Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Tư tưởng giải thoát trong triết học ấn độ cổ trung đại khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.92 KB, 82 trang )

MỤC LỤC


2

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, một trong
những trung tâm triết học lớn của thế giới.
Triết học Ấn Độ với một kho tàng tri thức khổng lồ là nguồn suối vô tận
để chúng ta đi sâu vào nghiên cứu. Hơn thế nữa, tư tưởng triết học Ấn Độ
mang một hơi thở đặc biệt so với các nền triết học còn lại của thế giới thời kỳ
cổ đại. Nếu triết học Hy lạp mang thiên hướng đấu tranh và thể hiện khát
vọng chinh phục tự nhiên của con người; triết học Trung Quốc chú ý luận bàn
về cái thuật cai trị thiên hạ thì triết học Ấn Độ lại quan tâm đặc biệt đến vấn
đề nhân sinh, để từ đó đi tìm con đường “giải thoát” cho con người khỏi nỗi
khổ của cuộc đời.
Việt Nam và Ấn Độ có quan hệ giao lưu từ rất sớm, các tư tưởng triết
học Ấn Độ được truyền bá vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên,
trước hết, bằng con đường giao thương và con đường truyền giáo. Khi được
du nhập vào nước ta, tư tưởng triết học Ấn Độ đã kết hợp với đạo đức, truyền
thống, văn hóa, tư tưởng...của dân tộc, tạo nên những nét riêng trong đời sống
của người Việt. Nó đã thấm nhuần vào tư tưởng của các thế hệ, để “ăn sâu”
và “bám rễ” vào trong “nếp nghĩ” và “nếp sống” hàng ngày của mỗi người
Việt Nam.
Không phải chỉ có nền triết học Ấn Độ mới đề cập đến vấn đề giải thoát.
Tuy nhiên, coi “giải thoát” là cái đích của tư tưởng, là một lẽ sống chứ không
đơn thuần là một quan niệm, chắc hẳn ta chỉ bắt gặp ở nền triết học Ấn Độ.Tư
tưởng “giải thoát” xuyên suốt toàn bộ nền triết học này. Và, hơn thế nữa, tư


tưởng “giải thoát” trong triết học Ấn Độ còn mang một hương vị đặc biệt, nó


3

hấp dẫn và lôi cuốn người ta đi sâu vào suối nguồn tâm thức của chính mình, để
từ đó khao khát tìm được lối đi cho những bế tắc trong cuộc sống thường ngày.
Vì lẽ đó, tác giả quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng giải thoát trong triết
học Ấn Độ cổ - trung đại” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giải thoát là một vấn đề trung tâm của nền triết học Ấn Độ. Hơn
thế nữa, nội dung giải thoát trong các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ rất
độc đáo, phong phú và đa dạng. Vì lẽ đó, nó được nhiều nhà nghiên cứu cả ở
phương Đông lẫn phương Tây quan tâm và cho đến nay, người ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trong việc nghiên cứu vấn đề này, nó được thể
hiện trong một khối lượng khổng lồ những tài liệu, những kinh sách...Nhìn
chung, chúng ta có thể chia một cách khái quát các công trình nghiên cứu ấy
theo hai hướng chính:
Hướng nghiên cứu thứ nhất, đó là sự nghiên cứu tư tưởng giải thoát
thông qua việc nghiên cứu bối cảnh chung của nền văn hóa và tư tưởng triết
học, tôn giáo Ấn Độ.
Ở hướng nghiên cứu này, phải kể đến tác phẩm của nhà văn hóa lớn trên
thế giới như Will Durant với cuốn Di sản phương Đông của chúng ta và bộ
lịch sử văn minh thế giới, trong đó có cuốn Lịch sử văn minh Ấn Độ, Hà Nội,
nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin năm 2004, thông qua bản dịch của dịch giả
Nguyễn Hiến Lê. Đây là bộ sách được Will Durant viết trong rất nhiều năm,
qua đó, trình bày bức tranh tổng thể của nền văn minh Ấn Độ, trong đó có sự
hình thành và phát triển của các trào lưu tư tưởng triết học và tôn giáo Ấn Độ.

Ngoài ra, cần phải kể đến cuốn Phát hiện Ấn Độ của Jawaharlal Nehru...v.v.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả, tiêu biểu
như Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ, PGS.TS Doãn Chính (chủ
biên), ĐHQG Hà Nội năm 2005; Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại,


4

PGS.TS Doãn Chính, nxb Chính Trị - Quốc gia, H.2010; Lịch sử triết học Ấn
Độ, Thích Mãn Giác, nxb Văn hóa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh năm
2007; Sử cương triết học Ấn Độ, Quảng Liên, Hà Nội, nxb Tôn giáo năm
2006; Tìm hiểu sáu phái triết học Ấn Độ, Thích Mãn Giác, nxb thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2002...v.v. Các công trình nghiên cứu này, đã trình bày những
nét khái quát nhất bức tranh nền văn hóa – tư tưởng Ấn Độ thời cổ đại và đi
sâu vào nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của
các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ.
Hướng nghiên cứu thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu trực tiếp vào
tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ.
Các công trình của các nhà nghiên cứu trên thế giới cần kể đến như
Kimura Taiken với cuốn Giải thoát luận, Chân như quan của Phật học; Con
đường giải thoát khổ, Dhammara kakhita Bhikkhu, Hà Nội, nxb Tôn giáo,
2006; Hương vị của giải thoát, Ajahn Chah qua bản dịch của Huỳnh Văn
Thanh, Hà Nội năm 2012...v.v.
Ở Việt Nam, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như
Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của PGS,TS Doãn Chính, nxb
Chính trị - Quốc gia, H,2008; Giải thoát luận Phật giáo của tác giả Nguyễn
Thị Toan, nxb Chính trị - Quốc gia, H.2010; Luận án tiến sĩ triết học với đề
tài: “Quan niệm về giải thoát trong Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống người Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Toan…v.v.
Những tài liệu trên đây của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp em tiếp

thu, tham khảo và định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
*) Mục đích
Khóa luận làm rõ nội dung chủ yếu của tư tưởng giải thoát trong triết học
Ấn Độ cổ - trung đại, từ đó, đánh giá những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng của


5

tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ - trung đại đối với đời sống xã hội
Việt Nam hiện nay.
*) Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của nền triết học Ấn Độ cổ trung đại.
- Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng giải thoát trong triết học
Ấn Độ cổ - trung đại.
- Phân tích những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát
trong triết học Ấn Độ đối với đời sống xã hội Việt nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận
- Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ - trung đại.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Để triển khai nội dung, đề tài sử dụng các phương pháp:
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu; Phương pháp so sánh; Phương pháp
trừu tượng hóa, khái quát hóa; Phương pháp kết hợp giữa lịch sử và
logic...v.v.
6. Đóng góp của khóa luận
- Khái quát những nội dung chủ yếu của tư tưởng giải thoát trong triết
học Ấn Độ cổ - trung đại.

