Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH CÚM GIA CẦM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 76 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG THỊ NGỌC LAN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ
CỦA BỆNH CÚM GIA CẦM VÀ ĐÁP ỨNG
MIỄN DỊCH CỦA GÀ, VỊT VỚI VACCINE
VÔ HOẠT H5N1, CHỦNG RE -5
TẠI TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y

THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


2

HOÀNG THỊ NGỌC LAN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ
CỦA BỆNH CÚM GIA CẦM VÀ ĐÁP ỨNG
MIỄN DỊCH CỦA GÀ, VỊT VỚI VACCINE
VÔ HOẠT H5N1, CHỦNG RE -5
TẠI TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60 64 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quang Tính
PHÒNG ĐÀO TẠO

KHOA CHĂN NUÔI THÚ Y

GIÁNG VIÊN HƯỚNG DẪN

THÁI NGUYÊN - 2017

2


3

3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học riêng của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, chính xác, chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ thực hiện luận án đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận án đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Ngọc Lan
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Khoa
sau Đại học, Khoa Chăn nuôi - Thú y đã quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi

trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa học PGS.
TS. Nguyễn Quang Tính là người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban lãnh đạo Cơ
quan Thú y vùng II, cùng tập thể cán bộ, công nhân viên Phòng Dịch tễ, Trạm Chẩn
đoán xét nghiệm bệnh động vật - Cơ quan Thú y vùng II; Phòng Dịch tễ - Cục Thú
y; Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh đã tạo mọi điều kiện tốt nhất và
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân,
bạn bè, những người luôn tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn này.

3


4

4
MỤC LỤC

4


5

5
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
ARN
Cs

GMT
HA
HGKT
HI
HPAI
KN
KT
OIE
PBS
RDE
TN
TP
TX

5

: Acid ribonucleic
: Cộng sự
: Geometic Mean Titer
: Hemagglutination test
: Hiệu giá kháng thể
: Hemagglutination inhibitory test
: High Pathogenicity Avian Influenza
: Kháng nguyên
: Kháng thể
: Office International Epizooties
: Phosphate - Bufered - Saline
: Receptor Destroying Enzyme
: Thí nghiệm
: Thành phố

: Thị xã


6

6
DANH MỤC CÁC BẢNG

6


7

7
DANH MỤC CÁC HÌNH

7


8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáp với
các tỉnh Hải Dương, Bắc Giang, Lạng Sơn, Hải Phòng, có đường biên giới dài
132,8 km giáp Trung Quốc và vùng duyên hải Quảng Ninh chạy dọc 200 hải
lý. Là địa phương có 118 km đường biên giới giáp với Trung Quốc bao gồm 3
cửa khẩu chính và hàng trăm điểm, bến đường mòn lối mở tiểu ngạch, Quảng
Ninh hiện đã, đang và vẫn tiếp tục phải đối mặt với nguy cơ dịch cúm gia cầm
xâm nhập và lây lan qua các hoạt động buôn bán, vận chuyển và tiêu thụ gia
cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu, không rõ nguồn gốc qua biên giới. Đây là

nguyên nhân chính gây bùng nổ dịch cúm gia cầm trên địa bàn tỉnh.
Bệnh cúm gia cầm là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm lây lan rất
nhanh, gây chết hàng loạt gia cầm và chim hoang dã, có thể lây sang người, do
virus type A họ Orthomyxorviridae gây nên (Phạm Sỹ Lăng, 2008) [18].
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và tổ chức Thú y thế giới (OIE) đã thống
nhất định nghĩa như sau: Bệnh truyền nhiễm của gia cầm gây ra bởi bất cứ
virus cúm type A có chỉ số gây bệnh qua đường tĩnh mạch cho gà 6 tuần tuổi
lớn hơn 1, 2 hoặc là bất cứ virus nhóm A type phụ H5 hoặc H7 không phụ
thuộc vào độc lực và tính gây bệnh của chúng cho gia cầm (Phạm Sỹ Lăng,
2008) [18].
Virus cúm gia cầm là virus ARN phân mảnh có khả năng đột biến mạnh,
với hai loại kháng nguyên bề mặt H (từ H1 đến H16) và N (từ N1 đến N9)
đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh học và miễn dịch học (Tô Long
Thành, 2005) [20].
Đặc điểm là gen virus cúm gia cầm thường xuyên biến đổi do vậy việc
phòng bệnh bằng vaccine trở nên rất khó khăn. Do vậy, người ta phải luôn
8


9
chú ý tới tính tương đồng của virus vaccine và virus ngoài thực địa để lựa
chọn vaccine một cách chính xác. Bệnh càng trở lên nguy hiểm khi căn
bệnh có khả năng lây sang một số động vật khác đặc biệt lây sang người
(Bùi Quang Anh, Văn Đăng Kỳ, 2004) [1].
Dịch cúm hiện nay đã đang là mối đe dọa lớn đối với toàn cầu. Đến nay
đã 12 năm có hơn 50 nước trên thế giới xuất hiện dịch. Tại Việt Nam, dịch
cúm gà lần đầu tiên xảy ra từ tháng 12 năm 2003 và tháng 03 năm 2004, đã có
57/64 tỉnh thành có dịch với 43 triệu gà, gia cầm bị bệnh và nằm trong ổ dịch
phải tiêu hủy. Thiệt hại kinh tế khoảng 3000 tỷ đồng Việt Nam (Phạm Sỹ
Lăng, 2005) [17].

