Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tiểu luận về hình thức và nội dung của hợp đồng bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.58 KB, 39 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT
----------

BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM
Đề tài: HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG
CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
Giảng viên hướng dẫn: Cô Bạch Thị Nhã Nam.
Sinh viên thực hiện: Nhóm số 3

Ngày 27 tháng 09 năm 2017


LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm là một bộ phận của hệ thống các quan hệ tài chính; bảo hiểm bây giờ khơng cịn
là một ngành kinh doanh mới mẻ trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào. Cùng với
sự phát triển không ngừng của nền kinh tế- xã hội; bảo hiểm thương mại trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng đang là một trong những ngành dịch vụ phát triển mạnh mẽ
cả về quy mô và phạm vi hoạt động. Nền kinh tế ngày càng phát triển; tri thức càng cao
thì con người lại càng thấy được lợi ích từ bảo hiểm. Các nước trên thế giới rất quan tâm
phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm vì ngành này khơng những mang lại lợi ích cho
người tham gia bảo hiểm mà cịn mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp bảo hiểm và Nhà
nước. Mọi người tham gia bảo hiểm ngày nay với mục đích bù đắp tài chính khi rủi ro
được bảo hiểm xảy ra; đồng thời hạn chế rủi ro xảy ra chứ không thể ngăn chặn được rủi
ro.
Thị trường bảo hiểm càng sôi động; cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm trên các nghiệp vụ bảo hiểm thì tranh chấp nảy sinh ngày càng nhiều. Có rất
nhiều các tranh chấp xảy ra; trong các tranh chấp đó thì tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm
là một trong những vấn đề cần phải quan tâm nhất khơng những vì hợp đồng là sự khụi
đầu cho giao ước bảo hiểm; mà hợp đồng cịn có tính pháp lý cao nhất trực tiếp ảnh


hưởng đến các bên tham gia bảo hiểm. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia; pháp
luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng giữ vị trí vơ cùng quan trọng
và ngày càng được hoàn thiện phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa; sự tiến
bộ của xã hội văn minh; đặc biệt là đối với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài
chính- bảo hiểm. Chính vì vai trị và vị trí vơ cùng quan trọng của hợp đồng bảo hiểm;
nhóm chúng tơi đã bắt tay nghiên cứu; phân tích những vấn đề xoay quanh hợp đồng bảo
hiểm bao gồm: hợp đồng bảo hiểm là gì; đặc điểm và hình thức như thế nào; ý nghĩa và
đặc trưng của mỗi loại hình thức bảo hiểm ra sao;… nhằm mang đến bạn đọc một cái
nhìn tồn diện và khách quan nhất có thể .


MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM.................................................5
1.1.Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm.............................................................................5
1.2.Hình thức và nội dung của hợp đồng bảo hiểm.........................................................7
1.2.1. Mối quan hệ giữa hợp đồng bảo hiểm và Giấy chứng nhận bảo hiểm, Đơn bảo
hiểm............................................................................................................................ 8
1.2.2. Nội dung của HĐBH.........................................................................................9
1.2.3. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm và thời điểm phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm........................................................................................................18
1.2.4.Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và chuyển giao hợp đồng bảo hiểm........21
CHƯƠNG II. CÁC LOẠI HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM.......................................................24
1.1. Hợp đồng bảo hiểm con người ( HĐBHCN).........................................................24
1.1.1. Khái niệm.......................................................................................................24
1.1.2. Đặc điểm.........................................................................................................25
1.1.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người.........................................................28
1.1.4. Ý nghĩa...........................................................................................................29
1.2. Hợp đồng bảo hiểm tài sản (HĐBHTS).................................................................29
1.2.1. Khái niệm.......................................................................................................29

1.2.2. Đặc điểm.........................................................................................................30
1.2.3. Ý nghĩa...........................................................................................................32
1.3. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự (HĐBHTNDS)........................................32
1.3.1. Khái niệm.......................................................................................................32
1.3.2. Đặc điểm.........................................................................................................33
1.3.3. Phân loại.........................................................................................................36
1.3.4. Ý nghĩa...........................................................................................................37
1.3.5. Bảng so sánh tổng quan HĐBHCN, HĐBHTS và HĐBHTNDS....................37
.......................................................................................................................................... 39



CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
1.1.

Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm

Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng dân sự vì vậy ngồi chịu sự điều chỉnh của
Luật Kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm còn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật
dân sự. Do đó khái niệm về hợp đồng bảo hiểm được nhìn nhận thơng qua hai luật là
Bộ luật dân sự và Luật kinh doanh bảo hiểm.
Về hợp đồng nói chung, Bộ luật dân sự quy định tại điều 385 như sau:
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự1”
Luật kinh doanh bảo hiểm quy định cụ thể hơn về loại hợp đồng này tại điều 12, Luật
kinh doanh bảo hiểm quy định như sau:
“1. Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường
cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm2”

Qua quy định của hai điều luật nói trên, ta có thể xác định được các đặc điểm sau đây
của hợp đồng bảo hiểm:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm được hình thành thơng qua hành vi của các bên chủ
thể
Hành vi mà qua đó hợp đồng bảo hiểm được hình thành chính là hành vi đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là trong
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm là bên đưa ra các đề nghị giao kết hợp
đồng. nếu xét thấy cần thiết và có nhu cầu muốn tham gia, cá nhân, cơ quan, tổ chức
sẽ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, có nghĩa là tham gia vào hợp đồng và trả một
1

Điều 385. Khái niệm hợp đồng, Bộ luật dân sự 2015.