- Đánh giá giá trị, hạn chế và rút ra những ảnh hưởng của tư tưởng giải
thoát trong triết học Ấn Độ cổ - trung đại đối với đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 3 Chương, 11 Tiết:


6

Chương I: Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm nổi bật của triết học Ấn Độ
thời kỳ cổ đại.
Chương II: Nội dung chủ yếu của tư tưởng giải thoát trong triết học
Ấn Độ cổ - trung đại.
Chương III: Giá trị, hạn chế và ảnh hưởng của tư tưởng giải thoát
trong triết học Ấn Độ cổ - trung đại đối với xã hội Việt Nam hiện nay.


7

CHƯƠNG I
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ - TRUNG ĐẠI
1.1. Điều kiện tự nhiên
Về mặt địa lý, Ấn Độ là một bán đảo hình tam giác lớn, một “tiểu lục
địa” nằm ở khu vực phía Nam châu Á, ngăn cách với bên ngoài bởi Ấn Độ
Dương và dãy Hymalaya (theo tiếng Sanscrit nó nghĩa là “xứ sở của tuyết”
hay “nơi cư trú của tuyết”), với vòng cung dài 2.600 km, trong đó, có hơn 40
ngọn núi cao hơn 7.000m so với mực nước biển.
Với dãy Hymalaya, được mệnh danh là “nóc nhà của thế giới”, đã tạo

nên sự tưởng tượng rất phong phú ở người dân Ấn Độ, họ coi đây là nơi tiếp
giáp giữa cõi trời và trần gian.
Miền cực Bắc Ấn Độ tiếp giáp với Trung Quốc, Nêpan (Nepal), Butan
(Bhutan), nơi đó là tỉnh Kasơmia (kashmir), gồm những ngọn núi hùng vĩ,
dưới chân núi là vùng khí hậu ôn đới, có thung lũng Kasơmia (kashmir) rộng
lớn chạy song song nhau và được mệnh danh là “thiên đường của hạ giới”. Ở
phía nam Kasơmia (kashmir) là miền Pendjab (“miền năm con sông”), chính
nơi đây là nơi đã nảy sinh ra một nền văn minh nổi tiếng là Mohenjo Daro và
Harappa, “Ở lưu vực sông Ấn (sông Indus – người viết) như Armi, Mohenjo
– Daro, Harrappa, Chanhu – Daro, người ta đào lên được những di tích của
cả những thành phố rộng lớn được thành lập vào khoảng trên 3000 năm đến
2000 năm trước kỷ nguyên Tây lịch” [ 5, tr. 19 – 20].
Sông Hằng (Gange) là con sông linh thiêng của Ấn Độ, nó bắt nguồn từ
dãy Hymalaya, nằm ngang cả phía Bắc Ấn. Với sự hùng vĩ đó của sông Hằng,
người Ấn gọi nó là con “sông trời”, nó tạo nên những đồng bằng trù phú,


8

giúp Ấn Độ phát triển nền nông nghiệp. Từ đó, này sinh ra các quốc gia
chiếm hữu nô lệ đầu tiên ở Ấn Độ cổ đại.
Phía Đông Ấn giáp với vịnh Ben-gan (Bengale); phía Tây giáp với biển
Ả rập (Arap); miền Nam Ấn là cao nguyên Đêcan (Deccan) rộng lớn với
nhiều rừng rú và tài nguyên khoáng sản. Nơi đây thuận lợi cho việc phát triển
giao thông cũng như thủy lợi.
Về mặt khí hậu, ở Ấn Độ khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Miền Bắc Ấn,
dãy Hymalaya quanh năm tuyết phủ với cái lạnh thấu da thịt, các cơn cuồng
phong đem cái khí lạnh của miền Bắc ào xuống phía Nam, gặp hơi nóng ở
đây, ngưng tụ thành những đám mây mù dày đặc, làm cho thiên nhiên vốn đã
bí ẩn lại càng trở nên huyền bí hơn.

Vào mùa hè, một phần băng ở dãy Hymalaya tan chảy tạo nên những
cơn thác lũ đổ xuống phần chân núi, đủ sức quét sạch những gì nó đi qua.
Nhưng, ở vùng Pendjab, về phía Nam cái nóng bao phủ quanh năm làm cho
đất đai khô cằn, thiếu nước sinh hoạt và nước tưới, gây khó khăn cho cuộc
sống cũng như việc sản xuất nông nghiệp của người dân. Miền cao nguyên
Đêcan (Deccan) khí hậu nóng và khô khiến cho cơ thể con người rệu rã.
Nhìn chung, điều kiện địa lý ở Ấn Độ rất đa dạng, phong phú, khí hậu vô
cùng khắc nghiệt, cái lạnh thấu da thịt ở miền Bắc và cái nóng khô ở miền cao
nguyên Đêcan (Deccan), với nhiều thiên tai khiến con người khổ sở và lo sợ
trước tự nhiên. Điều kiện tự nhiên dẫn đến một số hệ quả trong việc phát triển
tư tưởng của người Ấn Độ cổ:
Một là, khí hậu khắc nghiệt làm cho đời sống của con người khổ cực.
Con người cảm thấy mình nhỏ bé trước tự nhiên và bất lực trước những thiên
tai khắc nghiệt, khi không thể cải tạo tự nhiên, cải tạo thế giới hiện thực người
Ấn Độ đã tìm cách giải thoát bằng việc đi vào nhận thức chính mình, để giải
thoát cho mình khỏi những nỗi khổ của cuộc đời.


9

Hai là, tự nhiên hùng vĩ và huyền bí đã làm cho con người có trí tưởng
tượng hết sức phong phú, người Ấn Độ đã sáng tạo ra những bộ sử thi đồ sộ,
trong đó thể hiện những ước mơ, những khát vọng và những tư tưởng triết
học mang đậm tính chất tôn giáo. Cũng vì lẽ đó, triết học Ấn Độ mang thiên
hướng “duy linh”.
1.2

Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của Ấn Độ thời kỳ cổ đại
1.2.1 Điều kiện kinh tế
Về nông nghiệp, vào khoảng thế kỷ VI tr. CN, kinh tế tương đối phát

triển. Công cụ bằng sắt được sử dụng phổ biến, cùng với kỹ thuật sản xuất
được nâng cao nên người Ấn Độ đã xây dựng được các công trình thủy lợi,
tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Diện tích canh tác được mở rộng,
năng suất lao động tăng và có nhiều loại ngũ cốc mới được đưa vào canh tác.
Về thủ công nghiệp,có những bước phát triển đáng kể, với các các ngành
đa dạng như: Dệt vải bông, đay, tơ lụa, nghề làm đồ gỗ, đồ trang sức...v.v.
Những người làm nghề này sống tập trung ở các thành thị, họ tổ chức thành
các phường hội.
Về thương nghiệp, mặc dù kinh tế dựa vào nông nghiệp vẫn là chủ yếu
nhưng, thương nghiệp cũng phát triển khá mạnh. Người ta buôn bán chủ yếu
các mặt hàng như: Đồ trang sức, hương liệu, lụa...Ấn Độ có quan hệ thương
mại với các nước: Trung Quốc, Srilanca, Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Á, Đông
Nam Á...v.v. Sự phát triển của thương nghiệp đã làm xuất hiện tầng lớp
thương nhân giàu có và nhiều thành phố đã trở thành trung tâm thủ công
nghiệp và thương nghiệp.
Nhìn chung, kinh tế Ấn Độ cổ đại tuy có những bước phát triển tương
đối, nhưng nền kinh tế mới chỉ mang tính chất tiểu nông, tự cung, tự cấp. Nó
đã tạo điều kiện cho việc hình thành nên chế độ công xã nông thôn ở Ấn Độ


10

cổ đại. Việc kéo dài sự tồn tại của chế độ công xã nông thôn đã làm cho đời
sống của người Ấn Độ trì trệ, không phát triển được.
1.2.2 Điều kiện chính trị - xã hội
Về mặt dân cư, người Ấn Độ được hình thành do sự pha trộn của sáu dòng
nhân chủng lớn trên thế giới. Xã hội Ấn Độ cổ đại ra đời từ rất sớm, vào
khoảng thế kỷ XXV trước Công nguyên (tr.CN), có một số tộc người đã cư trú
ở đây và họ đã xây dựng nên một nền văn minh rất rực rỡ, văn minh sông Ấn
(Indus). Nền văn minh này đã bị lụi tàn vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ II

tr.CN mà cho đến tận ngày nay, người ta vẫn chưa tìm ra nguyên nhân của sự
suy tàn đó. Những chủ nhân của nền văn minh này là người Muna và người
Dravidian. Người Muna có nước da ngăm đen, bánh mật, tầm vóc thấp, mũi tẹt
và họ sống lan tràn khắp miền Bắc Ấn Độ. Trong khi đó, người Dravidian lại
cư trú chủ yếu ở miền bình nguyên và điền dã, họ theo chế độ mẫu hệ, thờ nhất
thần (Nữ thần sáng tạo đất đai và dân tộc), kỹ thuật canh tác nông nghiệp của
các tộc người bản địa ở giai đoạn này đã đạt đến trình độ khá cao.
Vào khoảng thế kỷ XV tr.CN, Ấn Độ bị tộc người Aryan xâm chiếm.
Đây là một bộ lạc du mục, họ di chuyển từ phía Bắc dãy Cápcadơ (Caucase)
xuống. Ban đầu, việc di chuyển xuống Ấn Độ chỉ đơn thuần là một cuộc di
cư. Tuy nhiên, do sự chống trả của những tộc người ở bản địa nên người
Aryan đã biến cuộc di cư thành một cuộc chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ.
Thoạt đầu, những người dân bản địa chống trả quyết liệt sự xâm chiếm này,
nhưng càng về sau, họ bị chinh phục trước sức mạnh của những người Aryan,
chấp nhận thân phận nô lệ trong chính lãnh thổ của mình (sau này, người
Dravidian chủ yếu được xếp vào đẳng cấp Shudra (tiện dân), đẳng cấp cuối
cùng trong xã hội Ấn Độ cổ đại).
Sau khi xâm chiếm Ấn Độ, người Aryan xây dựng nên các quốc gia
chiếm hữu nô lệ đầu tiên của mình trên lưu vực sông Hằng (sông Gange).


11

Người Aryan nói theo ngữ hệ Ấn – Âu, da sáng, vóc người cao, mũi thẳng, họ
tự coi mình là tộc người cao quý (tiếng Sanscrit “arya” là cao quý). Sau thời
gian chung sống lâu dài, người Aryan và người Dravidian đã đồng hóa với
nhau, người Aryan vốn là dân du mục nên họ có kinh nghiệm trong việc chăn
nuôi gia súc. Đồng thời, họ tiếp thu kỹ thuật sản xuất nông nghiệp của người
Dravidian và dần ổn định với cuộc sống định cư, góp phần củng cố dòng tộc
của người Aryan. Sự ảnh hưởng lẫn nhau về mặt văn hóa,...của người Aryan

và các tộc người bản địa đã làm thay đổi sâu sắc các quan hệ trong xã hội Ấn
Độ cổ đại.
Tổ chức xã hội của người Aryan lấy gia đình và gia tộc làm căn bản và
mang tính chất gia trưởng. Trong gia đình, người cha làm chủ. Trong gia tộc,
có tộc trưởng đứng đầu. Trên gia tộc thì có thị tộc (clan) và mỗi thị tộc có một
thị tộc trưởng. Nhiều thị tộc tập hợp lại với nhau thành bộ tộc. Đứng đầu mỗi
bộ tộc là một thủ lĩnh gọi là tiểu vương (rajan). Ban đầu, tính chất dân chủ
còn đậm nét thì tiểu vương là người được bộ tộc bầu lên, có nghĩa vụ duy trì
và bảo vệ bộ tộc của mình. Sau này, chức vị tiểu vương này được tiếp nối theo
kiểu “thế tập”, cha truyền con nối. Vai trò của tiểu vương ngày càng được đề
cao và dần suy tôn lên thành bậc hoàng đế. Bên cạnh giúp việc cho nhà vua
là một vị lễ sư cao cấp, người này là cố vấn của nhà vua, chuyên coi việc quan
sát thiên văn và chủ trì các buổi tế lễ (điểm này, giống với một số nước châu
Á thời cổ đại).
Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ cổ đại không mang tính
chất điển hình như ở các nền văn minh Hy lạp – La mã. Nó mang tính chất
đặc trưng của “phương thức sản xuất Á châu” – theo cách gọi của Mác.
Trong ngôn ngữ cổ Ấn Độ, “nô lệ” được gọi bằng từ “dasa”, vừa có nghĩa là
nô lệ vừa có nghĩa là kẻ tôi tớ. Đó là danh từ dùng để chỉ những người mà
thân phận của họ hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Thuật ngữ này bắt đầu


