Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG bộ THÀNH PHỐ hà nội LÃNH đạo bồi DƯỚNG lí LUẬN CHÍNH TRỊ CHO cán bộ ở cấp cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.85 KB, 91 trang )

“Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cho cán bộ cấp cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015”

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ cán bộ nói chung và CBCCS nói
riêng là công tác thường xuyên, quan trọng của Đảng nhằm xây dựng đội ngũ
cán bộ có phẩm chất, năng lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai
đoạn cách mạng. Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, gắn liền với vận mệnh của Đảng,
của đất nước và chế độ. Trong quá trình lãnh đạo, nhất là thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế, việc đào tạo, bồi dưỡng LLCT, xây dựng đội ngũ cán
bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt là một trong những
khâu quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong công tác cán bộ của Đảng.
Thủ đô Hà Nội là Trung tâm chính trị - Hành chính quốc gia, nơi đặt trụ
sở của các cơ quan Trung ương Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội,
cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế, là trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa,
giáo dục, khoa học và công nghệ và giao dịch quốc tế của các nước. Nhận thức rõ
vị thế của Thủ đô và tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho
cán bộ, Đảng bộ thành phố Hà Nội thường xuyên quan tâm chỉ đạo các cấp ủy
Đảng, các cơ quan chức năng không ngừng bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng và
năng lực cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ CBCCS. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ CBCCS nói riêng vẫn còn nhiều
bất cập chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Một trong những nguyên nhân là
do trình độ LLCT của CBCCS còn hạn chế, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT
chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa được đổi mới toàn diện. Vì vậy, nghiên cứu,
làm rõ quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng
về LLCT cho CBCCS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng


.


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nhóm thứ nhất, những công trình được xuất bản thành sách
như:
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy CNH, HĐH đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo
dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Nguyễn Đức Tài (2005), Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa (2008), Giáo dục
và đào tạo chìa khóa của sự phát triển, Nxb Tài chính, Hà Nội; Phạm Tất
Thắng, Nguyễn Thúy Anh, Phùng Văn Đông (2010), Đổi mới công tác tư
tưởng, lý luận phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Phan Ngọc Liên (2010), Đảng Cộng sản Việt Nam với sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội; Phạm Tất Dong
(2010), Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội;
Trần Đình Thắng (2013), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên đã nêu các luận cứ cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy CNH, HĐH đất nước, đồng thời
làm rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục, đào tạo; đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, trong đó có đào tạo, bồi dưỡng, LLCT cho cán bộ, công chức, viên
chức. Một số công trình đã đi sâu phân tích, luận giải vấn đề bồi dưỡng, giáo
dục LLCT cho đội ngũ CBCCS, nêu những biện pháp nhằm nâng cao chất

2


lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức ở cơ sở.
* Nhóm thứ hai, các luận văn, luận án, đề tài khoa học:

Lê Văn Minh (2007), Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở miền
núi từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Bùi
Đức Lý (2010), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo công tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 1996 đến năm
2006, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Cầm Thị Lai (2012),
Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính cho đội ngũ cán bộ
chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ
khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Nguyễn Thanh Xuân (2014), Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 2006 đến
năm 2014, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đây là các đề tài đi sâu
nghiên cứu vấn đề đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS ở các địa

phương. Tùy theo góc độ tiếp cận vấn đề của mỗi đề tài, trên từng địa
phương cụ thể, các tác giả đã luận giải vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS; phân tích thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS ở địa
phương, trên cơ sở đó làm rõ các chủ trương, biện pháp và tổng kết một số
kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng LLCT ở các địa phương đó .
Tổng quan khoa học đề tài cấp Bộ của Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội (2004), Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo

3



sát một số tỉnh, thành phố phía Bắc nước ta) đã đề cập đến: Cơ sở xác định
nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện
nay ở nước ta. Thực trạng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã hiện nay ở nước ta. Quan điểm chỉ đạo, phương hướng
nhiệm vụ cơ bản, và giải pháp chủ yếu đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng về
LLCT cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay ở nước ta.

