Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục tỉnh Lào Cai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 108 trang )

B GIO DC V O TO

HC VIN CHNH TR QUC GIA
H CH MINH

HC VIN BO CH V TUYấN TRUYN

NGUYN TH THANH H

GIáO DụC Lý LUậN CHíNH TRị
CHO CáN Bộ LãNH ĐạO, QUảN Lý NGàNH GIáO
DụC
TỉNH LàO CAI HIệN NAY

LUN VN THC S CHNH TR HC


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU....................................................................................1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO
DỤC..........................................................................................9
1.1. GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA
GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC...............................
1.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CỦA GIÁO DỤC LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ NGÀNH GIÁO DỤC................................................................
Chương 2 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC TỈNH LÀO CAI


...............................................................................................38
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH LÀO
CAI HIỆN NAY...............................................................................
2.2. NHỮNG CHUYỂN BIẾN TÍCH CỰC CỦA GIÁO DỤC LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ NGÀNH GIÁO DỤC TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY.................
2.3. HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC
TỈNH LÀO CAI...............................................................................
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY....75


3.1. QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC TỈNH LÀO CAI HIỆN
NAY.................................................................................................
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO
DỤC TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY..................................................
KẾT LUẬN................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

GD&ĐT

: Giáo dục và Đào tạo

GDLLCT

: Giáo dục lý luận chính trị

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LĐ,QL

: Lãnh đạo, quản lý

LLCT

: Lý luận chính trị

THCS

: Trung học cơ sở

TTBDCT


: Trung tâm Bồi dưỡng chính trị

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Trình độ chuyên môn và trình độ LLCT của giảng
viên tham gia giảng dạy LLCT................................................42
Biểu đồ 2.2: Độ tuổi của giảng viên tham gia giảng dạy LLCT
...............................................................................................44
Biểu đồ 2.3: Đánh giá về chất lượng đội ngũ giảng viên giảng
dạy LLCT.................................................................................46
Biểu đồ 2.4: Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học lý luận
chính trị..................................................................................55
Biểu đồ 2.5: Trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị
của học viên...........................................................................56
Biểu đồ 2.6: Thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng của học viên.................................................................60


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển không ngừng của tri thức nhân loại, ngày nay
giáo dục không chỉ là thước đo văn minh mà còn là nền tảng cho sự phát triển
bền vững của mỗi quốc gia. Ở nước ta hiện nay, ngành giáo dục được tổ chức
và phân cấp quản lý theo từng cấp học, tạo nên sự công khai, rõ ràng trong
việc thực hiện nhiệm vụ và xác định trách nhiệm của mỗi cấp. Để bộ máy
giáo dục của đất nước hoạt động được hiệu quả, đúng định hướng giáo dục
của Đảng và Nhà nước không thể không nhắc đến vai trò to lớn của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục.
Cán bộ LĐ,QL ngành giáo dục được ví như những thuyền trưởng tài tình
chèo lái con thuyền đưa những kỹ sư tâm hồn của đất nước thực hiện thành
công sự nghiệp trồng người, sánh vai với các cường quốc năm châu. Vì vậy,
Đảng ta xác định:
Phát triển giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà
giáo và cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục là lực lượng nòng
cốt, có vai trò hết sức quan trọng [3].
Vì thế, cán bộ LĐ,QL phải là những người tiêu biểu, có lập trường chính
trị vững vàng; có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và năng lực
công tác đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.
Nằm trong xu thế phát triển chung của cả nước, tỉnh Lào Cai rất chú
trọng đến giáo dục lý luận chính trị, đặc biệt cho đội ngũ cán bộ LĐ,QL ngành
giáo dục. Tỉnh đã xây dựng những đề án và kế hoạch riêng cho ngành và đã đạt
được nhiều thành tích đáng ghi nhận, nhưng trong thực tế cũng bộc lộ không ít
khó khăn, bất cập: Một số cấp ủy đảng chưa nhận thức hết được vai trò, tầm