2

Khoản 1, Điều 12. Hợp đồng bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo hiểm 2014.


khoản phí bảo hiểm, đó là trong trường hợp bên người mua bảo hiểm đồng ý toàn bộ
nội dung hợp đồng.
Có trường hợp họ nắm được tồn bộ nội dung hợp đồng bảo hiểm song lại không
đồng ý với một phần nào đó trong hợp đồng, họ lại tiếp tục đưa ra đề nghị với bên
doanh nghiệp bảo hiểm và nếu bên doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận lời đề nghị trên
thì hợp đồng sẽ hình thành. Cho nên hợp đồng bảo hiểm cũng có những đặc trưng cơ
bản của các loại hợp đồng thơng thường là ở điểm, có bên đề nghị giao kết, sau đó
chấp nhận hoặc chấp nhận một phần đề nghị giao kết đó và tiếp tục đưa ra đề nghị
giao kết mới và nếu có sự chấp nhận thì hình thành quan hệ hợp đồng giữa hai bên.
Thứ hai, là sự thống nhất ý chí giữa các bên (sự thỏa thuận)
Hành vi bao giờ cũng là phương tiện để thể hiện ý chí của một chủ thể ra bên ngồi
bằng một hình thức nhất định nào đó, có thể là lời nói hoặc hành động. Hành vi của

bên đề nghị giao kết hợp đồng chính là phương tiện thể hiện nội dung của đề nghị,
hành vi của bên được đề nghị thể hiện là có chấp nhận đề nghị đó hay khơng. Khi các
bên chấp nhận ý chí của nhau, nghĩa là, các bên đã đạt được sự thống nhất thỏa thuận,
theo đó hợp đồng được hình thành và giao kết.
Theo nguyên tắc thì sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các bên là không thể thiếu
trong một hợp đồng. Tuy nhiên đối với hợp đồng bảo hiểm cũng có ngoại lệ của nó,
trong một số hợp đồng bảo hiểm khi quyền lợi được bảo hiểm là quyền lợi của người
thứ ba, người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm dân sự của người thứ ba, pháp luật
quy định hợp đồng bảo hiểm này (bảo hiểm trách nhiệm dân sự) là bảo hiểm bắt buộc.
Vì vậy, riêng với loại hợp đồng này, khơng chứa yếu tố thỏa thuận thống nhất ý chí
giữa các bên tham gia.
Thứ ba, Mục đích của hợp đồng bảo hiểm là thiết lập một quan hệ bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm nhận đóng cho bên nhận bảo hiểm
một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, bên nhận bảo hiểm chấp nhận các rủi ro của bên
tham gia bảo hiểm (có thể là người thứ ba) gặp phải trong thời hạn còn hiệu lực của
hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm,các bên hướng tới một


quan hệ bảo hiểm sẽ hình thành giữa bên nhận bảo hiểm với bên được bảo hiểm, theo
đó bên nhận bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện việc chi trả tiền bảo hiểm cho bên được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Như vậy, có thể thấy tương tự như một hợp đồng dân sự bất kỳ, hợp đồng bảo hiểm
cũng bao gồm các yếu tố sau: Có sự đề nghị giao kết hợp đồng, có sự chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng, có sự thực hiện nghĩa vụ.

1.2.

Hình thức và nội dung của hợp đồng bảo hiểm

Hình thức hợp đồng là phương tiện để các bên thể hiện ý chí của mình, hợp đồng cũng

là một loại giao dịch dân sự3, theo đó giao dịch dân sự có thể được thể hiện qua các
hình thức như bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể 4 và hợp đồng cũng như vậy,
song trong điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự có quy định “Hình thức của
giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật
có quy định5”, vì vậy đối với những giao dịch dân sự pháp luật có quy định về điều
kiện hình thức thì giao dịch chỉ có hiệu lực khi được thực hiện với hình thức đó, và
hợp đồng bảo hiểm là một ví dụ điển hình cho điều này, theo như quy định tại Điều 14
về hình thức hợp đồng bảo hiểm của Luật kinh doanh bảo hiểm thì “Hợp đồng bảo
hiểm phải được lập thành văn bản”.
Vì sao pháp luật lại có quy định bắt buộc hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn
bản? Có nhiều lí do khiến cho hình thức hợp đồng bảo hiểm bằng văn bản được đặt ra.
Thứ nhất, do yêu cầu an toàn trong kinh doanh bảo hiểm và tính phức tạp của hoạt
động bảo hiểm trong khâu xác định rủi ro và định phí. Đảm bảo của người bảo hiểm
đối với người được bảo hiểm không đơn thuần như việc bán một món hàng thể hiện
bằng hiện vật cụ thể mà chỉ là những cam kết.
Thứ hai, thời gian thực hiện hợp đồng kéo dài có khi nhiều năm thậm chí trên 20 năm
như trường hợp bảo hiểm nhân thọ.
3