Theo khuyến cáo của WHO, FAO, OIE, vaccine nên sử dụng như một
biện pháp chiến lược, toàn diện để phòng chống bệnh cúm gia cầm tại Việt
Nam. Trên cơ sở đó, từ năm 2005 Chính phủ Việt Nam đã quyết định sử
dụng vaccine cúm gia cầm nhập ngoại để phòng bệnh cho đàn gia cầm ở
hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước và đã thu được những kết quả tương đối
tích cực trong công tác giám sát, phòng chống bệnh cúm gia cầm (OIE, 1992)
[26].
Năm 2016 Quảng Ninh đã triển khai tiêm phòng vaccine H5N1 cho toàn
bộ đàn gia cầm, thủy cầm trên địa bàn tỉnh. Có thể thấy, khi tiêm cùng một
loại vaccine cho mỗi địa phương khác nhau thì khả năng đáp ứng miễn dịch
của đàn gia cầm cũng khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh cúm gia
cầm và đáp ứng miễn dịch của gà, vịt với vaccine vô hoạt H5N1, chủng Re -5
tại tỉnh Quảng Ninh’’.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được một số đặc điểm dịch tễ bệnh cúm gia cầm ở tỉnh Quảng Ninh.
9


10
- Đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch của gia cầm được tiêm vaccine
H5N1 tại tỉnh Quảng Ninh.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn thu được
- Các kết quả nghiên cứu tại Quảng Ninh nhằm cung cấp, bổ sung và
hoàn thiện các thông tin về bệnh cúm gia cầm ở Việt Nam.
- Có biện pháp tổ chức tiêm vaccine cúm gia cầm đại trà cho đàn gia cầm
của tỉnh Quảng Ninh để đạt được kết quả cao nhất. Từ đó rút ra được những
kinh nghiệm tiêm phòng trong thực tế cho tỉnh nói riêng và cho cả nước nói
chung.


10


11
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Giới thiệu chung về bệnh cúm gia cầm
Bệnh cúm gia cầm (Avian Influenza) trong lịch sử còn có tên gọi là
Fowl Plague, đã được Porroncito mô tả lần đầu tiên ở Italia vào năm 1878
và ông nhận định một cách sáng suốt rằng tương lai nó sẽ là một bệnh
quan trọng và nguy hiểm. Nhưng sau đó 23 năm, năm 1901 Centai và
Savunozzi mới xác định được căn nguyên siêu nhỏ (Filterable agent) là yếu
tố gây bệnh. Từ đó, mãi đến năm 1955 virus gây bệnh mới được Achafer
xác định virus thuộc type A thông qua kháng nguyên bề mặt H7N1 và H7N7.
Trong những năm gần đây, dịch cúm gia cầm chủng độc lực cao (HPAI Highly Pathogenic Avian Influenza) xuất hiện và đã giết chết hàng chục triệu
gia cầm trên thế giới, đồng thời khiến hàng tỷ gia cầm khác phải tiêu hủy
bắt buộc để tránh lây lan, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi.
Tính nguy hiểm của bệnh còn thể hiện ở khả năng biến chủng của virus gây
bệnh cho cả con người và có thể thành đại dịch, vì thế bệnh cúm gia cầm
đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết (Alexander D.J, 1993)
[23].
1.2. Lịch sử bệnh cúm gia cầm
Trong ba thế kỷ qua, cứ khoảng 30 đến 40 năm, thế giới lại chứng kiến một
đại dịch cúm. Trước khi có vaccine, mỗi đợt dịch giết chết hàng triệu người.
Hippocrates (460-370 B.C.), thầy thuốc Hy Lạp cổ đại, ông tổ nghề y,
trong ghi chép của mình đôi khi nhắc đến các triệu chứng như cúm. Tuy vậy
cho đến năm 1580, chưa từng có dịch cúm nào được ghi nhận trên thế giới.
Thời vua Phillip II ở Tây Ban Nha mới xuất hiện cúm. Các nhà khoa học cho
rằng chính đội quân của vua Phillip đã làm lây lan virus chết người này sang

11


12
những phần khác của châu Âu (Cục Thú y, 2004) [5].
Năm 1918 chứng kiến đại dịch cúm nghiêm trọng nhất lịch sử thế giới,
thậm chí còn được cho là đại dịch kinh hoàng nhất trong các loại bệnh dịch.
Khoảng 50 triệu người chết, trong đó riêng ở Tây Ban Nha có 8 triệu, vì thế
dịch cúm này mang tên cúm Tây Ban Nha (Cục Thú y, 2004) [5].
Năm 1957 đánh dấu dịch cúm châu Á. Nhờ các tiến bộ khoa học, dịch
bệnh nhanh chóng được xác định, các biện pháp y tế cần thiết được triển khai,
trong đó có việc sử dụng vaccine. Tuy vậy, số lượng người chết vì cúm vẫn ở
mức 2 triệu.
1.3. Tình hình dịch cúm gia cầm
1.3.1. Tình hình dịch cúm gia cầm trên thế giới
Tại châu Á, đúng như cảnh báo của tổ chức Y tế thế giới (WHO) virus
H5N1 đang lây lan rất nhanh và bùng phát trở lại ở nhiều nước châu Á và đến
nay đã tấn công cả 5 châu lục. Ông Marcos Kyprianou, phụ trách vấn đề Y tế
của Liên minh châu Âu (EU), nhận định khả năng đại dịch cúm gia cầm lây
sang con người đã trở nên rõ ràng và có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào trong
những năm tới nếu không có biện pháp ngăn chặn hiệu quả.
Năm 2003, ở Hà Lan dịch cúm gia cầm xảy ra với quy mô lớn do chủng
H7N7, 30 triệu gia cầm bị tiêu huỷ, 83 người lây nhiễm và 1 người chết, gây
thiệt hại về kinh tế hết sức nghiêm trọng (Phạm Sỹ Lăng, 2005) [17].
Năm 2004, tại Nhật Bản do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, đã phải
tiêu hủy hơn 300.000 con gia cầm. Tháng 6 năm 2005, một trang trại chăn
nuôi ở ngoại ô Tokyo cũng buộc phải tiêu hủy khoảng 94.000 con gia cầm sau
khi phát virus H5N2.
Năm 2013, dịch cúm A/H5N1 trên gia cầm đã xảy ra tại các nước:
Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Nepal, Cam pu chia, Triều Tiên, Việt Nam.