12

xuất hiện vào khoảng cuối thiên niên kỷ II tr.CN, khi người Aryan xâm chiếm
Ấn Độ, họ đã chiến thắng những người dân bản địa và trở thành kẻ thống trị.
Họ bắt giết những người chống đối và bắt phần lớn những người dân bản địa,
biến họ thành tôi tớ và nô lệ. Theo các tài liệu còn lưu giữ lại, chế độ chiếm
hữu nô lệ của Ấn Độ có tới 15 loại nô lệ là “1. nô lệ do cha mẹ là nô lệ sinh
ra; 2. Nô lệ mua về; 3. Nô lệ do người khác đem cho; 4. Nô lệ do kế thừa di

sản mà có; 5. Do đói khát mà đi làm nô lệ; 6. Do phạm tội mà bị xử phạt làm
nô lệ; 7. Người làm con tin bị xem như là nô lệ; 8. Nô lệ chiến tù; 9. Nô lệ
được thưởng trong các kỳ thi đấu; 10. Nô lệ tự nguyện; 11. Vì bội ước mà
phải làm nô lệ; 12. Nô lệ tạm thời; 13. Vì được kẻ khác nuôi nấng mà xin làm
nô lệ; 14. Vì kết hôn với nô lệ mà trở thành nô lệ; 15. Bán mình làm nô lệ.” [
dẫn theo 3, tr.36]. Tuy chế độ chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ chưa đạt đến trình độ
như ở Hy lạp – La mã cổ đại, nhưng do chế độ gia trưởng và sự phát triển trì
trệ của đời sống công xã nông thôn, nên những người mang thân phận nô lệ
cũng bị đối xử hà khắc và tàn bạo không kém bất cứ một chế độ chiếm hữu nô
lệ nào trong lịch sử.
Với sự phát triển của nền kinh tế tự cấp, tự túc đã tạo điều kiện cho việc
hình thành cơ cấu kinh tế - xã hội điển hình ở Ấn Độ cổ đại, chế độ công xã
nông thôn ra đời thay thế cho chế độ công xã thị tộc. Đặc trưng của kinh tế
thời kỳ này là kinh tế tiểu nông kết hợp chặt chẽ với thủ công nghiệp gia đình.
Vì vậy, sự trao đổi trong xã hội hết sức yếu ớt, làm cho nền kinh tế Ấn Độ
thời kỳ này trì trệ, không phát triển. Công xã nông thôn ở Ấn Độ không chỉ là
một đơn vị kinh tế độc lập mà còn là một đơn vị hành chính riêng biệt và có
quyền tự trị vô cùng lớn. Nhà nước ở trung ương không can thiệp vào công
việc của công xã và ngược lại, công xã cũng không quan tâm đến vận mệnh
của đất nước. Mọi nghĩa vụ của công xã đối với nhà nước đều là nghĩa vụ
chung của toàn công xã chứ không phải là nghĩa vụ riêng của bất cứ cá nhân


13

nào khác. Các cơ quan hành chính của công xã được người dân bầu ra hoặc
do cha truyền con nối. Về mặt hành chính, đứng đầu công xã là một viên
trưởng thôn, nắm mọi quyền điều hành và giải quyết các công việc trong làng
và ngoài ra, còn có một vị lễ sư người Bàlamôn, chuyên coi việc cúng tế trong
làng, điều này chứng tỏ sự bành trướng của Bàlamôn giáo.

Có thể khẳng định rằng, với chế độ công xã nông thôn với tính chất khép
kín, một mặt, làm cho nền kinh tế Ấn Độ thời kỳ này không thể phát triển
được, do sự yếu kém của nền sản xuất và trao đổi. Mặt khác, nó kìm kẹp tư
tưởng của con người trong cái vòng chật hẹp của không gian đời sống tinh
thần nơi công xã bé nhỏ, làm cho con người trở thành những công cụ, ngoan
ngoãn của mê tín tôn giáo và chỉ biết cam chịu, chấp nhận mọi hoàn cảnh.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ cổ - trung đại là sự tồn
tại rất sớm và kéo dài kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình công xã nông
thôn. Vì thế, ở xã hội Ấn Độ cổ đại đã không có quan hệ chiếm hữu nô lệ điển
hình như ở Hy lạp – La mã cổ đại, nô lệ chưa bao giờ là lực lượng sản xuất
chủ yếu. Do vậy, không phát sinh quan hệ đối kháng mà cùng với sự phân biệt
chủng tộc, tư tưởng gia trưởng sâu sắc đã làm cho quan hệ giai cấp, đẳng cấp
ở xã hội Ấn Độ cổ đại hết sức phức tạp và hà khắc.
Chế độ phân biệt đẳng cấp không chỉ quy định cơ cấu xã hội – giai cấp
của Ấn Độ cổ đại mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung và tính chất của
các quan điểm triết học, tôn giáo Ấn Độ cổ đại.Trong xã hội Ấn Độ cổ đại
chia thành 4 đẳng cấp chính:
Đẳng cấp Brahmana (là những tăng lữ, tu sĩ Bàlamôn hay còn gọi là lễ
sư): Trong các kinh sách Ấn Độ cổ ghi rằng, đẳng cấp tu sĩ Bàlamôn được
sinh ra từ miệng của thần sáng tạo Brahma. Đẳng cấp Bàlamôn sở dĩ được
trọng vọng vì họ nắm độc quyền về tri thức, họ “Lãnh nhiệm vụ giáo dục
thanh niên, họ truyền miệng lịch sử, văn học và các luật lệ của dòng giống


14

cho các thế hệ sau; thành thử họ có thể tái tạo lại dĩ vãng và chuẩn bị tương
lai theo ý họ; họ dạy dỗ các thế hệ mới, bắt mỗi thời phải tôn trọng thêm các
tu sĩ, rốt cuộc họ tạo được uy tín cho tập cấp họ, và lần lần họ vượt lên trên
các tập cấp khác trong xã hội Ấn Độ” [dẫn theo 3, tr.48]. Sau khi chiến tranh

kết thúc, người ta cần ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất , sinh hoạt tôn
giáo...để thực hiện được những việc đó người ta cần cầu xin thần linh,
Thượng đế ban cho họ mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Cũng
với đó, người Ấn Độ cổ đại quan niệm chỉ có việc cúng tế qua những nghi lễ
tôn giáo mới giúp người ta tiếp xúc với Thượng đế và người thực hiện được
vai trò làm trung gian cho cuộc tiếp xúc giữa người và Thượng đế chính là các
vị lễ sư Bàlamôn. Vì lẽ đó, đẳng cấp này ngày càng đông lên, giàu có và được
tôn sùng là “thánh hiện thân sống ở nhân gian”.
- Đẳng cấp Kshatriya (những vương công, võ sĩ): Với tư cách là những
người kiến thiết quốc gia và chỉ huy quân đội, các vương công, tướng lĩnh
quân sự từng được coi là đẳng cấp cao nhất trong xã hội (đặc biệt là trong thời
chiến). Tuy nhiên, vị thế của họ dần dần bị đẳng cấp Bàlamôn thay thế. Theo
kinh sách ghi lại, hai vai của thần sáng tạo Brahma đã sinh ra đẳng cấp
Kshatriya. Nếu như đẳng cấp Bàlamôn nắm trong tay “thần quyền” tôn giáo
thì đẳng cấp vương công, võ sĩ nắm “thế quyền” nhằm thống trị và duy trì trật
tự trong xã hội.
- Đẳng cấp Vaishya (những thương nhân, điền chủ và dân tự do): Đẳng
cấp này có nhiệm vụ lao động sản xuất ra của cải vật chất để cung cấp mọi vật
phẩm cho xã hội. Ngoài ra, họ có nghĩa vụ nộp sưu thuế và đi lính cho Nhà
nước. Trong các kinh sách tôn giáo Ấn Độ ghi lại, hai bắp đùi của thần
Brahma đã sinh ra đẳng cấp Vaishya.
- Đẳng cấp Shudra (những người lao động gồm đa số tiện dân và nô lệ):
Đẳng cấp này được sinh ra từ hai bàn chân của thần Brahma. Họ là những