Điều 161. Giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự 2015

4

Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự 2015

5

Khoản 2, Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự 2015



Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm có khả năng chuyển nhượng. Đây là một quy định căn cứ
vào thực tiễn đặc biệt là trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu. Người nhập hàng
chính là người được bảo hiểm có thể bán hàng bằng hình thức chuyển nhượng chúng
từ ngày khi hàng hóa đang được vận chuyển trên biển, nếu khơng có quy định Hợp
đồng bảo hiểm có thể chuyển nhượng sẽ dẫn đến tình trạng hàng hóa khơng được bảo
hiểm khi người nhập hàng bán hàng cho người khác6.
Như vậy, pháp luật quy định hình thức của hợp đồng bảo hiểm là văn bản nhằm nâng
cao độ chính xác thực về những nội dung đã cam kết. Khi có tranh chấp, hợp đồng
được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn cho các bên
dễ dàng thực hiện quyền của mình.
1.2.1. Mối quan hệ giữa hợp đồng bảo hiểm và Giấy chứng nhận bảo hiểm, Đơn
bảo hiểm
Theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm 2014, Giấy chứng nhận bảo hiểm và
Đơn bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm7.
Thứ nhất, Giấy chứng nhận bảo hiểm
Giấy chứng nhận bảo hiểm là sự xác nhận của bên bảo hiểm về một người nhất là chủ
sở hữu của một hợp đồng bảo hiểm theo nội dung mà các bên đã cam kết trong đơn
yêu cầu bảo hiểm hoặc hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, đồng thời là bằng chứng của việc giao
kết hợp đồng bảo hiểm. Trong các trường hợp mà việc tham gia bảo hiểm là bắt buộc
theo quy định của pháp luật, thì người tham gia bảo hiểm thường phải chứng minh
trước người thứ ba rằng họ đã tham gia bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm đó đang có
hiệu lực. Để chứng minh được điều nói trên, người tham gia bảo hiểm phải xuất trình
trước người thứ ba về bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm . Nghĩa là họ ln phải
mang theo mình các loại giấy tờ là bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm bắt buộc có
hiệu lực.
6

Hình thức của hợp đồng bảo hiểm và mối liên hệ giữa hợp đồng bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm. Được

lấy về từ: ngày truy cập 25/9/2017.

7

Điều 14. Hình thức hợp đồng bảo hiểm, văn bản hợp Luật kinh doanh bảo hiểm văn bản số 12/VBHN-VPQH


Điều này sẽ rất phiền toái nếu các giấy tờ này khơng gọn nhẹ để bỏ vào ví một cách dễ
dàng. Vì vậy, trong những trường hợp này, hình thức của hợp đồng bảo hiểm thường
được thiết kế ở dạng Giấy chứng nhận bảo hiểm. Ví dụ, hoạt động của chủ xe cơ giới
thường rất dễ gây ra tai nạn giao thông và gây thiệt hại không nhỏ đối với sức khỏe,
tài sản thậm chí là cả tính mạng của người khác, nếu chỉ dựa vào khả năng tài chính
của bản thân thì người chủ xe gây ra tai nạn chưa chắc đã bồi thường đầy đủ cho
người bị thiệt hại và khắc phục kịp thời những thiệt hại đó. Vì vậy pháp luật quy định,
chủ xe cơ giới bắt buộc phải mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Cũng chính vì vậy,
điều kiện để xe cơ giới lưu hành, bên cạnh các tiêu chuẩn kỹ thuật, cần phải có bảo
hiểm cho hoạt động của xe đó, khi điều khiển xe cơ giới, nếu khơng có bằng chứng về
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để xuất trình trước người
có thẩm quyền, thì việc cho xe đó lưu hành là một sự vi phạm, vì vậy sẽ bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Với lý do trên, giấy chứng nhận bảo hiểm thường được thiết kế ở dạng thẻ với kích cỡ
hợp lý, trong đó ghi đầy đủ các thông tin liên quan.
Thứ hai, Đơn bảo hiểm
Đơn bảo hiểm thường là hình thức của các hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, vì vậy khác
với giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm có thể có các kích cỡ khác nhau thường
gồm nhiều trang. Các thơng tin được ghi trong đơn bảo hiểm mang tính chi tiết cụ thể
miêu tả tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm.
Trước đây, đơn bảo hiểm thường được viết tay theo hợp đồng cụ thể cho khách hàng
bảo hiểm, sau đó cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm, đơn bảo hiểm được
viết đơn lẻ cho từng trường hợp khơng cịn phù hợp nữa. Vì vậy, trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm thường soạn theo sẵn đơn bảo hiểm
trương ứng với từng nghiệp vụ bảo hiểm và in sẵn. Các đơn này được thiết kế theo

từng đề mục và có chỗ trống cho khách hàng điền vào đó những chi tiết nội dung của
hợp đồng.
1.2.2. Nội dung của HĐBH


Theo quy định của LKDBH 2014 một HĐBH phải có những nội dung 8 sau đây:
- Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm
hoặc người thụ hưởng;
- Đối tượng bảo hiểm;
- Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản;
- Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;
- Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;
- Thời hạn bảo hiểm;
- Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;
- Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;
- Các quy định giải quyết tranh chấp;
- Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
Ngoài những nội dung đã được liệt kê như trên, hợp đồng bảo hiểm có thể có các nội
dung khác do các bên thỏa thuận.
Thứ nhất, Đối tượng bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm bao giờ cũng hướng tới mục đích là được bảo hiểm khắc
phục tổn thất tài chính khi xảy ra rủi ro đối với tài sản hoặc đối với tính mạng sức
khỏe của con người. Rủi ro xảy ra có thể đem đến tổn thất tài chính cho chính người
tham gia bảo hiểm, có thể là cho người thứ ba. Vì vậy, trong các hợp đồng bảo hiểm,
bên mua bảo hiểm tham gia để bảo hiểm cho chính họ, thì đối tượng được bảo hiểm là
sinh mạng, sức khỏe, tài sản của họ, trong các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm tham
gia để bảo hiểm cho người thứ ba thì đối tượng được bảo hiểm là tính mạng, sức khỏe
của người thứ ba, nếu bên mua bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của mình, thì đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của họ đối với người thứ ba. Như vậy, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, thì bên

bảo hiểm có nghĩa vụ phải khắc phục những tổn thất tài chính thơng quan việc trả tiền
bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm hoặc bên thứ ba. Tuy
nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ này phải phù hợp với một trong các đối tượng được bảo
hiểm sau đây.
Đối tượng bảo hiểm là con người
8