2


quan trọng của LLCT; đội ngũ cán bộ LĐ,QL ngành giáo dục còn có những hạn
chế, yếu kém về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là trình độ LLCT;
chương trình đào tạo lý luận chính trị - hành chính của hệ thống các trường
chính trị tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện chưa có những lớp bồi
dưỡng lý luận chính trị riêng biệt cho đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý và
giáo viên ngành giáo dục; chưa có giải pháp về cơ chế khuyến khích việc học
tập nâng cao trình độ lý luận chính trị trong đội ngũ cán bộ, giáo viên; tiêu chí
về trình độ lý luận chính trị chưa được thực sự coi trọng trong việc đánh giá
giáo viên, chưa được coi là một tiêu chuẩn bắt buộc để chuẩn hoá đội ngũ giáo
viên. Trình độ, năng lực cán bộ giảng dạy LLCT, điều kiện cơ sở vật chất phục
vụ cho giảng dạy chưa đáp ứng được yêu cầu trong đổi mới của GDLLCT...
Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục được bổ nhiệm vào những
cương vị chủ chốt, nhưng chưa qua đào tạo cơ bản về lý luận chính trị. Vì vậy,
khi xử lý công việc họ còn biểu hiện tùy tiện, thiếu kinh nghiệm, chưa vận
dụng đúng với đường lối, lập trường quan điểm của Đảng vào thực tế. Để khắc
phục tình trạng trên, phải giải quyết nhiều khâu, song khâu quan trọng và cấp
bách hiện nay như Đảng ta đã xác định, đó là phải đổi mới, tăng cường hơn nữa
công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm nâng cao nhận thức chính trị, giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng cho đội ngũ này trong quá trình chỉ đạo
hoạt động thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục
tỉnh Lào Cai hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ Chính trị học chuyên
ngành Công tác tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề GDLLCT từ lâu đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu ở
nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau của những nhà khoa học. Song, việc
nghiên cứu này dừng lại ở góc độ chung nhất, mang tính gợi mở chung cho cả



3

nước nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GDLLCT trước
yêu cầu đổi mới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này của các tập
thể, cá nhân, đó là nguồn tài liệu quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa
trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn của mình như:
Đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp quận, huyện, thị xã các tỉnh
Nam Bộ", (Chủ nhiệm: Nguyễn Thanh Bình - đề tài cấp Bộ, năm 1996); Đề
tài: "Thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ giảng dạy của các trường chính trị
tỉnh, thành phố", (Chủ nhiệm: Thạc sĩ Tống Trần Sinh, năm 1998); Đề tài
mang mã số kx-10-09D do nhóm tác giả: Tô Huy Rứa, Đỗ Công Tuấn ở Đại
học Tuyên giáo “Đổi mới nội dung, chương trình giảng viên lý luận chính trị
các trường Đại học và Cao đẳng (nghiệm thu năm 1994).
Một số công trình của các tác giả đề cập đến giáo dục lý luận chính trị có
liên quan đến đề tài, đó là: PGS.TS Phạm Huy Kỳ (2002), “Lý luận và
phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị”; Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh kỷ yếu "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng,
lý luận", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Trần Thị Anh Đào (2009),
“Công tác tư tưởng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; PGS.TS. Lương Khắc Hiếu (Chủ biên) (2008), “Nguyên lý
công tác tư tưởng”, tập I, II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2005), “Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hình thức, phương
pháp tuyên truyền, giáo dục, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng” ,
Công ty in Tiến Bộ, Hà Nội; Đào Duy Quát (2004), “Về công tác tư tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; TS. Vũ
Ngọc Am (2003), “Đổi mới công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán
bộ, đảng viên ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội; PGS. TS, Hà Học Hợi (Chủ biên) (2002), “Đổi mới và nâng cao



4

chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội;
TS. Vũ Đình Hòe (Chủ biên) (2000), “Truyền thông đại chúng trong công
tác lãnh đạo, quản lý”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Ngô Văn Thạo
(chủ biên) (2008) Phương pháp giảng dạy Lý luận chính trị, Nxb Lao động
xã hội, Hà Nội; PGS. TS. Trần Thị Anh Đào (chủ biên) (2010) “Công tác
giáo dục Lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội v.v..
Một số đề tài cấp Nhà nước và cấp bộ liên quan đến đề tài như: Đề tài
khoa học cấp nhà nước 05-03 về luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước do PGS, TS Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm đồng
chủ nhiệm. Một số luận văn viết về đề tài này như: Luận văn Thạc sĩ của Vũ
Xuân Quảng (2001): “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã,
phường, thị trấn ở trường Chính trị Thái Bình hiện nay”. Luận văn Thạc sĩ
của Nguyễn Trung Trực (2005): “Chất lượng công tác đào tạo cán bộ của hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn ở trường cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay - Thực trạng và giải pháp”. Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Bích
Hường (2006): “Chất lượng đào tạo cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị
xã phường, thị trấn ở trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Thành phố Hà
Nội giai đoạn hiện nay”. Luận văn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Dung
(2010):“Chất lượng giáo dục Lý luận chính trị tại các trung tâm Bồi dưỡng
Chính trị của Thành phố Hà Nội hiện nay”…
Một số bài báo đăng trên các tạp chí được đề cập ở những phạm vi, góc
độ khác nhau về vấn đề giáo dục Lý luận chính trị như: Tạp chí Cộng sản số
23 năm 2002: “Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ quản lý hiện
nay”; Tạp chí Khoa học chính trị số 02 năm 2003: “Đào tạo bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong hệ thống chính trị trước yêu cầu,