Ngoài ra, dịch cúm tại các nước khác như: Úc có cúm H7N7 và H7N2, Ý có
12


13
H7N7, Mexico có H7N3 và Nam Phi có H5N2, Trung Quốc có H5N1 và
H5N2. Đặc biệt virus cúm A/H5N2 chủng độc lực cao đã lây nhiễm cho đàn
gia cầm tại tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan. Đây là
trường hợp đầu tiên trên thế giới phát hiện virus cúm H5N2 độc lực cao và
chưa có vaccine phòng bệnh đặc hiệu cho gia cầm.
Từ đầu năm 2014 đến nay, dịch cúm gia cầm đã xảy ra tại một số nước
trong khu vực như: Cam pu chia, Trung Quốc, Hàn Quốc,… Tại Cam pu chia:
ổ dịch cúm A/H5N1 tại tỉnh Kongpong Cham phát sinh ngày 14/02/2014. Số
gia cầm mắc bệnh, chết là 5.250 con. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
trong năm 2013 tại Cam-pu-chia đã có 26 người mắc bệnh trong đó có 14
người tử vong cúm A/H5N1.
- Tại Trung Quốc: ổ dịch cúm A/H5N1 tại tỉnh Quý Châu ngày
02/01/2014 với số gia cầm mắc bệnh, chết là 31.564 con; ổ dịch ở tỉnh Hà Bắc
ngày 07/01/2014 với số gia cầm mắc bệnh, chết là 50.000 con.
Ổ dịch cúm A/H5N2 độc lực cao phát sinh ngày 20/01/2014 tại tỉnh Sơn
Đông với số gia cầm mắc bệnh, chết là 18.857 con (đây là tỉnh thứ 2 sau Hồ
Bắc phát hiện ổ dịch cúm A/H5N2 vào ngày 21/12/2013 với 129.700 con mắc
bệnh, chết). Ngoài ra từ cuối năm 2013 đến nay, Trung Quốc đã ghi nhận 03
trường hợp mắc cúm A (H10N8) tại tỉnh Giang Tây và đã có 02 ca tử vong, cả
hai đều có tiền sử tiếp xúc với gia cầm.
- Tại Hàn Quốc: phát hiện 05 ổ dịch cúm A/H5N8 trong tháng 01/2014
tại tỉnh Jeollabuk Do và tỉnh Jeollanam Do với 60.580 con gia cầm mắc bệnh,
chết và tiêu hủy.
- Năm 2016, ở Nigeria có hơn 65 ổ dịch cúm độc lực cao, chủng virus
được xác định trong các ổ dịch là chủng virus H5N1. Ước tính thiệt hại lên

đến 225.000 đã bị chết hoặc tiêu hủy.
- Đài Loan phát hiện cùng lúc hai chủng virus cúm gia cầm độc lực cao
là H5N2 và H5N8. Hơn 57.000 con gia cầm đã bị chết hoặc tiêu hủy và hơn
13


14
249.290 con khác bị ảnh hưởng bởi một chủng cúm gia cầm độc lực thấp của
H5N2 đã phát hiện thêm 5 trang trại của nước này.
- Tháng 10/ 2016 đến nay, dịch cúm A/H7N9 tại Trung Quốc có chiều
hướng gia tăng về quy mô, số lượng, tốc độ lây lan tạo thành đợt dịch thứ 5
với hơn 511 trường hợp mắc, 153 trường hợp tử vong (Theo WHO/ Tổ chức
Y tế Thế giới).
- Tại Đài Loan: từ ngày 06/02/2017 đến ngày 24/02/2017, đã có 6 trang
trại chịu thiệt hại to lớn do dịch cúm gia cầm H5N6 gây ra. Từ đó một loạt
các biện pháp mạnh đã được thực hiện ở nước này, nguồn trứng bán ra thị
trường được kiểm soát chặt chẽ hơn, cấm vận chuyển gia cầm trong thời điểm
bệnh dịch đang bùng phát (Theo WHO/ Tổ chức Y tế Thế giới).
- Cho đến ngày 16/02/2017, Pháp chính thức công bố có 263 ổ dịch cúm
gia cầm độc lực cao H5N8 trong vòng 36 tuần kể từ khi nước này bị đại dịch
cúm gia cầm xâm nhập. Theo báo cáo mới nhất của Tổ chức Thú y thế giới
(OIE) Pháp có thêm 32 ổ dịch mới được xác nhận vào tuần 7 năm 2017 và
liên quan tới khoảng 65.000 gia cầm. Hơn 54.000 gia cầm được tiêu hủy ở
phía Tây Nam nước Pháp (OIE, 2017) [34].
- Ngày 28/02/2017, Nhật Bản phát hiện 201 con chim hoang dã đã bị
nhiễm cúm A chủng H5N6. Đồng thời phát hiện sự có mặt của virus cúm gia
cầm trên 10 trang trại chăn nuôi. Chính phủ Nhật Bản buộc phải tiêu hủy 1,4
triệu gia cầm (OIE, 2017) [34].
- Tại Ba Lan, 4 trang trại và 3 đàn gia cầm nuôi thương mại đã được xác
nhận nhiễm cúm gia cầm. Hơn 12.000 gia cầm chết và 308.000 gia cầm bị

tiêu hủy (OIE, 2017) [34].
- Tại Ý, một ổ dịch cúm gia cầm mới bùng phát trên đàn gia cầm vỗ béo
tại phía Bắc nước này có quy mô 14.000 con (OIE, 2017) [34].
1.3.2. Tình hình dịch cúm gia cầm tại Việt Nam
Dịch cúm gia cầm A/H5N1 bùng phát tại Việt Nam vào cuối tháng
12/2003 ở các tỉnh phía Bắc, sau đó đã nhanh chóng lan tới hầu hết các
14