15

người bị coi như kẻ tôi tớ, nô lệ, chỉ có một bổn phận duy nhất, phục dịch cho
đẳng cấp trên một cách vô điều kiện, không được phép kêu ca, oán thán. Họ
không được phép tham gia các nghi lễ tôn giáo, ngoài một số việc thờ cúng

dành riêng cho đẳng cấp họ.
Sự phân biệt giữa các đẳng cấp này diễn ra vô cùng khắc nghiệt. Những
người ở đẳng cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng những người ở đẳng cấp trên.
Những cuộc hôn nhân giữa các chủng tính khác nhau bị cấm đoán. Thậm chí
cuộc hôn nhân giữa đẳng cấp Bàlamôn và đẳng cấp vương công, võ sĩ cùng bị
cấm đoán hết sức khắt khe.
Ngoài bốn đẳng cấp chính kể trên, trong xã hội Ấn Độ còn tồn tại những
người không thuộc đẳng cấp nào, đó là tầng lớp dân cùng đinh, họ bị coi là hạ
đẳng, ti tiện nhất gọi là Paria. Họ là những người làm những nghề bị coi là
thấp hèn, không trong sạch và ô uế như thợ đồ tể, thợ thuộc da, phu đòn đám
ma và những đứa con ngoài giá thú bị giáng đẳng cấp. Họ không được phép
sống gần những đẳng cấp khác và phải ăn những thức ăn giống như dùng cho
chó và lừa. Đời sống của những người Paria vô cùng khổ sở. Với sự phân biệt
đẳng cấp, chủng tính,...làm cho những người ở đẳng cấp thấp và những người
nằm ngoài các đẳng cấp trở thành những “công cụ” trong chính cộng đồng
của mình.
Chế độ phân biệt đẳng cấp ở Ấn Độ cổ đại vô cùng hà khắc và có điều đặc
biệt nữa, nó được chính các giáo lý tôn giáo và nhà nước bảo vệ. Ví như: Trong
quyển đầu tiên của kinh Rig – veda chia thành 2 hạng người là arya (cao quý,
thiện) và dasya (thấp hèn, ác) hay trong kinh Atharva – veda viết “Người ta
sinh ra hoặc thuộc thành phần Aryan hoặc thuộc thành phần Shudra” [ 3;
tr.45]. Đặc biệt, chế độ phân biệt đẳng cấp còn được nhà nước bảo vệ. Nhà
nước ban hành luật Manu nhằm bảo vệ, hợp thức hóa chế độ đẳng cấp đó. Ví


16

dụ như: Trong bộ luật Manu có quy định, kẻ nào mới có ý định đánh người
Bàlamôn thôi thì sẽ bị đẩy xuống địa ngục một trăm năm; nếu thực sự đánh
người Bàlamôn sẽ bị đẩy xuống địa ngục một ngàn năm. Một người Shudra mà

giết một người Shudra thì có thể tha tội nếu nộp phạt 10 con bò cái; một người
Shudra giết một người Vaishya có thể được tha tội nếu nộp phạt 100 con bò cái;
một người Shudra mà giết một người Kshatriya có thể được tha tội nếu nộp
phạt 1.000 con bò cái. Nhưng, nếu giết một người Bà la môn thì không có cách
gì chuộc tội được, buộc phải xử tội chết vì họ là người của thần nên giết người
Bà la môn sẽ bị coi là thực sự giết người. Nhà vua cũng không có quyền xử tội
chết với người thuộc đẳng cấp Bàlamôn mà chỉ có quyền đầy họ đi một nơi xa
nhưng vẫn được giữ nguyên tài sản. Có thể thấy,chế độ phân biệt đẳng cấp
khắc nghiệt ở Ấn Độ cổ đại được cả nhà nước và các giáo lý tôn giáo ra sức
bảo vệ, điều này dẫn đến 2 hệ quả chính sau đây:
Một là, chịu cả sự áp bức về mặt tinh thần lẫn đời sống hiện thực làm
cho lý trí của con người bị hạn chế (họ không thể thay đổi được hiện thực khi
mà cả giáo lý tôn giáo và nhà nước đều bảo vệ cho chế độ đẳng cấp hà khắc,
bất công ấy), họ chỉ còn một cách là cam chịu và hướng vào tìm sự giải thoát
ở việc thay đổi chính bản thân mình.
Hai là, không khí của chế độ đẳng cấp làm cho đời sống vật chất của
những người ở đẳng cấp dưới vô cùng khổ sở và tình thần của con người bị
trói buộc, trì trệ trong cái vòng chật hẹp của những điều lệ, quy định...phân
chia đẳng cấp hà khắc. Điều đó làm cho con người nghĩ rằng, cuộc đời xung
quanh mình là chuỗi dài dằng dặc những khổ ải, cơ cực. Có lẽ, chính vì thế
mà mong muốn “giải thoát”, “siêu thoát” đã trở thành cái đích của tư tưởng
trong các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ.


17

1.3

Sự phát triển khoa học và văn hóa Ấn Độ thời kỳ cổ đại
1.3.1 Những thành tựu khoa học chủ yếu

Kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học và sử học đã chứng tỏ rằng,
người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được rất nhiều kiến thức về thiên văn học,
toán học, y học...Nó chứng tỏ năng lực tư duy và vốn tri thức người Ấn Độ
tích lũy được đã đạt đến trình độ tương đối cao. Các thành tựu khoa học chủ
yếu ấy được thể hiện trong các lĩnh vực cụ thể như sau:
Về thiên văn học, ngay từ thời kỳ Veda, thiên văn học đã có những bước
phát triển nhất định. Nhưng, do ảnh hưởng của tôn giáo, mọi khoa học đều
phải gắn liền với tôn giáo nên thiên văn học gắn liền với chiêm tinh học. Vào
buổi ban đầu, người ta quan tâm đến thiên văn học do việc thờ phụng các vì
tinh tú nên cần phải quan sát được sự dịch chuyển của các vì tinh tú đó để
định ra các ngày lễ, ngày tết. Về sau, do ảnh hưởng tư tưởng của người Hy lạp
nên thiên văn học đã trở thành bộ môn khoa học độc lập. Các nhà thiên văn
học Ấn Độ cổ đã làm ra lịch pháp mà theo đó, mỗi năm có 12 tháng, mỗi
tháng có 30 ngày, mỗi ngày có 30 giờ, cứ 5 năm lại có một tháng nhuận.
Ngoài ra, các nhà thiên văn học thời kỳ này đã giải thích được các hiện tượng
nhật thực, nguyệt thực, biết được chính xác vị trí và sự di chuyển của các ngôi
sao chính. Ấn Độ có một bộ sách thiên văn học được coi là cổ nhất là bộ
Siddhanta (khoảng năm 425 tr.CN).
Về toán học, họ đã sáng tạo ra hệ thống toán học đạt đến trình độ cao
hơn người Hy lạp cổ đại. Một số thành tựu nổi bật như: Phát minh ra số thập
phân, tính được trị số của (3,1416), biết về đại số lượng giác, phép khai căn,
giải phương trình bậc 2 và bậc 3...v.v.
Về y học, nền y học của Ấn Độ phát triển từ rất sớm. Trong kinh Atharva
– Veda, có những đoạn kể về những bệnh và triệu chứng của các bệnh. Các y
sỹ thời kỳ này đã biết dùng thảo dược để chữa trị các loại bệnh. Từ thời Veda,