5

nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới”; Tạp chí Triết học số 01 năm 2004:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh và học tập lý luận”…
Một số bài của các tác giả ở nhiều Hội thảo như: PGS.TS Nguyễn
Khánh Bật: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng lý luận; PGS.TS
Hoàng Trang: “Mấy suy nghĩ về công tác tư tưởng, lý luận ở Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong tình hình mới dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ
Chí Minh”; PGS.TS Lê Văn Tích: “Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc
sống - khâu trọng yếu ở công tác tư tưởng, lý luận hiện nay”, TS. Phạm Ngọc
Anh: “Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận...”.
Một số công trình khác có liên quan đến đề tài, như: Nguyễn Trọng
Khiêm (2004), Tăng cường phối hợp các phương tiện công tác tư tưởng ở
tỉnh Hòa Bình hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội; Nguyễn Văn Quang (2012), Chất lượng giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên huyện Cẩm Mỹ tỉnh Đồng nai hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
Hà Nội; Nguyễn Thu Thủy (2012), Công tác giáo dục lý luận chính trị ở
Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị với việc hình thành văn hóa chính trị cho cán
bộ, đảng viên thành phố Thái Nguyên hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học
chính trị, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội; Vũ Thi Hằng (2012),
Dự báo nhu cầu giáo viên trung học phổ thông tỉnh Lào Cai đến năm 2020,
Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, trường Đại học sư phạm Hà Nội...
Mặc dù đã các công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ bản cả
về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để nâng cao
trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ LĐ,QL. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho tới
nay vẫn còn hiếm hoặc chưa có công trình nghiên cứu một cách chi tiết, đầy
đủ, có hệ thống và chuyên sâu về thực trạng cũng như nêu ra những phương

hướng, nhiệm vụ, giải pháp để nâng cao trình độ LLCT cho cán bộ LĐ,QL


6

ngành giáo dục của một tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt là việc nghiên cứu
tại địa bàn tỉnh Lào Cai.
Do vậy, có thể nói đề tài luận văn mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu
“Giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục
tỉnh Lào Cai hiện nay” là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề này trên địa
bàn tỉnh Lào Cai. Những tài liệu nêu trên có giá trị tham khảo tốt cho tác giả
trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn, đề tài luận văn không trùng lặp
với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về GDLLCT cho cán bộ
LĐ,QL ngành giáo dục luận văn đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng GDLLCT cho cán bộ LĐ,QL ngành giáo dục tỉnh Lào
Cai trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Tổng hợp, khái quát làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về giáo
dục lý luận chính trị
- Phân tích, đánh giá thực trạng về giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục lý
luận chính trị tỉnh Lào Cai trong thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục tỉnh Lào Cai hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục tỉnh Lào Cai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


7

Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục hệ công lập của ngành Giáo dục và Đào tạo
tỉnh Lào Cai từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục lý luận chính trị; một
số văn kiện của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Lào Cai, đề tài còn tiếp thu, kế
thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có
liên quan.
Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực trạng giáo dục lý luận chính trị ở tỉnh
Lào Cai.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lôgic - lịch sử, thu thập thông tin,
nghiên cứu tài liệu, quan sát, thống kê, so sánh,...
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của đề tài
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
vận dụng vào thực tiễn giáo dục lý luận chính trị và làm tài liệu tham khảo
cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này trong học tập và nghiên cứu.
Góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục lý
luận chính trị trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

Luận văn cung cấp thêm luận cứ khoa học và gợi mở một số suy nghĩ
có thể vận dụng vào thực tiễn giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục tỉnh Lào Cai và các tỉnh miền núi khác trong
giai đoạn hiện nay.