15
tỉnh/thành trong cả nước chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là lần đầu tiên
dịch cúm gia cầm A/H5N1 xảy ra tại Việt Nam, có tới hàng chục triệu gia cầm
bị tiêu hủy, gây thiệt hại nặng nền tới nền kinh tế quốc dân. Tính đến nay
(tháng 10/2008), dịch cúm gia cầm liên tục tái bùng phát hàng năm tại nhiều
địa phương trong cả nước, có thể phân chia thành các đợt dịch lớn như sau:
- Đợt dịch thứ nhất từ tháng 12/2003 và 30/03/2004, dịch cúm xảy ra ở
các tỉnh Hà Tây, Long An và Tiền Giang. Dịch bệnh lây lan rất nhanh, chỉ
trong vòng hai tháng đã xuất hiện ở 57/64 thành trong cả nước. Tổng số gà và
thủy cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy hơn 43,9 triệu con, chiếm 17% tổng đàn
gia cầm. Trong đó gà chiếm 30,4 triệu con, thuỷ cầm 13,5 triệu con. Ngoài ra,
có ít nhất 14,8 triệu chim cút và các loại khác bị chết hoặc tiêu huỷ. Đặc biệt,
có 3 người được xác định nhiễm virus cúm A/H5N1 và cả 3 đã tử vong trong
đợt dịch này (Cục Thú y, 2004) [5].
- Đợt dịch thứ 2 từ tháng 04 đến tháng 11/2004: dịch bệnh tái phát tại 17
tỉnh, thời gian cao điểm nhất là trong tháng 07, sau đó giảm dần đến tháng
11/2004 chỉ còn một điểm phát dịch. Tổng số gia cầm tiêu hủy được thống kê
trong vụ dịch này là 84.078 con. Trong đó, có gần 56.000 gà; 8.132 vịt; và
19.950 con chim cút. Và đã có tới 27 người mắc bệnh virus cúm A/H5N1,
trong đó có 9 ca tử vong.
- Đợt 3 từ tháng 12/2004 đến ngày 15/12/2005: dịch cúm gà xảy ra trên

36 tỉnh thành trong cả nước. Số gia cầm bị tiêu hủy được Cục Thú y thống kê
là 1,846 triệu con (gồm 470.000 gà, 825.000 thủy cầm và 551.000 chim cút).
Vào những tháng cuối năm 2005, dịch cúm gà xảy ra trong tháng 10/2005 lan
nhanh trong gần 40 tỉnh thành và giảm dần trong tháng 12/2005.
Sau một năm (2006), do áp dụng chương trình tiêm chủng rộng rãi cho
các đàn gia cầm trong cả nước, cùng với các biện pháp phòng chống dịch
quyết liệt, dịch cúm A/H5N1 không xảy ra ở Việt Nam. Mặc dù vậy, đến
06/12/2006 dịch cúm gia cầm A/H5N1 đã tái bùng phát ở Cà Mau, sau đó lan
sang các tỉnh Bạc Liêu, Hậu Giang, Vĩnh Long và Cần Thơ.
15


16
- Trong năm 2007, dịch bệnh tái phát tại Hải Dương vào ngày
17/02/2007 và được khống chế sau 01 tháng. Tuy nhiên, đến ngày 01/05/2007
dịch bệnh tiếp tục tái phát tại Nghệ An, sau đó lan sang nhiều tỉnh, thành phố
trong cả nước. Theo Báo cáo của Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn) đến ngày 10/06/2007 dịch đã xảy ra trên 16 tỉnh, thành phố (Nghệ
An, Quảng Ninh, Cần Thơ, Sơn La, Nam Định, Đồng Tháp, Hải Phòng, Bắc
Giang, Ninh Bình, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Quảng Nam, Hưng Yên,
Thái Bình và Phú Thọ), và chỉ được khống chế hoàn toàn vào 08/2007.
- Gần đây, dịch bệnh lại tiếp tục tái bùng phát ở một số tỉnh phía Bắc vào
tháng 03/2008. Cho đến tháng 06/2008, dịch cúm gia cầm A/H5N1 về cơ bản
đã được khống chế trên toàn quốc.
Năm 2013, dịch cúm gia cầm A/H5N1 đã xảy ra tại 50 xã, phường của
23 huyện, quận thuộc 7 tỉnh gồm Điện Biên, Hòa Bình, Kiên Giang, Khánh
Hòa, Tây Ninh, Tiền Giang và Vĩnh Long làm 59.829 con gia cầm mắc bệnh
(gà chiếm 16,25%, vịt là 83,43%, ngan 0,32%); tổng số gia cầm chết và tiêu
hủy là 79.522 con (trong đó gà chiếm 18,12%, vịt 81,64%, ngan là 0,26%).
Ngoài ra, một số địa phương khác có xuất hiện điểm dịch trên đàn gia cầm

dưới dạng nhỏ lẻ (một vài hộ chăn nuôi) nhưng đã được chính quyền địa
phương và cơ quan chuyên môn tổ chức tiêu hủy ngay và xử lý kịp thời không
để dịch lây lan. Đặc biệt, năm 2013 cũng đã phát hiện dịch cúm gia cầm xảy
ra trên đàn chim Trĩ và chim Cút (Tiền Giang) và 01 ổ dịch trên chim Yến
(Ninh Thuận) (Cục Thú y, 2013) [6].
- Ngày 25/02/2014 dịch cúm gia cầm đã xảy ra tại 21 tỉnh, thành phố bao
gồm: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Cần Thơ, Vĩnh Long, Thanh Hóa, Phú
Thọ, Bình Định, Trà Vinh, Bạc Liêu, Đắk Lắk, Long An, Kon Tum, Tây Ninh,
Cà Mau, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Nam Định, Phú Yên, Lào Cai, Bà Rịa-