* Nhóm thứ ba, các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp
chí:
Hoàng Chí Bảo (2005), “Đảng bộ xã lãnh đạo việc xây dựng hệ thống
chính trị ở cơ sở nông thôn hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2; Ngô Thành
Can (2010), “Đổi mới, nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 175; Đặng Khắc Ánh (2012), “Đào tạo,
bồi dưỡng theo vị trí việc làm- những khó khăn và kiến nghị”, Tạp chí Quản
lý Nhà nước, số 193; Ngô Thị Kim Dung (2012), “Một số biện pháp tạo động
lực cho cán bộ, công chức cấp cơ sở trong quá trình thực thi công vụ”, Tạp
chí Quản lý Nhà nước, số 194; Phúc Sơn (2012), “Giải pháp xây dựng đội
ngũ cán bộ cấp xã đạt chuẩn”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5; Nguyễn Đăng
Quế (2013), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở ở Tây Nguyên”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 9; Đinh Văn Tiến, Thái Vân Hà (2013), “Đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong tình hình mới”, Tạp chí
Quản lý Nhà nước, số 209; Nguyễn Huy Thám (2014), “Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ - đôi điều chia sẻ kinh nghiệm từ thành phố Hà Nội” Tạp chí Lý
luận chính trị, số 3; Trần Đình Thắng (2014), “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cơ sở của Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1;
Đoàn Văn Dũng (2014), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ góc
nhìn chuỗi kết quả và chỉ số đánh giá”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4;
Phạm Công Hiệp (2014), “Một số điểm mới của chương trình đào tạo trung
cấp lý luận chính trị - hành chính”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9; Nguyễn
Huy Thám (2014), “Một số kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ


4


của Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong”, Tạp chí Lý luận chính trị, số
11; Hoàng Chung Hiếu (2014), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn
luyện cán bộ trong bồi dưỡng năng lực và phương pháp huấn luyện cho đội ngũ
cán bộ ở các đơn vị cơ sở”, Tạp chí Giáo dục Lý luận chính trị quân sự, số 6; Trần
Văn Dũng (2015), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thật sự là công bộc của
dân- mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta”, Tạp chí Giáo dục Lý luận
chính trị quân sự, số 4. Các bài báo khoa học trên đã phác họa một bức tranh tổng
thể về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung,
đào tạo, bồi dưỡng, LLCT cho đội ngũ CBCCS nói riêng.

Các công trình khoa học trên đã đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác
nhau của của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ CBCCS nói riêng. Một số công trình đã phân tích rõ thực trạng, đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức; đặc biệt là có một số bài nghiên cứu phân tích thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của thành phố Hà Nội và bước đầu khái
quát các kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của
thành phố. Các công trình tuy đa dạng, phong phú, phản ánh nhiều mặt, nhiều góc
độ khác nhau của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức song không phải
là công trình nghiên cứu chuyên sâu về đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ cán
bộ. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có tính hệ
thống về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội đối với công
tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS từ năm 2008 đến năm 2015,
dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, những công
trình trên là những tài liệu tham khảo có giá trị để tác giả kế thừa có chọn lọc
trong quá trình thực hiện đề tài của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác
đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS giai đoạn từ năm 2008 đến

5


năm 2015; trên cơ sở đó đưa ra nhận xét, đúc rút kinh nghiệm quá trình
Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho
đội ngũ CBCCS và vận dụng vào hiện thực.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ
thành phố Hà Nội đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ
CBCCS từ năm 2008 đến năm 2015.
- Phân tích làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố
Hà Nội đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS từ
năm 2008 đến năm 2015.
- Rút ra những nhận xét và kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của
Đảng bộ thành phố Hà Nội đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho
đội ngũ CBCCS để vận dụng vào hiện thực.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội đối
với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
thành phố Hà Nội đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ
chính quyền cấp cơ sở.
- Về thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2015. Tuy nhiên, trong quá

trình thực hiện luận văn, tác giả có sử dụng một số vấn đề có liên quan giai
đoạn trước năm 2008.
- Về không gian: Trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác - Lênin; phương pháp luận sử học mácxít.

6


* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và kết
hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra, sử dụng một số phương pháp khác: so sánh,
đồng đại, lịch đại, thống kê, phân tích, tổng hợp, và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ
thành phố Hà Nội về công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS. Khẳng
định tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội trong lãnh đạo
công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS; cung cấp cơ sở lý luận và
thực tiễn để tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ thành
phố Hà Nội về công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS trong
những năm tiếp theo.
Đề tài được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu,
giảng dạy Lịch sử Đảng ở Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố
Hà Nội và trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng cho các tổ chức, cá nhân của
Đảng bộ thành phố Hà Nội, hệ thống chính trị ở cơ sở và những ai quan tâm.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu

tham khảo và các phụ lục.

7


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2015
1.1. Những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ thành

phố Hà Nội về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ
cấp cơ sở (2008 - 2015)
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội
* Một số khái niệm liên quan
Thứ nhất, cán bộ, công chức:
Cán bộ: Theo Từ điển tiếng Việt, “cán bộ” là người làm việc trong cơ
quan, đoàn thể, đảm nhiệm một công tác lãnh đạo hoặc công tác quản lý,
công tác nghiệp vụ chuyên môn nhất định.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định “cán bộ” là công dân
Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức: Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, “công chức” là
công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức

8



danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, cán bộ cơ sở:
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 khẳng định: Cán bộ xã, phường, thị
trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ
theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó
bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là
công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ
thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.

Đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn là những cán bộ trong
bộ máy lãnh đạo và quản lý ở cấp cơ sở. Theo Nghị định số 92/2009/NĐ CP, ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ, Về chức danh, số lượng, một
số chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã bao gồm “cán bộ
chuyên trách, công chức và những người hoạt động không chuyên trách” [3 3,
tr.0l].

Cán bộ chuyên trách là những người giữ chức vụ bầu cử theo nhiệm kỳ
ở cấp xã (gọi chung là cán bộ cấp xã) bao gồm: Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân; Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đoàn Thanh

9


niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ
tịch Hội Nông dân Việt Nam; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức cấp xã là những người được tuyến dụng gồm: trưởng công an;
chỉ huy trưởng quân sự; văn phòng - thống kê; địa chính - xây dựng - đô thị và môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính nông nghiệp - xây dựng và môi trường
(đối với xã); tài chính - kế toán; tư pháp - hộ tịch; văn hóa - xã hội.

Những người hoạt động không chuyên trách cấp xã: gồm Chủ tịch Hội
người cao tuổi; Chủ tịch Hội chữ thập đỏ; Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc; Phó Chủ tịch các đoàn thể; Phó Trưởng Công an, Phó Chỉ huy trưởng
quân sự, cán bộ Văn phòng Đảng uỷ, cán bộ Dân số - Gia đình - Trẻ em.
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:
Đào tạo: Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội
thì “đào tạo” là “dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp” [115,
tr.593]. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học thì “đào tạo” nghĩa là “làm cho trở
thành người có năng khiếu, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định” [116,
tr. 369]. Điều 5 khoản (1) Nghị định số 18/2010/NĐ - CP ngày 05 tháng 3 năm

2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức lại giải thích: “Đào tạo là
quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của
từng cấp học, bậc học” [34, tr.2].

Bồi dưỡng: “bồi dưỡng” là “làm cho tốt hơn, giỏi hơn” [115, tr.191].
hoặc là “làm cho tăng thêm trình độ, năng lực hoặc phẩm chất” [116, tr.107]. Theo
Điều 5 khoản (2) Nghị định số 18/2010/NĐ - CP ngày 05/03/2010 của Chính


phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức đã nêu rõ: “Bồi dưỡng là hoạt động
trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [3 4, tr.2].
Như vậy, bồi dưỡng cán bộ cũng là quá trình tác động đến tâm lý, nhân
cách của người cán bộ, làm cho họ tốt hơn về đạo đức và giỏi hơn về năng lực
chuyên môn nghiệp vụ. Xét một cách tổng quát thì khái niệm “đào tạo cán bộ” bao
hàm cả ý nghĩa “bồi dưỡng cán bộ”; vì vậy cụm từ “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ”
thường được sử dụng trong thực tế.

10


Tuy nhiên, bồi dưỡng cán bộ có những đặc điểm cơ bản khác với đào
tạo là: Bồi dưỡng cán bộ chủ yếu là bổ sung, cập nhật kiến thức, thông tin vào
những tri thức mà cán bộ đã có. Nội dung bồi dưỡng LLCT, hành chính hướng
vào những quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, cập
nhật những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý hành chính. Hình thức
của bồi dưỡng đa dạng, linh hoạt: có bồi dưỡng nâng cao, cập nhật, chuyên sâu
theo chức danh; có bồi dưỡng nhiều lần, hàng năm và được ghi nhận hoàn
thành bằng chứng nhận, chứng chỉ. Thời gian bồi dưỡng cán bộ trong thực tế
thường trong khoảng một vài tuần đến một vài tháng. Hình thức bồi dưỡng cán
bộ có thể được tổ chức một cách “mềm dẻo” hơn, thậm chí trong một số hoàn cảnh
không nhất thiết phải tập trung (ví dụ như thông qua việc cung cấp tài liệu, sách vở
hoặc những lời chỉ dẫn... cho người được bồi dưỡng).

Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần được tiến hành trên cơ sở khoa
học, trước hết là khoa học tâm lý và giáo dục. Bồi dưỡng có thể áp dụng đối với
mọi đối tượng cán bộ, còn đào tạo diễn ra thuận lợi, hiệu quả khi cán bộ ở độ tuổi
dưới 40.


Thứ tư, lý luận chính trị
“Lý luận chính trị ” theo nghĩa chung nhất là lý luận trong lĩnh vực
chính trị, phản ánh mối quan hệ của các giai cấp trong việc giành và giữ chính
quyền. LLCT ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp để phản ánh tính
quy luật của các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thể hiện lợi ích và thái
độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Về mục đích, LLCT nhằm trang
bị thế giới quan và thúc đẩy hành vi thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của giai
cấp. Do vậy, LLCT có vai trò rất quan trọng đối với một chính đảng, đặc biệt là
đối với chính đảng vô sản, vì trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình, giai cấp công nhân sẽ không thành công nếu như không có được lý luận tiền
phong soi đường, dẫn lối.