8

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu 3 chương 7 tiết.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ
CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC
1.1. GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO
DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
NGÀNH GIÁO DỤC

1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm lý luận chính trị
- Lý luận
Lý luận là một phạm trù khoa học phản ánh hiện thực khách quan, tồn
tại và phát triển cùng với sự phát triển của trí tuệ loài người trên mọi lĩnh vực
tự nhiên và xã hội. Lý luận là hình thức phản ánh hiện thực cuộc sống bằng
các khái niệm, phạm trù, quy luật, là kết quả của nhận thức khoa học ở trình

độ tư duy trừu tượng, hệ thống hóa và khái quát hóa để tìm ra bản chất của sự
vật, hiện tượng, phát hiện ra đặc điểm, mối liên hệ xu hướng vận động và phát
triển của các sự vật, hiện tượng đó trong thế giới khách quan.
Với nghĩa rộng, lý luận là một dạng hoạt động của con người, nhằm thu
nhận tri thức về hiện thực tự nhiên, xã hội và cùng với thực tiễn tạo thành
hoạt động tổng thể của xã hội.
Với nghĩa hẹp, lý luận là một dạng tri thức khoa học đáng tin cậy về một
tổng thể các khách thể nào đó. Nó là hệ thống những luận điểm gắn bó chặt
chẽ với nhau về mặt lô gíc và phản ánh bản chất các quy luật hoạt động, phát
triển để nghiên cứu.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Lý luận là tổng kết có hệ thống những kinh
nghiệm của loài người phát sinh từ thực tiễn để chi phối và cải tạo thực tiễn”,
[55, tr.496].
Từ điển Triết học đã định nghĩa: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về


10

tự nhiên và xã hội tích luỹ được trong quá trình lịch sử”; là “hệ tư tưởng chủ
đạo trong một lĩnh vực tri thức” [56, tr.526].
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài
người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
trình lịch sử” [39, tr.497]. Mọi lĩnh vực đời sống tự nhiên, xã hội, tư duy khi
đã trở thành nghiên cứu của con người thì kết quả của quá trình nghiên cứu ấy
đều được thể hiện dưới hình thức tri thức lý luận với trình độ khái quát hóa
nhất định. “Lý luận hiểu theo nghĩa chung nhất là các khái niệm, phạm trù,
quy luật đươc khái quát từ nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn của
con người. Lý luận là kết quả nhận thức chủ quan của con người về những
hiện tượng khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy” [12, tr.183].
Từ những quan niệm trên, lý luận được hiểu là hệ thống tri thức được

khái quát từ thực tiễn khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con
người, được biểu đạt dưới dạng các khái niệm, phạm trù, quy luật, tư tưởng,
quan điểm,… nhằm giúp con người chi phối và cải tạo thực tiễn.
- Chính trị
Khi đề cập đến chính trị thì có rất nhiều quan điểm khác nhau. Tuỳ theo
cách tiếp cận cũng như việc bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình mà những nhà
nghiên cứu đưa ra các quan điểm khác nhau. Nhưng, theo quan niệm của các
nhà kinh điển thì chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia
đối với quyền lực nhà nước.
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với sự
xuất hiện giai cấp, phân chia giai cấp và nhà nước.
Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng nên nó có vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống xã hội. Đây cũng là vấn đề cơ bản của các giai cấp tồn
tại trong xã hội, đặc biệt là đối với giai cấp thống trị. Vấn đề này đã thu hút
rất nhiều nhà tư tưởng suy nghĩ, khám phá, cố gắng làm sáng tỏ bản chất, đặc
trưng, tính quy luật của chính trị.


11

Theo từ điển Bách khoa triết học thì: “Chính trị theo nguyên nghĩa của
nó là những công việc của nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những
quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là
vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [2, tr.507].
Những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học xem xét chính trị với
tư cách là một hiện tượng xã hội - nó mang tính lịch sử, và nó có vai trò to lớn
trong đời sống xã hội. Bởi vì “Chính trị là sự tham gia vào công việc nhà
nước, là sự vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm
vụ, nội dung của nhà nước” [21, tr.404]
Chính trị với tư cách là một thiết chế xã hội nó luôn định hướng tư

tưởng của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì sự thống trị của mình đối với xã
hội. Đến đây, cho phép chúng ta hiểu khái quát chính trị theo một nghĩa tổng
quát như sau: Chính trị là những vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước hoặc
những hoạt động của giai cấp, chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều
hành Nhà nước. Như vậy chính trị là chủ thể của kiến trúc thượng tầng có
chức năng xử lý và điều tiết các mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp, các dân
tộc giữa các quốc gia.
- Lý luận chính trị
Với góc độ tiếp cận khái niệm lý luận và khái niệm chính trị ở trên, ta
có thể hiểu khái niệm lý luận chính trị như sau: Lý luận chính trị là lý luận
trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu
tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất định
trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương đường
lối, chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực
Nhà nước.
Như vậy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận chính trị của giai
cấp vô sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất của giai cấp vô sản và chính đảng
của nó - Đảng Cộng sản.