16


17
Vũng Tàu. Số gia cầm mắc bệnh, chết là 63.611 con, toàn bộ số gia cầm trong
đàn mắc bệnh đã được địa phương tiêu hủy (Cục Thú y, 2014) [7].
- Ngày 15/02/2015 xảy ra dịch cúm tại Bà Rịa - Vũng Tàu làm 42.000
con gà bị chết và được tiêu hủy. Chi cục Thú y tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lấy
mẫu xét nghiệm thì phát hiện đàn gà dương tính với cúm gia cầm H5N1 (Cục
Thú y, 2016) [9].
- Ngày 05/01/2016, tại tỉnh Quảng Ngãi trạm Thú y huyện Sơn Tịnh
nhận được tin báo đàn gà 1.000 con, 75 ngày tuổi của 01 hộ chăn nuôi ở thôn
Trà Bình, xã Tịnh Trà nghi nhiễm dịch cúm gia cầm. Kết quả xét nghiệm ngày
06/01/2016 virus dương tính với cúm A/H5N6. Địa phương đã tiêu hủy đàn
gia cầm mắc bệnh và triển khai các biện pháp phòng chống dịch theo quy
định (Cục Thú y, 2016) [9].
- Tại tỉnh Kon Tum, cơ quan thú y địa phương phát hiện đàn gia cầm 824
con của một hộ chăn nuôi xã Đăk Kan, huyện Ngọc Hồi bị mắc bệnh làm chết
600 con. Kết quả phát hiện virus cúm A/H5N6 (Cục Thú y, 2016) [9].
- Tại tỉnh Bạc Liêu phát hiện cúm A/H5N1 tại 01 hộ chăn nuôi 2.785 con

của xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long. Từ ngày 21/02/2017 đến nay,
không phát sinh gia cầm mới mắc (Cục Thú y, 2017) [10].
- Tại tỉnh Nam Định phát hiện cúm A/H5N1 tại 01 hộ nuôi vịt 890 con
của xã Trực Nội và 01 hộ chăn nuôi 500 con vịt, 40 con gà của xã Trực
Thuận, huyện Trực Ninh (Cục Thú y, 2017) [10].
- Tại tỉnh An Giang phát hiện cúm A/H5N1 tại 01 hộ nuôi gà 80 con của
xã Mỹ Phú Đông, huyện Thoại Sơn, 01 ổ dịch xảy ra trên đàn vịt trời nuôi tại
xã Trung Tân, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang làm 300con vịt trời mắc bệnh và
809 con vịt trời phải tiêu hủy (Cục Thú y, 2017) [10].

17


18
- Tại tỉnh Sóc Trăng, bùng phát cúm A/H5N1 tại 01 hộ nuôi gà 495 con
của xã Mỹ Tú, huyện Mỹ Tú (Cục Thú y, 2017) [10].
- Tại tỉnh Đồng Nai, bùng phát dịch cúm A/H5N1 tại 01 hộ nuôi gà
5.000 con của xã Suối Trầu, huyện Long Thành (Cục Thú y, 2017) [10].
- Tại tỉnh Quảng Ngãi, phát hiện dịch cúm A/H5N6 tại 01 hộ nuôi vịt
1.660 con của xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ (Cục Thú y, 2017) [10].
1.3.3. Tình hình dịch cúm gia cầm tại Quảng Ninh
Theo thông tin của Chi cục Thú y tỉnh Quảng Ninh. Từ đầu năm 2010
cho đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 6 đợt dịch [3].
- Đợt dịch 1: ngày 29/03/2010, dịch cúm gia cầm đã xảy ra tại 12 hộ/ 06
thôn, khu/03 huyện, thành phố: Đông Triều, Yên Hưng và Hạ Long. Tính đến
ngày 06/04/2010 tổng số gia cầm chết và tiêu hủy của 6 hộ trên là 7.199 con
(trong đó có 3.781 gà và 3.418 vịt).
- Đợt dịch 2: từ ngày 12/02 đến ngày 28/10/2011
* Tại huyện Yên Hưng:
Dịch phát sinh tại 15 hộ/02 xã Yên Giang và Nam Hoà. Tổng số ốm, chết

và tiêu huỷ bắt buộc 7.261 gia cầm và thuỷ cầm các loại (2.761 gà, 4.590 vịt,
850 quả trứng. Cụ thể:
- Xã Yên Giang: bệnh phát sinh từ ngày 12/02 - 22/02/2011 tại 13 hộ
chăn nuôi thuộc xóm 6, số mắc bệnh: 1.660 gà và 4.590 vịt.
- Xã Nam Hoà: bệnh phát sinh từ ngày 16/02 - 13/03/2011 tại 02 hộ xóm
5 và xóm 6 làm 1.011 gà mắc bệnh.
Công tác khoanh vùng chống dịch tại 02 xã được tiến hành nhanh, hiệu
quả. Ngày 21/04/2011 UBND tỉnh đã ra Quyết định số: 1200/QĐ-UBND
công bố hết dịch cúm gia cầm tại 02 xã Yên Giang và Nam Hòa.
* Tại TP Móng Cái:
Bệnh phát sinh tại 01 hộ chăn nuôi thuộc thôn 6, xã Hải Đông nuôi tổng
số 800 gia cầm, thuỷ cầm (640 gà, 160 vịt). Bắt đầu từ ngày 28/10/2011 có
18