18

các y sỹ đã tách biệt thành một giới riêng với những người chuyên làm công

việc như các ông thầy phù thủy. Người được coi là ông tổ của ngành y học
Ấn Độ là Sushruta, ông dạy y khoa ở Trường đại học Bénerès và viết một
cuốn sách y học chuyên về việc chữa bệnh và chẩn đoán bệnh. Ở thời kỳ này,
đã hình thành khoa giải phẫu học và thậm chí, có cả bệnh viện thú y.Vào thế
kỷ II sau Công nguyên, xuất hiện một danh y nổi tiếng là Charaka, ông là
người đã biên soạn bộ từ điển y khoa Samhita, trong đó đã nêu lên các
phương pháp chẩn đoán bệnh và trị bệnh bằng cây thuốc. Ông đã đưa ra
phương châm của những người làm nghề y là không nên vì lợi mà vì cứu
nhân độ thế, đó quả là đạo đức và ý thức nghề nghiệp của một danh y vĩ đại.
Khoảng thế kỷ VI sau Công nguyên, người Ấn Độ đã chế ra được thuốc mê,
thuốc ngủ và biết làm thuốc dưới dạng viên.
Những thành thành tựu khoa học chủ yếu ở Ấn Độ thời kỳ này chứng tỏ
rằng, khả năng tư duy của con người và lượng tri thức mà họ tích lũy được đã
đạt đến trình độ phát triển tương đối cao, tương đối toàn diện. Điều này khẳng
định rằng, khả năng của con người đã đạt đến trình độ tư duy trừu tượng. Nó
là một trong những điều kiện làm nảy sinh các tư tưởng triết học của Ấn Độ
thời kỳ cổ đại.
1.3.2 Những thành tựu văn hóa
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ - trung đại là mang đậm dấu ấn tín
ngưỡng, tôn giáo và tâm linh. Văn hóa Ấn Độ cổ - trung đại được chia làm 3
giai đoạn:
- Từ thế kỷ XXV – XV tr. CN là nền văn minh sông Ấn (sông Indus).
Vào khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, các nhà khảo cổ học người Anh đã
tìm ra nền văn minh này và thấy rằng đây là nền văn minh cổ xưa hơn bất cứ
nền văn minh nào mà chúng ta đã biết được cho đến ngày nay. Qua các di tích
khảo cổ, có thể khẳng định rằng nền văn minh sông Ấn phát triển rực rỡ


19


không kém nền văn minh Lưỡng Hà. Thậm chí, còn phát triển hơn. Những di
tích khảo cổ đã chứng tỏ xã hội Ấn Độ lúc này đã biết sử dụng đồ dùng bằng
đồng. Kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp trồng lúa nước. Bên cạnh đó, người
ta cũng phát triển chăn nuôi. Người ta còn thấy rằng, các thành phố được quy
hoạch một cách rất chặt chẽ, Will Durant viết: “bốn năm thành phố chồng
chất lên nhau, có mấy trăm ngôi nhà và cửa tiệm xây cất bằng gạch rất chắc
chắn, có ngôi gồm mấy tầng lầu, hết thảy đều sắp thành hai bên những con
đường rộng hoặc những ngõ hẹp” [ dẫn theo 3, tr.24].
Cuối thiên niên kỷ thứ II tr.CN, nền văn minh sông Ấn bắt đầu suy tàn
và cho đến nay người ta vẫn chưa tìm được nguyên nhân chính xác của sự suy
tàn đó. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều nghiêng về phía nguyên nhân nội
tại đã làm biến mất nền văn minh ấy.
- Từ thế kỷ XV – VII tr. CN là nền văn minh Veda. Ngày nay, chúng ta
biết đến nền văn minh này qua truyền thuyết. Những truyền thuyết này được
sưu tập và được phản ánh trong bộ kinh Veda và hai thiên sử thi của Ấn Độ là
Ramayana và Mahabharata (vì vậy, thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ Veda –
Sử thi). Đây là thời kỳ hình thành nên các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên
của Ấn Độ. Nó gắn liền với cuộc xâm nhập của những người Aryan du mục
vào trong đất Ấn, họ đã đồng hóa những người bản địa (chủ yếu là người
Dravidian) để tạo tiền đề cho việc hình thành nhà nước lần thứ hai trên đất Ấn.
- Từ thế kỷ VI – I tr.CN là thời kỳ hình thành các trường phái triết học,
tôn giáo lớn của Ấn Độ, gồm 2 hệ thống đối lập nhau: Các trường phái chính
thống và không chính thống (còn gọi là thời kỳ cổ điển hay thời kỳ phật giáo,
Bàlamôn giáo). Cơ sở để phân chia các trường phái chính thống và không
chính thống là việc có thừa nhận kinh Veda hay không? Nếu trường phái nào
thừa nhận sự “mặc khải” của Thánh kinh Veda, đó là các trường phái chính
thống và ngược lại. Các trường phái chính thống bao gồm triết học của phái