12

LLCT là hệ thống tri thức về lĩnh vực chính trị thể hiện thái độ và lợi
ích giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội có giai cấp, là kết quả
của hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn chính trị của nhiều người,
qua nhiều thế hệ. Chẳng hạn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là bộ phận
nền tảng, cốt lõi trong lý luận chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công để
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - xã hội chủ nghĩa. Đó chính là
lý luận của giai cấp vô sản được xây dựng dựa trên sự kế thừa có phê phán hệ

thống lý luận nhân loại trước đó, kết hợp với sự tổng kết kinh nghiệm của
phong trào công nhân của nhiều nước trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của
phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước” [39, tr.497].
Như vậy, lý luận chính trị được hiểu là hệ thống lý luận gắn liền với
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong việc giành, giữ và xây dựng chính
quyền. Lý luận chính trị phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế chính trị - xã hội, thể hiện lợi ích và giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Về bản chất, lý luận chính trị phản ánh tính quy luật của các quan hệ
kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp
đối với quyền lực nhà nước.
Về nguồn gốc, lý luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu
về lý luận và thực tiễn chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và
xây dựng chính quyền nhà nước.
Về mục đích, lý luận chính trị nhằm trang bị thế giới quan và thúc đẩy
hành vi thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của giai cấp.
Lý luận chính trị của giai cấp vô sản là sự khái quát tri thức nhân loại và
tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ đắc lực cho
việc giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Theo Lênin, lý luận đó có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp


13

cách mạng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng” và “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [34, tr.30-32] Hồ Chí
Minh cũng cho rằng: “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có
trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [35, tr.268]. Chủ nghĩa Mác - Lênin cùng
với tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận không thể tách rời, khẳng định
bản chất cách mạng và khoa học trong quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là

trong quá trình đổi mới vừa qua.
Có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tế cách mạng Việt
Nam cũng đã chứng minh rằng, khi nào chúng ta vận dụng nhuần nhuyễn và
sáng tạo hệ thống lý luận này thì gặt hái được nhiều thành quả và ngược lại.
Trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhờ vận dụng sáng tạo lý luận này mà chúng
ta đã đánh bại các thế lực thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai; từ một nước thuộc
địa, bị xâm chiếm, chia cắt trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất đang
trên đà phát triển. Trong thời kỳ cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đã có lúc chúng ta vận dụng chưa đúng chủ nghĩa mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh nên đã có giai đoạn rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài
(1975-1985). Sau đó cũng chính nhờ sự nhận thức đúng đắn về vai trò nền tảng
của lý luận này và vận dụng sáng tạo nó trong thực tiễn mà chúng ta đã đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển vững chắc.
Vì nắm vững tinh thần cốt lõi chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần sâu
sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, nên từ khi ra đời đến nay Đảng ta đã đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và cùng với việc ban
hành được những chủ trương, chính sách, mang tính đúng đắn, khoa học, cách
mạng hợp lòng dân.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục lý luận chính trị
- Giáo dục


14

Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm giáo dục do
xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, chẳng hạn như trong Từ điển tiếng
Việt khi coi giáo dục là một động từ thì nó được hiểu "là hoạt động nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và

năng lực như yêu cầu đặt ra" [72, tr.397]. Khi coi giáo dục là một danh từ thì
nó lại được hiểu "là hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy-giáo dục
của một nước" [72, tr.397]. Từ góc độ giáo dục học, PGS.TS Phạm Viết
Vượng đã xác định "về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu
những kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người; về hoạt động,
giáo dục là quá trình tác động đến đối tượng giáo dục để hình thành cho họ
những phẩm chất, nhân cách" [74, tr.21].
Từ những quan điểm và các cách hiểu trên ta có thể hiểu khái niệm
giáo dục như sau: Giáo dục là một quá trình được tổ chức có ý thức, hướng
tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ
của người dạy và người học theo hướng tích cực.
- Giáo dục lý luận chính trị
Là một hoạt động nâng cao giác ngộ lý luận cộng sản, củng cố niềm tin
vào tiền đồ cách mạng bằng các cơ sở khoa học, xác lập các công cụ nhận
thức, nhằm giải quyết các công việc do thực tiễn cuộc sống thường xuyên
biến đổi đặt ra; là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các giai cấp cầm quyền.
Theo Lênin, giáo dục lý luận chính trị là đem lại cho quần chúng nhân
dân sự hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, về thế giới quan khoa học,
về đường lối, chính sách của chính đảng cách mạng, biến nó thành niềm tin,
lý tưởng, những nguyên tắc đạo đức, giúp gạt bỏ những tàn dư của tư tưởng
cũ, lạc hậu, tiếp thu tư tưởng mới, tư tưởng tiên tiến, khoa học.
Hồ Chí Minh cho rằng, giáo dục lý luận chính trị là cách tốt nhất để hạn
chế và khắc phục những sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn, nhất là bệnh nóng