11


LLCT của giai cấp là sự khái quát tri thức nhân loại và tổng kết kinh
nghiệm phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới, là công cụ đắc lực
để giành và giữ chính quyền của giai cấp vô sản ở mỗi nước.
Ở nước ta, LLCT là hệ thống những n guyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lợi ích, thái độ của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân vì nhân nân dưới sự lãnh đạo của Đảng, là công cụ quan trọng để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đào tạo, bồi dưỡng LLCT là quá trình trang bị hệ thống những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm hình thành và nâng cao năng lực, trình độ trí
tuệ, phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm
vụ mà Đảng, Nhà nước, đoàn thể giao phó.


* Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội
Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, là trung tâm kinh
tế, văn hóa - xã hội. Đặc điểm lớn nhất về điều kiện tự nhiên và KT - XH
của thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2008 - 2015 đó là việc điều chỉnh địa
giới hành chính. Ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/NQ - QH12 về việc
điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên
quan, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 08 năm 2008. Theo Nghị quyết, thành
phố Hà Nội được mở rộng với toàn bộ diện tích tỉnh Hà Tây, huyện Mê
Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã của huyện Lương Sơn (Hòa Bình); có diện tích
3.344,7 km 2 với dân số khoảng 6,23 triệu người. Hà Nội hiện nay có 29
quận, huyện và 01 thị xã, có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và
105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, phía Bắc tiếp giáp với các tỉnh Thái

12


Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Nam tiếp giáp Hà Nam , Hòa Bình; phía Đông
tiếp giáp Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây tiếp giáp Hòa Bình, Phú Thọ.
Đảng bộ Hà Nội sau khi mở rộng địa giới hành chính có 58 đảng bộ
trực thuộc (l0 đảng bộ quận; 19 đảng bộ huyện, thị xã; 5 đảng bộ khối; 21
đảng bộ cấp trên cơ sở và 03 đảng bộ cơ sở trực thuộc Thành ủy); có 2.955
tổ chức cơ sở đảng; 17.432 đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc cơ sở với
367.340 đảng viên. Đến nay, Đảng bộ thành phố Hà Nội có 59 đảng bộ trực
thuộc (12 đảng bộ quận, 18 đảng bộ huyện, thị xã; 5 đảng bộ khối; 21 đảng
bộ trên cơ sở, 03 đảng bộ cơ sở trực thuộc Thành ủy); có 2.920 tổ chức cơ sở
đảng, 375.058 đảng viên.
Việc mở rộng Hà Nội là công việc khó khăn, phức tạp với khối lượng
công việc phải thực hiện rất lớn (diện tích, dân số, đơn vị hành chính tăng; tỷ

trọng nông nghiệp, tỷ lệ hộ nghèo lớn, giao thông, thủy lợi,…trường học còn
khó khăn). Các cơ chế chính sách, quy mô, cấp độ, tính phức tạp trong quản lý
giữa các địa phương có sự khác biệt. Trước khi mở rộng địa giới hành chính,
mỗi địa phương có chiến lược, quy hoạch phát triển KT - XH; quy hoạch xây
dựng đô thị mang đặc thù riêng, nay phải điều chỉnh cho thống nhất, phù hợp
với tình hình mới ở tất cả các lĩnh vực, từ công tác tổ chức bộ máy, công tác
quy hoạch và rà soát các dự án đầu tư…Sau khi hợp nhất, số lượng cán bộ,
công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức đoàn thể, bộ máy
hành chính các cấp, nhất là chính quyền cấp cơ sở có số lượng đông, chất
lượng không đồng đều; trụ sở làm việc của các cơ quan phân tán, không tập
trung gây khó khăn, ảnh hưởng đến việc đi lại của cán bộ, công chức, viên
chức của thành phố và giải quyết công việc hành chính của nhân dân... Đặc
điểm tự nhiên, KT - XH nêu trên đã có tác động không nhỏ đến mọi mặt, mọi
lĩnh vực hoạt động của thành phố Hà Nội, đặt ra yêu cầu mới đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của thành phố, nhất là CBCCS.