Điều 13. Nội dung hợp đồng bảo hiểm, văn bản hợp nhất Luật kinh doanh bảo hiểm số 12/VBHN-VPQH


Con người được bảo hiểm về các yếu tố như tuổi thọ, sinh mạng, tai nạn thân thể và
sức khỏe vốn là những vấn đề vô giá, không thể cân đo đong đếm về giá trị. Nếu bảo
hiểm về tính mạng con người, thì khi người được bảo hiểm chết, bên bảo hiểm phải
chi trả một khoản tiền được xác định trước tương ứng với mức phí bảo hiểm thành
một khoản tiền cụ thể. Nếu bảo hiểm về tai nạn con người, thì bên bảo hiểm phải trả
một số tiền trong phạm vi số tiền bảo hiểm trên cơ sở căn cứ vào thương tật thực tế
của người được bảo hiểm. Nếu bảo hiểm về sức khỏe con người, thì bên bảo hiểm
phải chi trả tiền bảo hiểm trong phạm vi số tiền trên cơ sở căn cứ chi phí thực tế, hợp
lý trong việc khám chữa bệnh, phục hồi sức khỏe của người được bảo hiểm do bệnh
tật hoặc tai nạn gây ra.
Đối tượng bảo hiểm là tài sản
Theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm thì tài sản được bảo hiểm bao gồm vật
có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản 9. Tuy nhiên, người
mua bảo hiểm cho một tài sản phải là người có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với
tài sản đó, đồng thời tính chất, giá trị của tài sản được bảo hiểm là căn cứ xác định phí
bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, mức trách nhiệm bồi thường,...Vì
vậy, tài sản là đối tượng được bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm phải đáp ứng
được các yêu cầu sau:
Nếu tài sản là một vật, thì vật đó phải thuộc sở hữu của người mua bảo hiểm và phải là
một vật có thực, nói một cách khác thì vật được bảo hiểm phải là vật đã có thật (vật

hiện hữu) vào thời điểm hợp đồng bảo hiểm được giao kết bởi chỉ xác định được mức
phí bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản loại trừ trong một hợp đồng bảo hiểm
tài sản khi căn cứ vào tính chất, đặc tính và giá trị của vật được bảo hiểm . Trong thực
tế, doanh nghiệp bảo hiểm có kinh doanh những loại hình bảo hiểm như bảo hiểm vật
ni, cây trồng hay bảo hiểm nông nghiệp. Đây là các đối tượng bảo hiểm chưa được
xác định chính xác như các loại tài sản thơng thường khác nhưng nhìn chung thì đây
cũng là một dạng của bảo hiểm có đối tượng là tài sản10.
9

Điều 40. Đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản, Văn bản hợp nhất Luật kinh doanh bảo hiểm, văn

bản số 12/VBHN-VPQH.
10

Phạm Văn Tuyết, 2007, Bảo hiểm và Kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, trang 151.


Nếu tài sản là tiền, thì phải là tiền dạng có giá trị lưu hành và được phép lưu hành theo
quy định của pháp luật, nếu là giấy tờ có giá trị, thì giấy tờ đó phải trị giá được thành
tiền, do một cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phát hành và có thể lưu thơng dân sự
được.
Nếu tài sản là một quyền về tài sản thì quyền đó phải trị giá được thành tiền và được
phép lưu thông dân sự.
Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự nói chung là các quy định của luật dân sự về hậu quả pháp lý
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng bắt buộc người có hành vi vi phạm
phải gánh chịu các hậu quả pháp lý nhất định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của bên có quyền bị xâm phạm. Trong các hậu quả pháp lý đó có hậu quả khơng mang
tính tài sản (như trách nhiệm cơng khai xin lỗi) có hậu quả mang tính tài sản (như bồi
thường thiệt hại). Tuy nhiên, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì bên bảo

hiểm chỉ gánh chịu trách nhiệm bù đắp tổn thất cho người bị người tham gia bảo hiểm
gây thiệt hại. Vì vậy, trách nhiệm dân sự là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm chỉ là
trách nhiệm về bồi thường thiệt hại.
Hành vi gây thiệt hại có thể bắt nguồn từ việc người được bảo hiểm không thực hiện
hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ của mình theo một hợp đồng mà người đó đang
tham gia hoặc có thể là một hành vi gây thiệt hại ngồi hợp đồng. Vì vậy pháp luật
chia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ra làm hai loại:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ, đây là loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được hình thành do hai bên có quan hệ nghĩa vụ với nhau, trong đó
bên vi phạm nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm nếu hành vi vi
phạm của mình gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đây là loại trách nhiệm được hình
thành giữa hai chủ thể bất kỳ, loại trách nhiệm này chỉ xuất hiện khi một bên có hành


vi gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích hợp pháp khác của người khác thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại 11.
Thứ hai, Điều kiện bảo hiểm 12
Người tham gia bảo hiểm phải có quyền lợi được bảo hiểm theo đối tượng bảo hiểm.
Đây là quyền bảo hiểm hợp pháp có nghĩa là người tham gia bảo hiểm phải có một
mối liên hệ nhất định với đối tượng được bảo hiểm đã được pháp luật công nhận.
Trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản, mối liên hệ đầu tiên giữa bên tham gia bảo hiểm
và tài sản được bảo hiểm đó là người này phải là chủ sỏ hữu của tài sản được bảo
hiểm. Một người không thể nào mua một bảo hiểm tài sản mà tài sản này không thuộc
quyền sở hữu của anh ta (quy định này nhằm ngăn chặn các hành vi mua bảo hiểm tài
sản cho tài sản của người khác sau đó phá hủy nó nhằm được bồi thường). Ngồi
quyền sở hữu thì một người có thể có các mối liên hệ khác đối với một tài sản mà
thông qua mối liên hệ đó, họ được các lợi ích từ tài sản như một người có quyền sử
dụng đối với tài sản mặc dù họ không phải là chủ sở hữu của tài sản nhưng khi tài sản
đó bị thiệt hại thì họ cũng bị mất đi một lợi ích nhất định. Chẳng hạn, một người đang

