó:

Ft : Dự báo nhu cầu cho thời kỳ t;
Ft-1: Dự báo của thời kỳ ngay trước đó;
22


Dt-1: Nhu cầu thực tế của thời kỳ ngay trước đó;
 : Hệ số san bằng mũ.
Thực chất là dự báo mới bằng dự báo cũ cộng với khoản chênh lệch giữa nhu
cầu thực tế và dự báo của giai đoạn đã qua, có điều chỉnh cho phù hợp.
Ví dụ 2.4: Vẫn với số liệu như trong ví dụ 2.2 bây giờ ta sử dụng phương pháp
san bằng mũ để dự báo.
Để phương pháp này được bắt đầu, chúng ta hãy giả định dự báo cho thời kỳ 1
là 110, hệ số san bằng mũ  = 0,2
Áp dụng công thức 2.3 ta có kết quả dự báo như bảng 2.2 sau:

Bảng 2.2: Tổng hợp kết quả dự báo theo phương pháp san bằng mũ giản đơn
Tuần
t
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Doanh số thực tế
(Số ổ bánh mì)
Dt
110
102
108
121
112
105
114
106
115

Dự báo
(Số ổ bánh mì)
Ft

110 (giả định)
0,2(110) + (1-0,2)110 = 110,0
0,2(102) + (1-0,2)110,0 = 108,4
0,2(108) + (1-0,2)108,4 = 108,3
0,2(121) + (1-0,2)108,3 = 110,8
0,2(112) + (1-0,2)110,8 = 111,0
0,2(105) + (1-0,2)111,0 = 109,8
0,2(114) + (1-0,2)109,8 = 110,6
0,2(106) + (1-0,2)110,6 = 109,7
0,2(115) + (1-0,2)109,7 = 110,8

Vì mô hình san bằng mũ rất đơn giản nên được sử dụng khá rộng rãi trong các
công ty. Tuy nhiên, việc chọn hệ số san bằng mũ  sao cho thích hợp để đạt được một
dự báo chính xác là một vấn đề quan trọng. Để chọn được hệ số  hợp lý cũng như để
đánh giá mức độ chính xác của dự báo, ta so sánh giữa kết quả dự báo với nhu cầu
thực tế. Sai số của dự báo được tính theo công thức 2.4 như sau:

Sai số dự báo (AD) = Nhu cầu thực tế (Dt ) – Dự báo (Ft)

(2.4)

Ngoài ra, để đánh giá mức sai lệch tổng thể của dự báo người ta còn dùng độ
lệch tuyệt đối trung bình MAD (Mean Absolute Deviation). Độ lệch tuyệt đối trung
bình MAD được tính theo công thức 2.5 như sau:

23


MAD càng nhỏ thì trị số alpha càng hợp lý, vì nó cho kết quả dự báo càng ít sai.
Ví dụ 2.5: Trong 8 quý qua, Cảng Vũng Tàu đã bốc dỡ một số lớn gạo từ tàu lên

bờ. Số lượng bốc dỡ cảng đã thực hiện trong quý 1 là 180 tấn, nhưng con số dự báo
cùng với quý này là 175 tấn. Hãy chọn một trong hai giá trị  = 0,1 và  = 0,5 để
xem giá trị nào thích hợp hơn.
Ở đây ta cần tính độ lệch tuyệt đối AD và độ lệch tuyệt đối bình quân MAD
theo từng hệ số  . Như vậy, hệ số nào cho MAD bé hơn sẽ được chọn.
Kết quả tính toán được thể hiện trong bảng 2.3 như sau:
Bảng 2.3: Tổng hợp kết quả dự báo và độ lệch tuyệt đối giữa dự báo và thực tế

Như vậy, ta có MAD ứng với 2 giá trị α như sau:
82,46
 α = 0,1 : MAD =
= 10,31
8
98,63
 α = 0,5 : MAD =
= 12,33
8
Vậy α = 0,1 cho kết quả dự báo chính xác hơn so với α = 0,5 (vì MAD nhỏ
hơn). Do đó, ta dùng α = 0,1 để dự báo cho quý 9 tiếp theo.
24


F9 = 178,22 + 0,1(182 – 178,22) = 178,60 tấn
2.2.5 Phương pháp san bằng số mũ bậc 2
Phương pháp san bằng mũ giản đơn không phản ánh rõ xu hướng biến động. Để
phản ánh tốt hơn xu hướng vận động của nhu cầu, ta vẫn sử dụng mô hình san bằng
mũ giản đơn ở trên và điều chỉnh tăng lên hoặc giảm đi theo xu hướng của nhu cầu cho
phù hợp hơn.
Phương pháp này được tiến hành theo ba bước sau:
 Bước 1: Tính nhu cầu dự báo cho thời kỳ t (Theo phương pháp san bằng mũ

giản đơn – công thức 2.3).
 Bước 2: Tính đại lượng định hướng của thời kỳ t.

Trong đó:
Tt : Đại lượng hiệu chỉnh xu hướng của thời kỳ t;
Tt-1: Đại lượng hiệu chỉnh xu hướng của thời kỳ (t-1);

β : Hệ số điều chỉnh xu hướng (0 < β < 1);
Ft : Dự báo nhu cầu cho thời kỳ t;
Ft-1: Dự báo của thời kỳ ngay trước đó.
 Bước 3: Tính nhu cầu dự báo có định hướng của thời kỳ t.
FITt = Ft + Tt
Ví dụ 2.6: Tính nhu cầu dự báo có định hướng của cảng Vũng Tàu trong ví
dụ 2.4 với hệ số α = 0,1; β = 0,6. Kết quả tính toán được thể hiện trong bảng 2.4
như sau:
Bảng 2.4: Tổng hợp kết quả dự báo theo phương pháp san bằng mũ có điều
chỉnh theo xu hướng.

25


×