13


1.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán
bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của giai cấp vô sản. Từ kinh nghiệm rút ra
trong lịch sử phát triển của xã hội loài người và quá trình truyền bá lý luận
khoa học vào phong trào vô sản, hai ông khẳng định: Tư tưởng căn bản không
thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn. Theo luận điểm trên, “lực lượng thực tiễn” là toàn
bộ giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột đang
hành động với những hình thức khác nhau trong cuộc đấu tranh với giai cấp
tư sản và các giai cấp bóc lột khác; còn những con người sử dụng “lực lượng

thực tiễn” là những người định hướng, dẫn dắt hành động cho giai cấp vô sản
và quần chúng, đó là những đại biểu ưu tú nhất, lãnh tụ của phong trào công
nhân đã được giác ngộ lý luận của CNXH khoa học và là những người cộng
sản đầu tiên của giai cấp vô sản. Mác và Ăngghen đã nhận thức rõ vai trò của
cán bộ và tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, (1848) C.Mác, Ph.Ăngghen đã
nêu lên hai đặc điểm cơ bản của người cộng sản, đó là lòng trung thành với sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và sự hiểu biết về lý luận. Các ông đã chỉ
rõ: giáo dục, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ
hàng đầu của mỗi Đảng Cộng sản, đồng thời coi đây là điều kiện dẫn đến mọi thắng
lợi của các phong trào cách mạng. Nhờ được đào tạo, bồi dưỡng về LL cách mạng
mà giai cấp vô sản tất yếu sẽ đảm nhận vai trò lãnh đạo nhờ sự hơn hẳn về lý luận
và kinh nghiệm thực tiễn của mình.

Kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề cán
bộ, V.I.Lênin cho rằng: Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và

14


lãnh đạo phong trào. Theo V.I.Lênin, mỗi giai cấp muốn giành được quyền
thống trị thì trong hàng ngũ của mình phải có những nhà lãnh đạo có khả năng
dẫn dắt phong trào và khi đã có đường lối đúng thì cán bộ là khâu quyết định
để biến đường lối đó thành hiện thực cách mạng. Khi đã giành được chính
quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH, V.I.Lênin khẳng định: Nghiên
cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh, hiện nay đó là then chốt; nếu
không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn.
Theo người: Nhiệm vụ chính của cách mạng lúc này không chỉ là ra nghị

quyết, mà cần phải có những người tổ chức thực hiện nghị quyết, những
cán bộ cách mạng. Như vậy, theo V.I.Lênin, vị trí, vai trò của cán bộ gắn
chặt với vai trò lãnh đạo của Đảng. Đường lối chủ trương của Đảng có trở
thành hiện thực cách mạng hay không, vai trò lãnh đạo và sức mạnh của
Đảng có được tăng cường hay không, Đảng có tồn tại, phát triển được hay
không chính là ở đội ngũ cán bộ. Để có cán bộ tốt cần phải chú trọng công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó trang bị cho cán bộ lý luận cách
mạng là một nội dung quan trọng.
Khi nói về tầm quan trọng của lý luận, V.I.Lênin đã chỉ rõ: Không có
lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng; chỉ đảng nào có được
lý luận tiên phong hướng dẫn, thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ
tiên phong. Người khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tố chức và lãnh
đạo phong trào” [71, tr.143].

Là nhà hoạt động chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của
người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Với cách biểu đạt “gốc” và “ngọn” để
chỉ rõ vị trí và vai trò của vấn đề, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là cái gốc của
mọi công việc; rằng, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém. Người cán bộ, trong quá trình hoạt động, ít nhiều đều phải trải qua quá

15


trình đào tạo, bồi dưỡng với nhiều hình thức khác nhau, mà Hồ Chí Minh nhấn
mạnh rằng, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng sớm khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng của lý luận đối với Đảng, tầm
quan trọng của lý luận khoa học đối với thực tiễn phong trào cách mạng, Người
nhấn mạnh: Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu

không có bàn chỉ nam; “Đối với công việc kháng chiến và kiến quốc, lý luận là
rất quan trọng. Không hiểu lý luận thì như người mù đi đêm” [76, tr.276]. Có chủ
nghĩa Mác - Lênin soi đường thì quần chúng nhân dân hành động mới đúng đắn, mới
phát triển tài năng và lực lượng vô tận của họ.

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn mà không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông. Người chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công việc thực tế” [ 74, tr.273]. Theo Người, giáo dục LLCT
góp phần nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn, học tập lý luận không
phải là để thuộc làu sách Mác - Lênin, không phải học một cách giáo điều mà
là học cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, đối với mọi người và đối với bản
thân mình. Hồ Chí Minh cho rằng đào tạo, bồi dưỡng LLCT là góp phần nâng
cao đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân; làm cho chủ
nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần
xã hội, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân xây dựng thế giới quan và phương
pháp luận đúng đắn. Tháng 05 năm 1966, tại lớp huấn luyện đảng viên mới do
Thành uỷ Hà Nội tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có lý luận về
chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thế có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy,
các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lênin, học tập đường lối, chính
sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ” [77, tr.113].
Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên phải tích cực học tập. Phải thực hiện lời dạy của Lênin là
học, học nữa, học mãi. Học phải đi đôi với hành. Học để hành ngày càng tốt hơn; phải
coi việc học tập lý luận chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình” [77, tr.113].