sử dụng một chiếc xe ô tô song chiếc xe này được họ thuê từ Công ty cho thuê tài
chính. Nhưng người sử dụng xe sẽ phải chịu thiệt hại nếu xe bị hư hỏng vì tai nạn, nên
họ là được quyền tham gia bảo hiểm để bảo hiểm cho chiếc xe. Vì vậy trong những
trường hợp này, người đang có quyền sử dụng, đang chiếm hữu có quyền tham gia
hợp đồng bảo hiểm cho tài sản mà họ đang chiếm hữu sử dụng.
Trong các hợp đồng bảo hiểm con người, mối liên hệ giữa người tham gia bảo hiểm
với đối tượng được bảo hiểm là mối liên hệ trực tiếp giữa người tham gia bảo hiểm
với thiệt hại xảy ra theo đó họ là người gánh chịu tổn thất. Vì vậy, người tham gia bảo
hiểm được coi là người có quyền lợi có thể được bảo hiểm nếu đối tượng bảo hiểm là
chính bản thân họ hoặc đối tượng được bảo hiểm là những người họ có quan hệ nghĩa
vụ ni dưỡng, cấp dưỡng.
11

Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Bộ luật dân sự 2015

12

Phạm Văn Tuyết, 2007, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo Pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp Hà Nội,

mục 6, trang 161.


Đối tượng được bảo hiểm phải trong trạng thái bình thường. Tuy nhiên, thật khó để
xác định được như thế nào được coi là đang trong trạng thái bình thường. Thuật ngữ
này giúp chúng ta hiểu chỉ có thể bảo hiểm được những gì mà thiệt hại khơng phải là
một điều chắc chắn xay ra. Ví dụ, trong bảo hiểm nhân thọ không thể bảo hiểm cho
một người bị nhiễm AIDS hoặc trong bảo hiểm tài sản không thể nào bảo hiểm cho
những loại tài sản mà không đủ điều kiện để hoạt động bình thường.
Thứ ba, Giải thích hợp đồng bảo hiểm
Các điều khoản nói chung và điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm nói riêng là cơ sở

để xác định quyền và nghĩa vụ giữa các bên nên cần phải đảm bảo tính rõ ràng, đầy đủ
và đơn nghĩa. Tuy vậy, trong thực tế không phải hợp đồng nảo cũng đảm bảo điều này,
nên thường xảy ra tranh chấp do cách hiểu hai bên vẫn chưa thống nhất. Trong trường
hợp này việc giải thích hợp đồng được đặt ra là giải thích theo hướng phù hợp với tính
chất hợp đồng và có lợi hơn cho bên yếu thế. Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp
đồng theo mẫu do doanh nghiệp bảo hiểm tự soạn thảo và người mua bảo hiểm chỉ
dựa vào hợp đồng được soạn thảo sẵn này để quyết định là có tham gia bảo hiểm hay
không. Là một loại hợp đồng theo mẫu do chính bản thân doanh nghiệp tự soạn thảo
nên hợp đồng theo mẫu này đầu tiên chịu sự điều chỉnh của bộ luật dân sự khi “hợp
đồng theo mẫu có điều khoản khơng rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải
chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó13”. Xét về chun mơn sự hiểu biết và kinh
nghiệm trong lĩnh vực giữa hai bên doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm,
đa phần trong mọi trường hợp bên doanh nghiệp bảo hiểm luôn chiếm ưu thế cao hơn
vì đây là nghành nghề mà họ kinh doanh, kiến thức của họ về bảo hiểm chắc chắn
phải hơn bên mua bảo hiểm vì vậy việc họ soạn thảo sẵn hợp đồng bảo hiểm đa phần
sẽ có lợi cho họ nhiều hơn. Trong bên mua bảo hiểm thường có ít kiến thức và kinh
nghiệm nên dẫn đến việc họ không thể và lường trước hết các rủi ro có thể xảy ra
trong hợp đồng này khi chấp nhận tham gia hợp đồng bảo hiểm, điều này có nghĩa là
họ phải chấp nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng bảo hiểm đã được soạn thảo sẵn. Vì
vậy trong quan hệ hợp đồng này bên mua bảo hiểm đa phần là bên yếu thế hơn. Xuất
phát từ nguyên tắc giải thích hợp đồng có lợi cho bên yếu thế mà Luật kinh doanh bảo
13

Khoản 2, Điều 405. Hợp đồng theo mẫu. Bộ luật dân sự 2015.


hiểm đã cụ thể hóa nó bằng quy định như sau “Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm
có điều khoản khơng rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho
bên mua bảo hiểm14”. Như vậy theo các quy định trên của pháp luật việc giải thích
hợp đồng bảo hiểm phải trên ngun tắc có lợi cho bên mua bảo hiểm.