15

vội, chủ quan, duy ý chí; học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập lập trường,
quan điểm. Hồ Chí Minh khẳng định, giáo dục lý luận chính trị là truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhằm tạo ra sự thống nhất
về tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất cách mạng và năng lực
hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào
cuộc sống “… chúng ta học tập lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế” [39,
tr.497] Nước ta, hoạt động GDLLCT được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi
xướng, định hướng và phát triển từ khi chưa có Đảng. Trải qua quá trình thực
tiễn, GDLLCT đã đóng vai trò to lớn đối với những thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Vì thế, nó luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Hiện
nay, có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm GDLLCT như:
Theo PGS.TS. Đào Duy Quát thì:
Giáo dục lý luận chính trị là việc truyền bá những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó
là quá trình tác động vào đối tượng giáo dục bằng cách trình bày,
giải thích một cách khoa học những khái niệm, những quy luật,
những quan điểm...nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
nhận thức đúng đắn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, nhất trí cao với đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm
chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn
họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống [42, tr.38].
Như vậy, GDLLCT không chỉ được xem là hoạt động nhận thức mà
còn là hoạt động thực tiễn nhằm hiện thực hoá nhận thức lý luận chính trị.
Với GS.TS. Dương Xuân Ngọc:


16

Giáo dục lý luận chính trị là hoạt động nhận thức, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm hình
thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương
pháp tư duy và phương pháp làm việc biện chứng, khoa học, góp
phần nâng cao và phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của các
chủ thể chính trị trong xã hội trong hoạt động thực tiễn [40, tr.332]
Các khái niệm trên đều chỉ ra một cách rõ ràng, cụ thể các yếu tố chủ thể,
khách thể, nội dung, mục tiêu của GDLLCT. Từ đó những hoạt động GDLLCT
không chỉ được xem là nhận thức mà còn là hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
hóa nhận thức LLCT. Vì thế hoạt động LLCT được nâng lên một tầm cao hơn
không chỉ nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng vận dụng sáng tạo, tính tích cực
cho đối tượng mà còn cho cả chính chủ thể của hoạt động GDLLCT.
Đặc trưng của GDLLCT là một hoạt động mà chủ thể giáo dục là Đảng,
Nhà nước, trực tiếp là đội ngũ cán bộ giảng dạy LLCT trong hệ thống giáo
dục của Đảng, Nhà nước và đối tượng người học là cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân.
Mục đích của GDLLCT nhằm trang bị thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan cộng sản, phương pháp tư duy, phương pháp làm việc biện chứng
và tính tích cực chính trị - xã hội cho người học.
Nội dung của GDLLCT là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Phương pháp của GDLLCT là phương pháp sư phạm, tức là cách thức
truyền thụ kiến thức và giáo dục đối tượng của chủ thể giáo dục lý luận chính trị.
Từ khái niệm và đặc trưng của giáo dục lý luận chính trị, ta có thể xác
định: Giáo dục lý luận chính trị là hoạt động truyền bá những nguyên lý, lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính
sách của Đảng, nhà nước cho cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân,


17


nhằm giúp cho họ nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào việc hiện thực hóa đường lối, chính sách pháp luật
của Đảng, Nhà nước trong thực tiễn đời sống xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm chủ thể giáo dục lý luận chính trị
Chủ thể GDLLCT là những người (cá nhân, nhóm, tổ chức) tiến hành
hoạt động giáo dục. Chủ thể chủ yếu thực hiện GDLLCT tỉnh là toàn bộ đội
ngũ giảng viên của trường Chính trị tỉnh, giảng viên các TTBDCT huyện,
thành phố, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo các huyện ủy…, giảng
viên kiêm chức thuộc các phòng, sở, ban, ngành trong tỉnh, báo cáo viên,
tuyên truyền viên… Chủ thể GDLLCT là những người thực hiện nhiệm vụ
giảng dạy và tuyên truyền LLCT đến đối tượng giáo dục.
Chủ thể giáo dục có thể coi là yếu tố quan trọng hàng đầu trong công
tác giáo dục, vì đội ngũ này như cỗ máy cái đào tạo ra sản phẩm và điều quan
trọng là những sản phẩm này, đến lượt nó lại tiếp tục tạo ra những sản phẩm
khác cho xã hội. Vì vậy, nếu cỗ máy cái hoạt động tốt, đạt chất lượng hiệu quả
cao, sẽ cho ra những sản phẩm tốt, làm lợi cho xã hội sau này. Do đó, cần phải
có đội ngũ cán bộ giảng dạy chất lượng tốt.
Thật vậy, trong công tác giáo dục, nếu có được một đội ngũ giảng viên có
trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm chắc chắn sẽ đạt được chất lượng, hiệu
quả cao trong giảng dạy. Ngược lại, nếu đội ngũ giảng viên yếu, hạn chế về
chuyên môn sẽ tạo ra những sản phẩm không giúp ích được nhiều cho xã hội sau
này. Đối với GDLLCT điều này càng hết sức quan trọng. Nếu cán bộ giảng dạy
yếu, chất lượng đào tạo không đảm bảo sẽ tạo ra đội ngũ cán bộ lãnh đạo năng
lực yếu, trên thực tế không giúp ích cho xã hội mà còn làm ảnh hưởng chung tới
sự phát triển của xã hội. Vì vậy, về yêu cầu đối với đội ngũ giảng viên chính trị,
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn
luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của đoàn thể phải làm
kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc" [36, tr.56].