16


Đồng thời, Người cũng chỉ rõ là phải chống thói xem nhẹ học tập LLCT, vì “không

học tập lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc
đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí “hủ hoá xa
rời cách mạng” [76, tr.280]. Cùng với việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin ,
các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán
bộ, đảng viên phải học kinh nghiệm của nhân dân, phải tổng kết phong trào của
quần chúng để phát triển thành lý luận. Được đào tạo, bồi dưỡng LLCT, mỗi

người mới có trình độ giác ngộ cách mạng, nhận thức được quyền lợi và trách
nhiệm của mình. Người giải thích: “có nắm vững đường lối cách mạng mới thấy
rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo
phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện
nay” [77, tr.115].

1.1.3. Tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ cấp cơ sở
Cán bộ là “gốc” của mọi công việc, công tác cán bộ là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng, là mặt trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng ta, là
nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng. Muốn có cán bộ tốt, đủ phẩm chất
và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, phải chú trọng làm tốt công tác cán bộ
ở tất cả các khâu, các bước: phát hiện, tuyển chọn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo,

bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ... Đào tạo, bồi dưỡng là khâu quan
trọng trong công tác cán bộ. Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện,
trong đó đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng LLCT. Công tác đào tạo, bồi dưỡng

LLCT cho đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng,
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến
cơ sở, nhất là chính quyền cấp cơ sở có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và
năng lực, phong cách làm việc hiệu quả đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng.

Trong hệ thống chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay thì cấp cơ
sở có một vị trí rất quan trọng, là cầu nối trực tiếp của hệ thống chính quyền

17


nhà nước với nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở.
CBCCS là những người gần dân nhất, sát dân nhất, mọi chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có đến được với nhân dân
hay không; đến đúng, đến đủ, công khai minh bạch hay không, được nhân dân
tiếp thu đúng đắn hay không đều thông qua đội ngũ CBCCS. Đội ngũ CBCCS
góp phần quyết định sự thành bại của chủ trương, đường lối và nhiệm vụ
chính trị của Đảng và Nhà nước. Không có đội ngũ CBCCS vững mạnh thì dù
đường lối, chủ trương chính trị có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực.
CBCCS vừa là người trực tiếp đem các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành, vừa là người
phản ánh nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà nước để
có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn. CBCCS
có vai trò quan trọng trong quản lý và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở.
Nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ theo pháp luật và bảo toàn tính thống nhất
của thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở thông qua việc giải quyết các công việc
hàng ngày có tính chất quản lý, tự quản mọi mặt ở địa phương. Họ còn có vai trò
trực tiếp bảo đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ,
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua hoạt động
của đội ngũ CBCCS, nhân dân thể hiện được quyền làm chủ và trực tiếp thực
hiện quyền tự quản của mình. Đội ngũ CBCCS có vai trò hết sức quan trọng
trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi
hành nhiệm vụ, công vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp cơ sở
nói riêng và hệ thống chính trị ở cơ sở nói chung, xét đến cùng được quyết định
bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ CBCCS.

Để đội ngũ CBCCS có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao, cần chú trọng làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, nhất là đào tạo, bồi dưỡng LLCT. Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng
LLCT cho đội ngũ CBCCS sẽ giúp họ có sự hiểu biết sâu sắc hơn, đầy đủ
hơn, toàn diện hơn những tri thức lý luận chính trị, từ đó trang bị cho mình

18


vốn tri thức khoa học lý luận. Thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT
mà củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp và tinh thần yêu
nước, kiên định lập trường, nâng cao ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức cách
mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân cho CBCCS; từ đó thúc đẩy họ tự giác,
tự nguyện, hăng hái hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Đặc
biệt, đào tạo, bồi dưỡng LLCT sẽ cung cấp cho CBCCS thế giới quan và
phương pháp luận khoa học và cách mạng, giúp họ nâng cao năng lực tổ
chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng, năng lực tổ
chức hoạt động thực tiễn, từ đó vận dụng vào thực tiễn cuộc sống và công
việc, để hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ CBCCS đã và đang là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng, mang tính cấp bách, góp phần xây dựng đội ngũ
CBCCS có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, lối sống trong
sạch, có trình độ trí tuệ, kiến thức và năng lực để tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ được giao. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp vững vàng về phẩm chất
chính trị, tinh thông nghiệp vụ là vấn đề được Đảng đặc biệt quan tâm. Trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Đảng nhấn mạnh: “Cán bộ phải là người
có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết
lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao” [46, tr. 136]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

của Đảng nhấn mạnh cần phải “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới” [50, tr.252].
1.1.4. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ cấp cơ sở ở thành phố Hà Nội trước năm 2008
Công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS của thành phố Hà Nội
trước năm 2008 do Đảng bộ thành phố Hà Nội và Đảng bộ tỉnh Hà Tây trước
đây lãnh đạo. Đảng bộ tỉnh Hà Tây và Đảng bộ thành phố Hà Nội đều nhận
thức rõ tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ, nhất