19
hiện tượng đàn gia cầm ủ rũ, bỏ ăn, ỉa phân trắng phân xanh, chết tổng số 370
con gà.
Ngay sau khi có thông báo, Chi cục Thú y đã kiểm tra trực tiếp tại ổ gia
cầm mắc bệnh và phối hợp cùng Ban chỉ đạo phòng chống dịch của xã Hải
Đông và TP Móng Cái chỉ đạo và giám sát tiêu huỷ toàn bộ số gia cầm còn
lại: 270 con gà (trọng lượng 0,6 kg/con) và 160 con vịt (2 kg/con) tại ổ dịch;
chỉ đạo Trạm Thú y Móng Cái báo cáo diễn biến tại ổ dịch và thực hiện các
biện pháp chống dịch theo quy định. Đến nay trên địa bàn xã Hải Đông cũng
như TP Móng Cái không phát sinh thêm gia cầm, thủy cầm mắc bệnh.
- Đợt dịch 3: từ ngày 14/02 đến ngày 24/08/2012
Địa phương đầu tiên xuất hiện ổ dịch cúm gia cầm trên địa bàn tỉnh
trong năm 2012 là TX Quảng Yên tại 04 hộ/02 thôn/ 02 xã.
+ Tại xã Sông Khoai dịch cúm gia cầm phát sinh từ ngày 14/02/2012 đến
ngày 16/02/2012 tại 01 hộ thuộc thôn 5, xã Sông Khoai với tổng đàn gia cầm bệnh

là 320 con (15 gà, 265 vịt, 40 ngan), chết 172 con (gia đình tự chôn hủy).
Ngày 17/02/2012 đã tiêu hủy 148 con (140 vịt, 08 ngan) và 100 quả trứng.
+ Tại xã Tiền An dịch cúm gia cầm phát sinh từ ngày 21/02/2012 tại 03 hộ
thôn Giếng Méo, xã Tiền An với tổng gia cầm bệnh là 430 con (22 gà, 408 vịt).
Ngày 26/02/2012 đã tiêu hủy tổng số 317 con (25 gà, 292 vịt) và 100 quả trứng.
* Tại TP Móng Cái: ổ dịch đầu tiên phát sinh vào ngày 16/04/2012 đến
ngày 21/04/2012 tại 04 hộ/01 thôn, thuộc thôn 4, xã Hải Tiến. Tổng đàn 941
con (755 con vịt, 186 con gà), số gia cầm bệnh 941 con, số chết 180 con, số
tiêu hủy 941 con.
* Tại huyện Hải Hà: ngày 04/05/2012 dịch cúm gia cầm phát sinh tại 01
hộ thuộc thôn 8, xã Quảng Chính. Tổng đàn 450 con, số gia cầm bệnh 220
con (200 con vịt, 20 con gà), số gia cầm chết 230 con, tiêu hủy 450 con.
* Tại TX Quảng Yên: Ngày 06/08/2012 dịch cúm gia cầm xuất hiện tại hộ
ông Phạm Văn Dơi, thôn 4, xã Tiền Phong. Trước đó cũng tại địa phương này đã
xuất hiện rải rác gia cầm ốm, chết có dấu hiệu của bệnh cúm gia cầm. Tính đến
ngày 24/08/2012 dịch cúm gia cầm xuất hiện tại 22 hộ/08 thôn/05 xã có dịch.
19


20
Tổng 12.058 con gia cầm bệnh (1.673 gà, 9.602 vịt, 783 ngan), 246 quả trứng và
buộc phải tiêu hủy toàn bộ số gia cầm bệnh, chết và số trứng trên.
- Đợt dịch 4: Từ tháng 03 đến tháng 09 năm 2013
+ Từ tháng 03 - 04/ 2013, tại TX Quảng Yên có 920 con gia cầm chết và
tiêu hủy (gà: 450 con, vịt: 400 con, ngan: 70 con).
+ Ngày 05/05/2013, tại gia đình anh Nguyễn Văn Tư, ở thôn 1, xã
Nguyễn Huệ (Đông Triều) đã được phát hiện khi đàn gà của gia đình có hiện
tượng chết hàng loạt khoảng 1.600 con. Khi tiến hành lấy mẫu xét nghiệm
thấy có hiện tượng dương tính với cúm H5N1. Toàn bộ số gà trên nhanh
chóng được tiêu hủy để tránh lây lan. Huyện Đông Triều có 11.005 con gia

cầm chết và tiêu hủy (gà 7.515 con, vịt 2.290 con, ngan 1.200 con).
+ Tháng 9 tại Hạ Long, Ba Chẽ, Uông Bí lần lượt có số gia cầm chết và
tiêu hủy là 900; 82; 1.000 con.
- Đợt dịch 5:
Từ ngày 04 đến ngày 10 tháng 03 năm 2014, huyện Bình Liêu có số gia
cầm chết và tiêu hủy là 851 con.
- Đợt dịch 6: Từ ngày 22/10 đến ngày 07/12/2015
Ngày 22/10/2015, huyện Hải Hà đã tiêu hủy số gia cầm chết và bệnh là
1.300 con (300 gà, 200 ngan, 800 vịt).
Ngày 07/12/2015 đã xảy ra ổ dịch cúm gia cầm A/H5N6 tại 01 hộ chăn
nuôi thuộc xã Minh Cầm, huyện Ba Chẽ làm 705 con gia cầm (691 con gà và
14 con ngan) mắc bệnh và tiêu hủy (Cục Thú y, 2015) [8].
Ngày 21/10/2016 xảy ra ổ dịch cúm gia cầm H5N6 tại 01 hộ chăn nuôi
thuộc xã Quảng Chính, huyện Ba Chẽ làm 1.915 con gia cầm mắc bệnh và
tiêu hủy (Cục Thú y, 2016) [9].
Ngày 11/11/2016 tại TX Quảng Yên, xảy ra ổ dịch cúm gia cầm H5N1
tại 01 hộ chăn nuôi làm 3.816 con gia cầm mắc bệnh và tiêu hủy (Cục Thú y,
2016) [9].
20