Thứ tư, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm (Điều 16, Luật KDBH)
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được coi là phần loại trừ trong một hợp
đồng bảo hiểm, trong đó, liệt kê các trường hợp bên bảo hiểm không phải trả tiền bảo
hiểm hoặc không phải bồi thường khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Việc xác định thiệt hại
không được bảo hiểm có ý nghĩa quan trọng trong việc kinh doanh bảo hiểm của
doanh nghiệp bảo hiểm.
Phần loại trừ này nhằm hạn chế phạm vi rộng lớn những thiệt hại có thể xảy ra đối với
đối tượng được bảo hiểm để một mặt, đảm bảo hiệu quả trong kinh doanh bảo hiểm,
bởi lẽ nếu bảo hiểm với một phạm vi không hạn chế thì tần suất rủi ro sẽ rất lớn, do
vậy, sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng có thể xảy ra. Mặt khác, cần phải thông qua
phần loại trừ để giữ phí bảo hiểm ở một mức hợp lý vì nếu khơng, mức phí bảo hiểm
sẽ cao, làm hạn chế khả năng tham gia hợp đồng bảo hiểm của những người có nhu
cầu bảo hiểm.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thường được pháp luật quy định tương ứng
với từng loại nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể, trên cơ sở đó, doanh nghiệp bảo hiểm đưa
vào phần loại trừ trong các hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy, nếu trong một hợp đồng bảo
hiểm không xác định về một điều khoản loại trừ đã được pháp luật quy định, thì bên
bảo hiểm vẫn khơng phải bồi thường đối với các tổn thất xảy ra trong các trường hợp
đã được pháp luật loại trừ.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo
hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm.

14

Điều 21. Giải thích hợp đồng bảo hiểm, văn bản hợp nhất Luạt kinh doanh bảo hiểm số 12/VBHN-VPQH


Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo
hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết

hợp đồng.
Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau
đây:
- Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;
- Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh
nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Thứ năm, quyền và nghĩa vụ củ bên mua bảo hiểm
Quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm15
Bên mua bảo hiểm có quyền,
- Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm;
- Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; cấp
giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm;
- Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 3 Điều
19, khoản 1 Điều 20 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2014;
- Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm;
- Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc
theo quy định của pháp luật;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ,
- Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp
đồng bảo hiểm;
- Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu
cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;
15

Điều 18. Quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm, Văn bản hợp nhất Luật kinh doanh bảo hiểm, văn bản số

12/VBHN-VPQH



- Thơng báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách
nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo
yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;
- Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm;
- Áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm16
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền,
- Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;
- Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm;
- Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều
19, khoản 2 Điều 20, khoản 2 Điều 35 và khoản 3 Điều 50 của Luật Kinh doanh bảo
hiểm 2014;
- Từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người
được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc
trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;
- Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi
thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách
nhiệm dân sự;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

16


Điều 17. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, Văn bản hợp nhất Luật kinh doanh bảo hiểm văn

bản số 12/VBHN-VPQH


Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ,
- Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền,
nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm;
- Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi
giao kết hợp đồng bảo hiểm;
- Trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm;
- Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường;
- Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi
thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm và thời điểm phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm
1.2.3.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
Theo như quy định của bộ luật dân sự về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì “hợp
đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác17”.Dựa theo quy định trên, thì sẽ có
ba trường hợp có hiệu lực của hợp đồng.
Thứ nhất, trường hợp pháp luật quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, có
những loại hợp đồng pháp luật quy định cụ thể về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
đó, ví dụ như các hợp đồng sau:
 Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp
đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh,

17


Khoản 1, Điều 401. Hiệu lực của hợp đồng, Bộ luật dân sự 2015


góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa
chính.18
 Hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp
đồng mua bán nhà ở thương mại có hiệu lực kể từ thời điểm cơng chứng, chứng
thực19.
Điều này có nghĩa là luật chuyên ngành thuộc những lĩnh vực cụ thể sẽ có quy định về
thời điểm có hiệu lực của những loại hợp đồng trên; song luật kinh doanh bảo hiểm
cũng khơng có quy định cụ thể về thời điểm nào sẽ phát sinh hiệu lực của hợp đồng vì
vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm là thuộc hai trường hợp còn
lại hoặc là do sự thỏa thuận của bên bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm về thời điểm
có hiệu lực trong hợp đồng bảo hiểm mà họ ký kết hoặc là tại thời điểm hai bên giao
kết hợp đồng.
Đối với trường hợp tại thời điểm giao kết sẽ làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, hợp
đồng bảo hiểm là một hợp đồng được giao kết với hình thức là văn bản vì vậy thời
điểm có hiệu lực hợp đồng này là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng
hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản20.
Trường hợp còn lại là sự thỏa thuận của hai bên về thời điểm phát sinh hiệu lực của
hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền tự do thỏa thuận nội dung của hợp đồng
vì vậy họ cũng có quyền lựa chọn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Khi hai bên
18

Khoản 3, Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa

kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất, luật đất đai 2013.
“Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất”.

19

Khoản 1, Điều 122. Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở, Luật

nhà ở 2014
“1. Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán
nhà ở thương mại thì phải thực hiện cơng chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này.
Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm
công chứng, chứng thực hợp đồng”
20

Khoản 4, Điều 400. Thời điểm giao kết hợp đồng, Bộ luật dân sự 2015.