19


là CBCCS đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, chú trọng quan
tâm lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
LLCT cho cán bộ, công chức, viên chức. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp
của Tỉnh ủy Hà Tây và Thành ủy Hà Nội, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT
cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung, CBCCS nói riêng đã được
quan tâm và đạt được kết quả có ý nghĩa quan trọng.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS của trung
tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện
Nhằm thống nhất về tổ chức các đơn vị làm công tác bồi dưỡng, đào
tạo chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu cấp bách về nâng cao nhận thức chính
trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong tình hình mới, ngày 03 tháng
06 năm 1995, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) đã ban hành Quyết
định số 100 - QĐ/TW, Về tổ chức trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp
huyện. Thực hiện Quyết định của Trung ương, Tỉnh ủy Hà Tây và Thành
ủy Hà Nội đã có hướng dẫn cụ thể, triển khai thực hiện một cách nghiêm
túc, kịp thời. Ngày 05 tháng 10 năm 1995, UBND thành phố Hà Nội ban
hành Quyết định 3954/QĐ - UB, Về đổi tên Trường Đảng thành Trung
Tâm bồi dưỡng chính trị và chuyển giao về UBND quận, huyện quản lý.

Ngày 14 tháng 02 năm 1996 UBND thành phố ra Quyết định số 720/QĐ UB, Về việc thành lập trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện; Tỉnh ủy
Hà Tây ban hành Kế hoạch số 17 - KH/TU, Chuyển các trường bồi dưỡng
cán bộ cấp huyện thành trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thị xã. Thực
hiện quyết định của Trung ương và chỉ đạo của Thành ủy, UBND thành
phố Hà Nội và Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Tây, các Trung tâm bồi dưỡng
chính trị quận, huyện, thị xã lần lượt được thành lập và nhanh chóng đi
vào hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ quy định.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các quận ủy, huyện ủy, công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS nói

20


riêng đã đạt nhiều kết quả quan trọng, bước đầu đáp ứng được yêu cầu học
tập nâng cao trình độ LLCT, chuyên môn nghiệp vụ cho các đối tượng là cán
bộ, công chức cấp cơ sở ở các địa phương. Trung tâm bồi dưỡng chính trị
các quận, huyện đã chú trọng và tập trung mở các lớp bồi dưỡng cấp ủy, bồi
dưỡng nghiệp vụ công tác đảng, công tác văn phòng cấp ủy cơ sở; các lớp
bồi dưỡng cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở, lớp
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh đảm bảo theo đúng yêu cầu của
thành phố và của các quận, huyện; đã xây dựng được đội ngũ giảng viên
chuyên trách và giảng viên kiêm chức có phẩm chất, năng lực tham gia vào
việc giảng dạy. Phương thức giảng dạy ngày một đổi mới, chất lượng dạy và
học từng bước được nâng cao. Qua đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng
viên đã thuấn nhuần quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng một cách cơ bản, sâu sắc, đầy đủ và
tương đối có hệ thống. Trình độ tư duy lí luận, bản lĩnh chính trị và phẩm
chất đạo đức cách mạng, kỹ năng lãnh đạo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn
được nâng cao. Cùng với nhiệm vụ trọng tâm là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
CBCCS, trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện đã phối hợp với

trường chính trị tỉnh, Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Đại học Quốc
gia, Cao đẳng Văn thư - Lưu trữ (nay là Đại học Nội vụ), Học viện Tài
chính; Học viện Hành chính quốc gia… tổ chức và quản lý các lớp trung cấp
chính trị - hành chính, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch
chuyên viên, các lớp đại học theo hình thức vừa học vừa làm cho cán bộ,
lãnh đạo, nguồn lãnh đạo ở các phòng, ban, ngành của các quận, huyện và cán
bộ chủ chốt ở cơ sở. Những lớp này đã đáp ứng được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
cho số lượng đông đảo CBCCS ở các quận, huyện, mang lại hiệu quả thiết thực,
góp phần nâng cao trình độ LLCT, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ công
chức, nhất là CBCCS của các quận, huyện. Đây chính là tiền đề, là cơ sở quan