21
Ngày 17/01/2017 tại TX Quảng Yên, phát sinh 01 ổ dịch cúm H5N6 trên
2.800 con vịt tại khu 7, phường Phong Cốc. Tổng số vịt buộc phải thực hiện
tiêu hủy theo quy định là 1.932 con. Công tác phòng chống dịch và xử lý ổ
dịch được triển khai kịp thời tại khu 7, phường Phong Cốc và toàn TX Quảng
Yên không phát sinh thêm gia cầm mắc bệnh (Chi cục Chăn nuôi và Thú y,
2017) [4].
Tại huyện Hải Hà, ngày 28/01/2017 đã phát sinh 01 ổ dịch cúm H5N6
trên đàn gia cầm, thủy cầm 2.000 con (1.200 gà, 200 ngan và 600 vịt) tại thôn

4, xã Quảng Điền. Tổng số gia cầm, thủy cầm phải tiêu hủy là 1.571 con (Chi
cục Chăn nuôi và Thú y, 2017) [4].
Tháng 04/2017, xảy ra một ổ dịch cúm H5N1 tại 01 hộ ông Lê Văn Thuấn
thuộc khu 2, phường Hải Yên, TP. Móng Cái. Số gia cầm ốm chết là 320 con (80
ngan; 240 vịt). Số gia cầm phải tiêu hủy là 670 con (570 con vịt; 100 con ngan).
Đàn thủy cầm chết nhanh với các triệu chứng đặc trưng của bệnh, công tác xử lý
tại ổ dịch nhanh, tiêu hủy triệt để toàn bộ đàn thủy cầm, chất thải chăn nuôi được
đốt hủy, khu vực chăn nuôi được rắc vôi bột và phun tiêu độc khử trùng đảm bảo
yêu cầu chống dịch (Chi cục Chăn nuôi và Thú y, 2017) [4].
Ngày 27/05/2017 xảy ra ổ dịch cúm gia cầm H5N1 tại 01 hộ chăn nuôi
thuộc xã Liên Vị, thị xã Quảng Yên. Dịch bắt đầu phát sinh ngày 28/04/2017
tại hộ bà Nguyễn Thị Đò, xóm Đông 1, chăn nuôi tổng số 5.000 gia cầm. Số
gà ốm chết là 2.720 con, số gà tiêu hủy là 5.000 con (Cục thú y, 2017) [10].
1.4. Đặc điểm sinh học của virus cúm type A
1.4.1. Đặc điểm cấu trúc chung của virus thuộc họ Orthomyxoviridae
Virus cúm gia cầm thuộc họ Orthomyxovirrus, các hạt virus cúm A
(virion) có hình cầu hoặc hình khối đa diện, đường kính 80 - 120 nm, đôi khi
cũng có dạng hình sợi, khối lượng phân tử khoảng 250 triệu Da.

21


22

Hình 1.1. Cấu trúc bên ngoài của virus cúm gia cầm
(Nguồn: />Phân tích thành phần hóa học một virion có chứa khoảng 0,8 - 1,1%
RNA; 70 - 75% là protein; 20 - 24% lipid và 5 - 8% là carbonhydrate. Hạt
virus có cấu tạo đơn giản gồm vỏ (capsid), vỏ bọc ngoài (envelope) và lõi là
RNA sợi đơn âm. Vỏ virus có bản chất protein có nguồn gốc từ nguồn tế bào
mà virus đã gây nhiễm, bao gồm một số protein được glycosyl hóa

(glycoprotein) và một số protein dạng trần không được glycosyl hóa (non
glycosylated protein).
Protein bề mặt có cấu trúc từ các loại glycoprotein, đó là những gai,
mấu có độ dài 10 - 14 nm, đường kính 4 - 6 nm.
Nucleocapsid bao bọc lấy nhân virus là tập hợp của nhiều protein phân
đoạn, cấu trúc đối xứng xoắn, kích thước 130 - 150 nm, tạo vòm (loop) ở giới
hạn cuối của mỗi phân đoạn và liên kết với nhau qua cầu nối các peptit. Phân
tử lượng của hạt virus vào khoảng 250 triệu dalton (Lê Thanh Hòa, 2004 [12];
Murphy, 1996 [32]).
Khác với các nhóm virus trong họ, do virus cúm type A có nhiều biến
chủng khác nhau. Cộng với khả năng thích ứng rộng rãi trên nhiều loại vật
chủ và tính kháng nguyên luôn biến đổi, nhờ sự sắp xếp tái tổ hợp các phân
đoạn gene nên cúm type A được coi là nhóm virus nguy hiểm nhất trong họ
22


23
Orthomyxoviridae. Trong lịch sử chính những virus cúm type A là thủ phạm
gây nên những đợt dịch cúm kinh hoàng ở người và gia cầm.
Hệ gen của virus cúm A là RNA sợi đơn âm gồm 8 phân đoạn riêng biệt
(HA, NA, M, NS, NP, PA, PB1 và PB2) nối với nhau thành một sợi duy nhất
bên trong vỏ capsid, mã hóa cho 11 protein tương ứng của virus (Ito s al, 1998
[27]; Conenello s al, 2007) [26].
Phân đoạn 1 (gen PB2) có kích thước 2431 bp, mã hóa tổng hợp protein
enzyme PB2, là tiểu đơn vị thành phần trong phức hợp thành phần enzyme
polimerasa của virus, chịu trách nhiệm khởi đầu phiên mã RNA virus. Protein
PB2 có khối lượng phân tử theo tính toán khoảng 84.103 Da (trên thực tế là
87,103 Da) (Murphy và Webster, 1996) [32]. Tính thích nghi nhiệt độ cơ thể
ngoài vật chủ là liên quan đến vị trí amino acid 627 ở protein PB2 (ở virus
cúm gia cầm vị trí này là Glu - thích ứng nhiệt độ cơ thể gia cầm khoảng