thỏa thuận về thời điểm nào có hiệu lực của hợp đồng trong hợp đồng bảo hiểm mà họ
đã ký kết với nhau thì tại thịi điểm này hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực.
1.2.3.2. Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm
Trách nhiệm bảo hiểm sẽ phát sinh khi có một trong các trường hợp21 sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí
bảo hiểm.
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh
nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm.
Thứ ba, có bằng chứng về việc hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo
hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm.
Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm khác với thời điểm phát sinh hiệu lực của
hợp đồng bảo hiểm là do, tại thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng chỉ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên, bên doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm,
song không làm phát sinh trách nhiệm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Cụ thể đây là

hai giai đoạn khác nhau trong quá trình hai bên thực hiện hợp đồng bảo hiểm, một giai
đoạn xảy ra trước một giai đoạn xảy ra sau, đầu tiên một bên đề nghị giao kết hợp
đồng, bên còn lại chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và ký xác nhận vào hợp đồng,
hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hoặc có hiệu lực theo
như thỏa thuận trong hợp đồng, lúc này bên mua vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ đóng
phí bảo hiểm đầy đủ vì vậy vẫn chưa làm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, cũng có
nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm sẽ khơng phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, trong quá
trình thực hiện hợp đồng bên mua có thể thực hiện đúng nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm,
có thể bên mua nợ phí bảo hiểm song có sự thỏa thuận về việc nợ phí này giữa hai
bên, lúc này đã hội đủ điều kiện đó là thuộc vào một trong ba trường hợp làm phát
sinh trách nhiệm bảo hiểm đã trình bày như trên, sẽ làm phát sinh trách nhiệm bảo
21

Điều 15. Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, văn bản hợp nhất Luật kinh doanh bảo hiểm văn bản số

12/VBHN-VPQH


hiểm, có nghĩa là khi đã phát sinh trách nhiệm thì bên doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải
có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
1.2.4.Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và chuyển giao hợp đồng bảo hiểm

Chuyển nhượng HĐBH
Chuyển giao HĐBH
Được hiểu là việc bên tham gia bảo Được hiểu là việc doanh nghiệp
Khái
niệm


hiểm chuyển giao tư cách pháp lý bảo hiểm chuyển giao tư cách
(quyền và nghĩa vụ) cho chủ thể pháp lý (quyền và nghĩa vụ) cho
khác có đủ điều kiện theo thỏa doanh nghiệp bảo hiểm khác.
thuận trong HĐBH
1. Nội dung quyền và nghĩa vụ trong HĐBH không thay đổi cho đến khi
hết thời hạn hợp đồng. Do đó, các bên tham gia hợp đồng đều được
hưởng các quyền và có nghĩa vụ đối với nhau như các điều khoản đã
thỏa thuận trong HĐBH.
2. Chuyển giao HĐBH và chuyển nhượng HĐBH về bản chất đều thay
đổi vị trí pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của bên chuyển giao/ bên chuyển

Sự giống nhượng. Chủ thể nhận chuyển giao/ chuyển nhượng sẽ thế quyền- phát
nhau

sinh trách nhiệm như đã thỏa thuận trong các điều khoản của HĐBH.
3. Chủ thể nhận chuyển giao/ chuyển nhượng phải đáp ứng đủ điều kiện
thì mới được nhận chuyển giao/ chuyển nhượng. Tức là, chủ thể nhận
chuyển giao thì phải đang kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm được chuyển
giao, cịn chủ thể nhận chuyển nhượng thì phải có năng lực hành vi dân
sự và phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với đối tượng bảo

Mối

hiểm.
Là mối quan hệ bên mua bảo hiểm Là mối quan hệ giữa hai doanh

quan hệ ban đầu( hay còn gọi là bên chuyển nghiệp bảo hiểm cùng kinh doanh


nhượng HĐBH) với chủ thể mua nghiệp vụ bảo hiểm được chuyển

trong

bảo hiểm khác (hay còn gọi là bên giao (hay nói cách khác là giữa

chuyển

nhận chuyển nhượng HĐBH) có đủ doanh nghiệp chuyển giao HĐBH

nhượng/

điều kiện (có năng lực hành vi dân với doanh nghiệp nhận chuyển

chuyển

sự đầy đủ và phải có quyền lợi có giao HĐBH).

giao

thể được bảo hiểm đối với đối

HĐBH

tượng bảo hiểm) và được doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận.
Bản chất của việc chuyển nhượng Bản chất pháp lí của việc chuyển
HĐBH là việc một chủ thể khác giao HĐBH là một doanh nghiệp
(bên nhận chuyển nhượng HĐBH) bảo hiểm khác (doanh nghiệp
sẽ thay thế vị trí pháp lí (kế thừa nhận chuyển giao HĐBH) thay
quyền và nghĩa vụ) của bên mua thế vị trí pháp lý (thừa kế quyền
bảo hiểm ban đầu trong HĐBH. và nghĩa vụ) của doanh nghiệp


Bản chất Theo đó, người nhận chuyển bảo hiểm trong HĐBH (doanh
pháp lý

nhượng HĐBH sẽ trở thành bên nghiệp chuyển giao HĐBH).
mua bảo hiểm mới để tiếp tục duy Theo đó, doanh nghiệp nhận
trì hợp đồng và hưởng các quyền chuyển giao HĐBH sẽ trở thành
lợi khác (nếu có) theo hợp đồng.

bên bán bảo hiểm mới để tiếp tục
duy trì HĐBH và hưởng các
quyền lợi khác (nếu có) theo hợp