18

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, đối với cán bộ giảng dạy cái cần trước hết
là phải giỏi về chuyên môn. Vì không giỏi chuyên môn sẽ đem lại cho người
học những điều vô ích, có hại. Sau đó là đạo đức của người làm thầy. Do đó,
đối với cán bộ giảng dạy LLCT "người huấn luyện của đoàn thể", Người yêu
cầu họ phải là người kiểu mẫu về đạo đức, tư tưởng, tác phong. Theo Người,
người giáo viên dạy cho người học không chỉ là truyền thụ cho họ những kiến
thức về chuyên môn, mà phải giúp họ trao dồi, rèn luyện cả về đạo đức, tư
tưởng. Đối với cán bộ lãnh đạo thì đây lại là tiêu chuẩn hàng đầu. Để người
học tin, nghe theo thì người thầy phải là tấm gương sáng về nhiều mặt:
Một là, phải đáp ứng được mọi yêu cầu trong công tác giảng dạy của
đơn vị, trong mọi điều kiện và mọi phương thức đào tạo. Đặc biệt, trong điều
kiện hiện nay, khi nhu cầu giáo dục - đào tạo ngày càng được nâng cao, các
phương thức giáo dục mở ra hết sức phong phú đa dạng, yêu cầu trên đặt ra
hết sức cấp thiết. Muốn đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi phải có một đội
ngũ giảng viên vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, gương mẫu về đạo đức
Hai là, phải đảm bảo tính liên tục trong đội ngũ cán bộ giảng dạy, giữ
vững tính kế tục, ổn định về chuyên môn. Vì thế, bên cạnh đội ngũ giảng viên
có kinh nghiệm, những nhà khoa học đầu đàn, phải có cả những lớp giảng
viên trẻ. Đây chính là hàng ngũ kế cận, đảm bảo tính liên tục trong đội ngũ
giảng viên.
1.1.1.4. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục
- Cán bộ
Về cán bộ, Hồ Chí Minh đã từng đưa ra khái niệm rất cụ thể. Theo
Người, cán bộ là "người đem đường lối chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng được rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng" [36, tr.269]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cán bộ là lực lượng nòng cốt



19

của Đảng và Nhà nước làm nhiệm vụ triển khai, hướng dẫn, tổ chức thực hiện
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước trong hoạt động thực tiễn; là cầu
nối giữa Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân.
Xuất phát từ quan điểm xem “cán bộ là gốc của công việc” hoặc “cán
bộ là tiền vốn của đoàn thể”. Hồ Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ ngay từ những ngày đầu trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của người.
Vậy cán bộ là gì? Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người viết:
“cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích
cho dân hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ, để đặt chính sách cho đúng” [36, tr.269].
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý
LĐ,QL là hoạt động có từ xa xưa, tồn tại dưới nhiều hình thức như tộc
trưởng - người đứng đầu thị tộc, quản lý điều hành mọi thành viên trong thị
tộc. Tiếp đến là bộ tộc, thì tộc trưởng là người trực tiếp quản lý điều hành mọi
hoạt động của bộ tộc mình. Nhưng khái niệm cán bộ LĐ,QL mang đầy đủ ý
nghĩa của nó là khi xã hội có giai cấp và có nhà nước. Đây là khái niệm gồm
hai từ ghép lãnh đạo và quản lý, giữa chúng có cùng chung một đặc trưng cơ
bản đó là những chủ thể lãnh đạo, chủ thể quản lý, tác động đến khách thể,
đối tượng bị lãnh đạo, bị quản lý.
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động của chủ thể lãnh đạo tác động, điều
khiển mang tính định hướng cho khách thể (đối tượng bị lãnh đạo) thông qua
các phương pháp như động viên, giáo dục, thuyết phục, chỉ đạo…. nhằm đạt
mục đích đã định. Vậy lãnh đạo theo từ điển tiếng Việt là: “Đề ra chủ trương,
đường lối và tổ chức, động viên thực hiện” [73, tr.524].
Hoạt động quản lý là hoạt động của chủ thể quản lý thông qua sự sắp
xếp, tổ chức, chỉ huy của mình trực tiếp điều khiển, tác động đối tượng