40ºC, còn ở virus thích nghi trên người là Lys- thích ứng nhiệt độ cơ thể
người khoảng 37°C (Subbarao et al, 1998) [36].
Phân đoạn 2 (gen PB1) cùng có kích thước 2431 bp, mã hóa tổng hợp
enzyme PB1- tiểu đơn vị xúc tác của phức hợp enzyme promerase trong quá
trình tổng hợp RNA virus, chịu trách nhiệm gắn mũ RNA (Murphy và Webster,
1996) [32]. Gần đây đã có phát hiện thêm một protein được mã hóa bởi một
khung đọc mở khác nhau của PB1, có vai trò gây ra hiện tượng apoptosis (hiện
tượng tế bào chết theo chương trình) (Tumpey et al, 2002) [37].
Phân đoạn 3 (gen PA) kích thước 2233 bp, là phân đoạn gen bảo tồn cao,
mã hóa tổng hợp protein enzyme PA có khối lượng phân tử theo tính toán
khoảng 83000 Da (trên thực tế là 96.103 Da) PA là một tiểu đơn vị của
polymerase chịu trách nhiệm kéo dài phiên mã RNA trong quá trình tổng hợp
RNA của virus (Luong và Palese, 1992) [31].
Phân đoạn 4 (gen HA) có độ dài thay đổi theo từng chủng virus cúm A.
Đây là gen chịu trách nhiệm mã hóa tổng hợp protein HA, gồm hai tiểu phần
là HA1 và HA2. Vùng nối giữa HA1 và HA2 gồm một số amino acid mang tính
23


24
kiềm được mã hóa bởi một chuỗi oligonucleotide, đó là điểm cắt của enzyme
proterase, đây là vùng quyết định độc lực virus (Bosch et al, 1979) [25].
Protein HA có khối lượng phân tử khoảng 63.103 Da và 77.103 Da
(Keawcharoen et al, 2005 [28]; Luong và Palese, 1992) [31].
Phân đoạn 5 (gen NA), là một gen kháng nguyên của virus, chiều dài
thay đổi theo từng chủng virus cúm A (ở A/H6N2 là 1413 bp, A/H5N1 từ
1350 - 1410 bp) (Lê Thanh Hòa, 2004) [12]. Đây là gen mã hóa tổng hợp
protein NA - kháng nguyên bề mặt capsid của virus.
Phân đoạn 6 (gen NP) kích thước khoảng 1556 bp, mã hóa tổng hợp
nucleoprotein (NP) - thành phần của phức hệ phiên mã, chịu trách nhiệm vận

chuyển RNA giữa nhân và bào tương tế bào chủ.
Phân đoạn 7 (gen M) có kích thước 1027 bp tạo mã hóa cho protein
đệm. Có khoảng 3000 phân tử MP trên bề mặt capsid của virus. Protein M1
là protein nền, là thành phần chính của virus đảm nhiệm chức năng bao bọc
RNA tạo phức hợp RNP và tham gia vào quá trình “nảy chồi” của virus.
Phân đoạn 8 (gen NS), là gen mã hóa protein không cấu trúc, độ dài ổn
định nhất trong hệ gen mã của virus cúm A, kích thước khoảng 890 bp, mã
hóa tổng hợp hai protein là NS1 và NS2, đóng vai trò bảo vệ hệ gen của virus.
Như vậy, virus cúm A có hệ gen được cấu trúc từ 8 phân đoạn riêng biệt
và không có gen mã hóa enzyme sửa chữa RNA, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
xuất hiện các đột biến điểm trong các phân đoạn gen/hệ gen qua quá trình sao
chép nhân lên của virus, hoặc trao đổi các phân đoạn gen giữa các chủng virus
cúm đồng nhiễm trên cùng một tế bào, dẫn đến thay đổi tính kháng nguyên tạo
nên chủng virus cúm A mới (Suarez và Schultz - Cherry, 2000) [35].

24


25

Hình 1.2. Cấu trúc hệ gen của virus cúm type A (Murphy
và Webster, 1996) [32]
1.4.2. Đặc điểm hình thái, cấu trúc của virus cúm type A
Hạt virus (virion) có cấu trúc hình khối kéo dài đường kính trung bình
khoảng 80 - 120 nm. Vỏ virus là những protein có nguồn gốc từ màng tế bào
mà virus đã lây nhiễm, bao gồm một số protein được glycosyl hóa và một số
protein dạng trần không được glycosyl hóa.
Khi nghiên cứu sâu hơn về cấu trúc hệ gen virus cúm type A, Murphy và
webster (1996) [25] cho thấy, tất cả các thành viên của nhóm virus cúm A đều
có hệ gen là RNA một sợi có độ dài 13.500 nucleotid chứa 8 phân đoạn kế

tiếp nhau. Mang mật mã cho 10 loại protein khác nhau của virus, 8 phân đoạn
của sợi RNA có thể tách và phân biệt rõ ràng nhờ phương pháp điện di.
1.4.3. Đặc tính kháng nguyên của virus cúm type A
Dựa trên yếu tố ngưng kết hồng cầu (Haemagglutinin viết tắt là H ) và
trung hòa (Neuraminidase viết tắt là N) là những kháng nguyên có vai trò
trong miễn dịch bảo hộ và có tính đa dạng cao mà virus cúm type A được
phân type. Đến nay, có tất cả 16 loại gen H (H1 - H16) và 9 loại gen N (N1 N9), mỗi một hợp gen H và N tạo nên 1 biến chủng gây bệnh.
25


×