20


Samkhya, Mimansa, Vedanta, Yoga, Nyaya, Vaiseshika. Các trường phái
không chính thống bao gồm triết học Phật giáo, Jaina giáo, và phái Lokayata.
Nền văn hóa Ấn Độ thời kỳ cổ - trung đại trải qua ba giai đoạn phát triển
đã mang lại một số thành tựu trên những lĩnh vực sau:
Về văn học, nghệ thuật, họ đã sáng tạo nên những bộ sử thi lớn như
Ramayana, Mahabharata mang đậm triết lý đạo đức nhân sinh và bộ Thánh
kinh Veda mang tư tưởng triết lý tôn giáo, chứa đựng cả những tư tưởng triết
học. Chữ viết xuất hiện rất sớm, trên đồ gốm của thời kỳ đồ đá mới có ghi
bằng chữ Brahmi. Từ thế kỷ VII và VI tr.CN, Panini đã viết bộ ngữ pháp vĩ
đại của tiếng Phạn (Sanscrit), vào thời của ông, tiếng Phạn đã được sử dụng
làm ngôn ngữ cho việc sáng tác văn học.
Về điêu khắc và kiến trúc, các bằng chứng khảo cổ học cho thấy đây
cũng là một ngành được hình thành rất sớm ở Ấn Độ cổ đại, nó luôn gắn liền
với những tư tưởng triết lý tôn giáo. Ngành điêu khắc chỉ là ngành phụ cho
nghệ thuật kiến trúc. Đến thời đại của vua Ashoka, nghệ thuật điêu khắc lại
phát triển trở lại, gắn liền với sự hưng thịnh của Phật giáo. Thời kỳ này, nghệ
thuật điêu khắc của Ấn Độ còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Hy lạp.
Trong nghệ thuật kiến trúc, người Ấn Độ không xây dựng các công trình đồ
sộ mà nét đặc sắc trong kiến trúc của họ nằm ở sự tinh tế, sự độc đáo trong
các công trình chùa chiền. Phong cách kiến trúc của Ấn Độ đã có ảnh hưởng
rất đậm nét đối với các nước Đông Nam Á (đặc biệt như: Thái lan,
Mianma...), ở Việt Nam kiến trúc Ấn Độ ảnh hưởng đậm nét đến lối xây dựng
chùa chiền ở miền Tây Nam Bộ (chủ yếu là dòng Phật giáo tiểu thừa).
Như vậy, có thể khẳng định rằng, những thành tựu về khoa học và văn
hóa ở Ấn Độ cổ đại đã chứng minh tư duy của con người đã đạt đến trình độ
trừu tượng. Sự xuất hiện của các nền văn minh trên đất Ấn đã cho thấy đời
sống vật chất của con người đã phát triển đến một trình độ nhất định. Tất cả



21

những yếu tố đó đã trở thành tiền đề, điều kiện cho sự xuất hiện những tư
tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ cổ - trung đại.
1.4

Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ - trung đại
Nền triết học Ấn Độ cổ - trung đại có một số đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, triết học Ấn Độ cổ - trung đại ít chú ý đến khoa học tự nhiên
mà chú trọng đến vấn đề nhân bản, từ đó, tìm cách “giải thoát” cho con
người khỏi nỗi khổ. Các trường phái triết học Ấn Độ, thuộc hệ phái chính
thống hay không chính thống đều tập trung vào nghiên cứu vấn đề nhân bản
và trong nhân sinh quan triết học thường xoay quanh vấn đề “giải thoát”,
“siêu thoát”. Tại sao triết học Ấn Độ cổ - trung đại chú trọng vấn đề “giải
thoát”? Một mặt, do những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa và
xã hội của Ấn Độ cổ - trung đại. Mặt khác, do những cốt cách riêng có trong
tư tưởng của người Ấn Độ.
Thứ hai, triết học Ấn Độ thường gắn liền với tôn giáo, các tư tưởng triết
học được tìm thấy trong kinh sách tôn giáo. Do những điều kiện về mặt tự
nhiên, xã hội cùng với việc tập trung nghiên cứu và lý giải bản chất đời sống
tâm linh của con người, nền triết học Ấn Độ có xu hướng “duy linh” và gắn
liền với tôn giáo. Hệ thống triết học chính thống của Ấn Độ đều lấy tư tưởng
trong Thánh kinh Veda và Upanishad làm điểm xuất phát để từ đó xây dựng
những học thuyết triết học của mình. Bên cạnh đó, các trường phái triết học
chính thống có Phật giáo vừa là một trường phái triết học vừa là một tôn giáo.
Thứ ba, nền triết học Ấn Độ có nhiều trường phái và nội dung rất đa
dạng, phong phú cả về mặt bản thể luận, nhận thức luận, tư tưởng đạo đức, lối
sống...v.v. Theo cách phân chia truyền thống, người ta chia nền triết học Ấn
Độ thành hai hệ phái chính: Hệ phái triết học chính thống và không chính
thống. Về mặt nội dung triết học, triết học Ấn Độ cổ - trung đại hội tụ đầy đủ

các lĩnh vực bản thể luận, nhận thức luận...Mỗi trường phái lại đặc biệt chú


22

trọng đến một vấn đề, ví như: Trường phái Nyaya chú ý đến lĩnh vực nhận
thức luận (xuất hiện tư tưởng về logic học); trường phái Vaisesika đặc biệt
quan tâm đến vấn đề bản thể luận...v.v.
1.5

Tư tưởng giải thoát – đặc trưng của nền triết học Ấn Độ cổ - trung đại
Do điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội thời kỳ cổ - trung đại,
trên đất Ấn Độ đã hình thành nhiều tiểu vương quốc, độc lập với nhau. Điều
này cũng góp phần vào việc hình thành nhiều trường phái triết học, tôn giáo
khác nhau. Theo cách phân chia truyền thống, triết học Ấn Độ cổ - trung đại
có 9 hệ thống, gồm có sáu trường phái chính thống (Astika, nghĩa là tin vào
thế giới bên kia) và 3 trường phái không chính thống (Nastika, nghĩa là làm ô
nhục Veda).
Triết học Ấn Độ là một nền triết học đa dạng và phong phú. Điều đó thể
hiện ở chỗ, các trường phái triết học Ấn Độ “gối tư tưởng” lên nhau, ảnh
hưởng, “vay mượn” triết lý của nhau và tồn tại nhiều khuynh hướng khác
nhau: Duy tâm có, duy vật triệt để có, nhị nguyên luận có...v.v. Đặc biệt, sự đa
dạng ấy không chỉ tồn tại trong nội bộ các trường phái triết học chính thống
hay không chính thống mà nó còn tồn tại hiện hữu trong bản thân mỗi trường
phái đó.
Trong các trường phái triết học chính thống, tất cả các trường phái này
đều thừa nhận sự “mặc khải” của Thánh kinh Veda, bảo vệ cho chế độ phân
biệt đẳng cấp và quan niệm có một “đấng sáng tạo tối cao” nào đó. Tuy
nhiên, sau khi thừa nhận uy quyền tối cao của kinh Veda, họ mặc sức phát
triển tư tưởng của mình theo những khuynh hướng khác nhau. Ví như: Trường

phái Vedanta, Yoga thể hiện thế giới quan duy tâm một cách triệt để, còn các
trường phái như Samkhya, Mimansa, Nyaya mang khuynh hướng nhị nguyên
luận một cách rõ nét.