đồng.
Hậu quả Bản chất pháp lý của việc chuyển Bản chất pháp lý của chuyển giao
pháp
đối

lý nhượng HĐBH chính là thay thế vị hợp đồng bảo hiểm chỉ là thay thế
với trí pháp lý của bên mua bảo hiểm vị trí pháp lý ( quyền và nghĩa vụ)


nên khi việc chuyển giao hợp đồng của doanh nghiệp bảo hiểm cho
có hiệu lực thì sẽ chấm dứt quyền một doanh nghiệp khác nên sẽ
và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm không làm ảnh hưởng đến quyền
ban đầu đối với doanh nghiệp bảo và nghĩa vụ của bên mua bảo
bên mua
bảo hiểm

hiểm. Trách nhiệm pháp lý của hiểm đối với doanh nghiệp bảo

doanh nghiệp bảo hiểm đối với bên hiểm theo HĐBH. Doanh nghiệp
mua bảo hiểm ban đầu cũng chấm nhận chuyển giao HĐBH sẽ phải
dứt. Theo đó, sẽ phát sinh mối quan chịu trách nhiệm pháp lý đối với
hệ giữa bên nhận chuyển nhượng bên mua bảo hiểm theo điều
hợp đồng và doanh nghiệp bảo khoản của HĐBH.

hiểm về quyền và nghĩa vụ.
Thủ tục Bên mua bảo hiểm muốn chuyển Doanh nghiệp bảo hiểm chuyển
chuyển

nhượng HĐBH cho chủ thế khác giao HĐBH phải có đơn đề nghị

giao/

thì phải thông báo bằng văn bản chuyển giao HĐBH gửi Bộ Tài

chuyển

đến doanh nghiệp bảo hiểm. Việc chính nêu rõ lý do, kế hoạch

nhượng

chuyển nhượng chỉ có hiệu lực khi chuyển giao, kèm theo hợp đồng

HĐBH

doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chuyển giao. Việc chuyển giao
xác nhận việc chuyển nhượng đó. HĐBH chỉ được tiến hành sau khi
Trừ


trường

hợp

việc

chuyển đã được Bộ Tài chính chấp thuận

nhượng được tực hiện theo tập bằng văn bản. Trong thời hạn 30
quán quốc tế.

ngày, kể từ ngày Bộ Tài chính
chấp thuận việc chuyển giao
HĐBH, doanh nghiệp chuyển


giao HĐBH phải công bố về việc
chuyển giao và thông bảo cho bên
mua bảo hiểm bằng văn bản.
Do pháp luật về bảo hiểm khơng Cịn đối với việc chuyển giao hợp
quy định rõ các trường hợp được đồng bảo hiểm, pháp luật quy
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm định rõ các trường hợp chuyển
nên có thể hiểu rằng nguyên nhân giao hợp đồng bảo hiểm là:
của việc chuyển nhượng chính là - Doanh nghiệp bảo hiểm có nguy
Trường
hợp
chuyển
nhượng/

bên mua bảo hiểm có nhu cầu cơ mất khả năng thanh tốn,

chuyển nhượng (tức là khơng có - Doanh nghiệp bảo hiểm chia,
nhu cầu tiếp tục hợp đồng bảo tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể,
hiểm).

chuyển
giao
HĐBH

- Theo thoả thuận giữa các doanh
nghiệp bảo hiểm.
Trong trường hợp doanh nghiệp
bảo hiểm có nguy cơ mất khả
năng thanh tốn, giải thể mà
khơng thỏa thuận được việc
chuyển giao HĐBH cho doanh
nghiệp bảo hiểm khác thì Bộ Tài
chính chỉ định doanh nghiệp bảo
hiểm nhận chuyển giao.

CHƯƠNG II. CÁC LOẠI HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

1.1. Hợp đồng bảo hiểm con người ( HĐBHCN).
1.1.1. Khái niệm
Trong pháp luật kinh doanh bảo hiểm, pháp luật không quy định cụ thể khái niệm của
từng loại hợp đồng bảo hiểm mà chỉ nói chung hợp đồng bảo hiểm là gì. Vì thế ta có
thể khái quát khái niệm của HĐBHCN tương tự như HĐBH, tuy nhiên, 22đối tượng
của nó chỉ liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn con người. Theo đó:
22



“Hợp đồng bảo hiểm con người là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm để bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn của người
tham gia bảo hiểm hoặc người được chỉ định trong hợp đồng, theo đó bên mua bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm23”.
1.1.2. Đặc điểm
1.1.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh tốn có định mức
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn con
người24. Đó là những thứ vơ giá khơng thể tính tốn được, khơng thể xác định được
chính xác và trên thực tế không thể bù đắp hết nổi. Khơng ai có thể xác định được tính
mạng con người trị giá là bao nhiêu. Vì thế trong HĐBHCN không tồn tại điều khoản
giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) ở đây là trả tiền bảo
hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng và không phải là trách nhiệm bồi thường tổn thất
mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo hiểm. Và cũng chính từ đối tượng
HĐBHCN khơng thể tính tốn được thành tiền nên số tiền DNBH trả cho khách hàng
chỉ có thể là một số tiền ấn định sẵn ngay từ khi kí kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm, bên bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị
giới hạn bởi nguyên tắc giá trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH trách
nhiệm dân sự.
Chính từ đặc điểm này mà người tham gia HĐBHCN khi kí kết hợp đồng cần cân
nhắc dựa trên mức thu nhập, khả năng tài chính để quyết định số tiền tham gia phù
hợp.
1.1.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng
và nguyên tắc thế quyền25.
23

Tham khảo tại địa chỉ: />
luan-va-thuc-tien-16257/ , ngày truy cập: 20/9/2017.
24


Khoản 1, Điều 31. Bảo hiểm con người, văn bản hợp nhất Luật kinh doanh bảo hiểm, văn bản số 12/VBHN-

VPQH
25

Nguyên tắc thế quyền (subrogation)

“Thế quyền là quyền của một người, sau khi bồi thường cho một người khác theo bổn phận pháp lý, có thể thay
thế vị trí của người đó, cũng như được hưởng mọi quyền lợi hợp pháp của người đó để địi người thứ ba có trách


×