20

(khách thể) theo những yêu cầu nhất định. Vậy thì quản lý theo từ điển tiếng
Việt là: “Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất
định” [41, tr.772].
Nếu xét về mục tiêu, nội dung, phương pháp thì có sự khác nhau căn
bản giữa hai khái niệm trên.
Về mục tiêu: Hoạt động lãnh đạo là hoạt động định hướng chung, còn
hoạt động quản lý là hoạt động tổ chức sắp xếp các vấn đề theo một trật tự
nhất định nhằm đạt hiệu quả cao nhất các quyết định của lãnh đạo.
Về nội dung: Hoạt động lãnh đạo là đề ra những quan điểm, chủ
trương, đường lối, hoạch định các kế hoạch mang tính chất định hướng chung.
Còn hoạt động quản lý là xây dựng những phương án, chỉ tiêu, kế hoạch cụ
thể, tổ chức lực lượng để thực thi nhiệm vụ.
Về phương pháp: Hoạt động lãnh đạo chủ yếu dùng phương pháp giáo
dục, thuyết phục, động viên, cổ vũ nhằm phát huy tính tự giác của đối tượng.
Còn hoạt động quản lý là sử dụng mệnh lệnh, mang tính nguyên tắc bắt buộc
với những chế tài biện pháp hành chính nhất định.
Hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý tuy là hai khái niệm khác
nhau, nhưng chúng có đặc trưng giống nhau, chúng đều là quá trình chủ thể
có quyền uy tác động đến đối tượng là những người dưới quyền để thực hiện
một nhiệm vụ nào đó theo những yêu cầu và mục đích định trước. Trong thực
tế, hoạt động lãnh đạo cũng đồng thời thực hiện chức năng quản lý, và ngược
lại hoạt động quản lý cũng đồng thời thực hiện chức năng lãnh đạo.
Như vậy, cán bộ lãnh đạo, quản lý là khái niệm chỉ những người đứng
đầu phụ trách các đơn vị, một tổ chức phong trào nhất định (nào đó) do bầu
cử hoặc do bổ nhiệm.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục



21

Cán bộ LĐ,QL ngành giáo dục là tập hợp những người làm công tác
LĐ,QL trong các cơ quan quản lý giáo dục các cấp, các cơ sở giáo dục và đào
tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Cán bộ LĐ,QL ngành giáo dục là những người có trình độ chuyên môn
đạt chuẩn hoặc trên chuẩn của mỗi cấp học theo quy định, được trang bị căn
bản về kiến thức chuyên môn của một chuyên ngành giáo dục nhất định gắn
với các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân; là những người nòng cốt
giữ vững chức vụ cao nhất, quan trọng nhất trong hệ thống giáo dục, quyết
định sự thành bại của giáo dục, trực tiếp triển khai các nghị quyết, quyết định,
chỉ thị cấp trên và chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, chỉ đạo đào tạo các mầm non cho tương lai, đưa những chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước đến tận người học, thông
qua đó thấy được tâm tư nguyện vọng, nhu cầu của người học và thực tế đặt
ra nhằm bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách…..phù hợp với
hiện thực khách quan.
Về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có ý thức chính trị, phẩm
chất đạo đức tốt (hầu hết là những nhà giáo ưu tú được bổ nhiệm, điều động
làm công tác LĐ,QL), có kinh nghiệm trong công tác LĐ,QL giáo dục. Tuy
nhiên, do tính chất nghề nghiệp có tính đặc thù, nên cán bộ LĐ,QL ngành
giáo dục thường chỉ tập trung chú ý vào nội dung chuyên sâu của công việc
chuyên môn, ít quan tâm đến những vấn đề LLCT.
- Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục
Cán bộ LĐ,QL ngành giáo dục là những người nằm trong cơ cấu của
ban chấp hành Đảng uỷ của các cấp. Nhiệm vụ, trách nhiệm của họ là thay
mặt Đảng, Nhà nước lãnh đạo các tổ chức giáo dục của cấp mình được giao.
Đồng thời, phải quán triệt các quan điểm, chỉ thị, quyết định của cấp trên

cũng như quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị mình. Đại hội đại


×