23

Còn trong các trường phái triết học và tôn giáo không chính thống, trong
khi triết lý Phật giáo và đạo Jaina mang tính chất nhị nguyên luận ngả theo
khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm (đặc biệt là đạo Jaina) thì cùng xuất
phát điểm là không tin có Thượng đế, nghi ngờ, phủ nhận uy quyền tối cao
của kinh Veda, đả kích giáo lý Bàlamon và chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội
đã xuất hiện một trường phái triết học mang thế giới quan duy vật triệt để là
Lokayata. Triết học của phái Lokayata khuyên con người hãy chấp nhận đời
sống hiện tại với mọi buồn vui, với mọi hạnh phúc và khổ đau...thay vì tìm
một sự “siêu thoát”, “giải thoát” theo con đường của tất cả các trường phái
triết học và tôn giáo còn lại của Ấn Độ cổ - trung đại.
Tóm lại, các hệ thống triết học này, dù theo khuynh hướng duy tâm hay
theo chủ nghĩa hiện thực, họ đều chú trọng giải quyết vấn đề nhân sinh. Và,
dù có giải quyết vấn đề nhân sinh bằng cách này hay cách khác, thực hiện nó
bằng con đường này hay con đường khác thì suy đến cùng, mục đích tối cao
trong triết học của họ là tìm đến sự “giải thoát” và “siêu thoát” cho con
người khỏi sự khổ ải của cuộc đời.
Vì sao triết học Ấn Độ cổ - trung đại đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải
thoát? Tại sao có thể khẳng định tư tưởng giải thoát là đặc trưng của triết học
Ấn Độ thời kỳ này?
Tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ tuy đa dạng, phong phú với các vấn
đề: Bản thể luận, nhận thức luận...nhưng, tựu trung lại, họ đều đặc biệt chú
trọng giải quyết vấn đề nhân sinh. Khi quan tâm đến vấn đề nhân sinh, các
nhà triết học đặt ra các câu hỏi: Bản chất con người là gì? Tại sao cuộc đời

con người bị vây bủa bởi cái vòng khổ ái – hận thù?...Trả lời cho những câu
hỏi ấy, các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ đã chỉ ra rằng, bản chất con
người vốn thanh tịnh, nhưng do cái “bản ngã” (cái tôi) “vô minh” (tức là, sự
mờ tối của tư tưởng) đã làm con người lạc lối trong cái “giả tưởng” (cái


24

không tồn tại thật), từ đó, vướng vào cái vòng khổ ái của cuộc đời nên con
người mới thấy đau khổ.
Chỉ ra con đường phá tan “vô minh”, giúp con người thoát khỏi sự “giả
tưởng”, đa số các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ đều khẳng định rằng:
Con người cần vượt qua sự mê tối, lầm lạc để hòa nhập cái “bản ngã” với
bản thể của vũ trụ. Những người tìm đến triết học, tôn giáo Ấn Độ, phải đến
gần nó “với một tâm trạng thao thức và thành khẩn, để mong chờ một tia
sáng nào đó trong khu rừng huyền bí Đông phương, mà từ đó, ánh sáng vũ
trụ và ánh sáng nội tâm sẽ trùng phùng để phá tan đời sống nông cạn đầy
đau đớn phân ly, đầy khổ ái hận thù” [ 5; tr.10].
Ở đây, chúng ta phải thừa nhận một điều rằng, trong cuộc sống, nhiều
khi chúng ta cứ theo đuổi những ảo vọng mơ hồ. Do ước muốn chiếm hữu, do
sự hạn hẹp của tư tưởng, sự lầm lạc của tư duy mà chúng ta không nhận ra
con đường giải thoát cho những suy nghĩ, cho những bế tắc, những nỗi khổ
trong tâm hồn mình.
Đối với việc giải quyết vấn đề nhân sinh, trong triết học phương Tây
người ta thường đi sâu vào tìm bản chất con người, vị trí của con người trong
tự nhiên – xã hội, để từ đó thực hiện khát vọng chinh phục tự nhiên, cải tạo đời
sống hiện thực của con người. Ở phương Đông, trong triết học Trung Quốc,
người ta đi sâu vào nghiên cứu đời sống chính trị - xã hội với những mối quan
hệ xã hội (chủ yếu là quan hệ chính trị - đạo đức) và từ đó, họ cho rằng xã hội
“loạn” lạc là do trật tự của những quan hệ xã hội không được giữ vững. Vì thế,

triết học của họ đã xoáy sâu vào các mối quan hệ xã hội (đặc biệt là quan hệ
giữa con người với con người) nhằm tìm ra con đường bình ổn xã hội. Còn triết
học Ấn Độ, do ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên, kinh tế - chính trị - văn
hóa – xã hội...Và, điểm đặc biệt trong nét tính cách riêng có của người Ấn Độ,
họ đã đi sâu vào lý giải bản chất đời sống tâm linh của con người.


25

Vì lẽ đó, tư tưởng giải thoát mang nét độc đáo riêng có. Nó đi sâu vào
giải thoát cho đời sống tâm linh bên trong con người. Nó là sự giải thoát
hướng nội. Trong khi đó, với người phương Tây hay ở những người Trung
Hoa có bàn đến sự giải thoát chủ yếu đề cập đến quan niệm về “giải thoát”.
Tại sao nói, tư tưởng giải thoát là đặc trưng của triết học Ấn Độ cổ trung đại?
Để trả lời cho câu hỏi này, cần lý giải ở 3 điểm sau:
Thứ nhất, các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ coi “giải thoát”
không chỉ là những quan điểm, tư tưởng mà còn là một lẽ sống, một triết lý
sống, và mục đích cao nhất của tư tưởng. “Điều quan trọng nhất đối với một
kẻ muốn tìm hiểu triết học Ấn Độ là lòng khát khao muốn giải phóng, khát
vọng muốn giải thoát và siêu thoát” [ 5; tr.11].
Như vậy, có thể thấy rằng, đối với nền triết học Ấn Độ, “giải thoát”
không chỉ đơn thuần là một quan niệm mà nó là một lẽ sống, mà bất cứ người
nào muốn đi sâu vào nó phải thực sự có khát khao phá tan sự “vô minh”, để
giải thoát khỏi những khổ ái của cuộc đời.
Thứ hai, tư tưởng giải thoát trong các trường phái triết học, tôn giáo Ấn
Độ gắn liền với tôn giáo và mang tính chất “duy linh”.
Khi giải quyết vấn đề nhân sinh, triết học Ấn Độ tập trung vào việc lý
giải bản chất đời sống tâm linh của con người. Cho nên, tư tưởng giải thoát
trong triết học Ấn Độ mang tính chất “duy linh” và thường gắn liền với các
tôn giáo.

“Chữ “tâm linh”...theo tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ, là một khái
niệm bao hàm nhiều ý nghĩa. Xét về mặt triết học, đó là thế giới tinh thần, linh
hồn, tâm lý linh thiêng, sâu kín trong tâm con người, hay là trí tuệ linh nghiệm,
là sự thông minh tự có trong lòng con người. Xét về mặt tôn giáo, tâm linh là
cái tâm rất linh diệu, màu nhiệm, biến hiện khôn lường” [2; tr.42].


×