21


trọng để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển KT - XH ở các quận, huyện
và thành phố, góp phần đáng kể vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS của Trường
Chính trị tỉnh Hà Tây và Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong: Các nhà
trường đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi
dưỡng LLCT cho CBCCS, trong đó chú trọng làm tốt việc xây dựng kế
hoạch, chương trình, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; xây
dựng và kiện toàn đội ngũ giáo viên, báo cáo viên đảm bảo đủ phẩm chất và
năng lực; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS… Công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT
của các nhà trường đã đạt được những kết quả có ý nghĩa quan trọng: Theo
thống kê trong thời gian 5 năm (từ năm 2004 đến năm 2008), Trường chính
trị tỉnh Hà Tây đã mở được 18 loại hình lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, với
391 lớp, 38.482 học viên; Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong có tới 24
loại hình lớp các loại với 396 lớp, 35.334 học viên [92, tr.230 - 231]. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức các cấp; trang bị cho đội ngũ cán bộ thế giới quan, phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiến thức, kỹ năng giải quyết các tình huống
trong công việc, đặc biệt là giúp nâng cao trình độ LLCT, có nhận thức
chính trị sâu sắc, có được những định hướng tư tưởng đúng đắn, kịp thời đấu
tranh chống lại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch
trên mặt trận tư tưởng, lý luận; góp phần quan trọng vào sự thống nhất về tư
tưởng và hành động, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng
bộ thành phố Hà Nội, trong phần kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội lần thứ XIII và nhìn lại 20 năm đổi mới (1986 - 2006), khi đánh giá về

22


kết quả trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo của thành phố đã chỉ rõ: “Đã xây
dựng và triển khai chính sách thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng tài năng
trẻ và nguồn nhân lực chất lượng cao” [91, tr.37]. Đây là kết của của công
tác giáo dục - đào tạo nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp
của thành phố Hà Nội nói riêng. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT,
Chương trình số 01 - CTr/TU, ngày 18 tháng 8 năm 2011 của Thành ủy Hà
Nội, Về Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng và
chất lượng đội ngũ đảng viên; năng lực quản lý, điều hành của bộ máy
chính quyền; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, cá đoàn thể nhân
dân các cấp giai đoạn 2011 - 2015, trong phần đánh giá tình hình công tác
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị giai đoạn 2005 - 2010 chỉ rõ “Công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng có đổi mới” [94, tr.5]. Đảng bộ thành phố Hà Nội
đã có nhiều đổi mới cả về nội dung, hình thức và phương pháp đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng LLCT, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các

cấp của thành phố, trong đó có CBCCS, “Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp của thành phố nhìn chung đủ tiêu chuẩn theo quy định, nhiều đồng chí có
trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực tiễn” [94, tr.6].
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT
cho CBCCS ở thành phố Hà Nội trước năm 2008 còn tồn tại những hạn chế,
bất cập như: Chưa có hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức toàn diện, phù hợp với tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức. Còn thiếu
những nội dung bồi dưỡng về kỹ năng nghiệp vụ, xử lý tình huống thực tiễn
cho cán bộ, công chức; phương pháp và hình thức đào tạo, bồi dưỡng chưa theo
kịp quá trình đổi mới, hiệu quả thấp. Một số giảng viên, báo cáo viên còn hạn
chế về phương pháp, kỹ năng chuyên môn, kiến thức thực tiễn và những tri
thức tổng hợp nên ảnh hưởng đến chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng
LLCT, từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác tư tưởng, lý
luận cũng như năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở. Đánh

23


giá về vấn đề này, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ
thành phố Hà Nội nhấn mạnh: “Công tác tư tưởng, lý luận chưa đủ sức lý giải,
chưa kịp thời giải quyết một số vấn đề thực tiễn đặt ra” [91, tr.48]. Không ít nơi
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên chưa ngang
tầm nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo còn mờ nhạt, chất lượng sinh hoạt, tự phê bình
và phê bình yếu, kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm, chưa thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung, dân chủ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện mơ hồ, mất
cảnh giác, chưa tiên phong, gương mẫu, thiếu tu dưỡng, rèn luyện; trong đó
một số cán bộ, đảng viên suy thoái phẩm chất đạo đức, tham nhũng, tiêu cực.
Vai trò lãnh đạo của một số cấp ủy cơ sở còn yếu. Năng lực điều hành, quản lý
của bộ máy chính quyền trên một số lĩnh vực như quản lý đất đai, xây dựng cơ
bản ở một số địa phương, đơn vị còn bị buông lỏng, đùn đẩy hoặc né tránh.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở một số nơi còn có
biểu hiện hành chính hóa, công tác thu hút tập hợp quần chúng ở một số tổ
chức còn yếu. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trong
tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, vi phạm phẩm chất đạo đức.
Nguyên nhân của khuyết điểm
Nội dung chương trình, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
LLCT cho CBCCS còn chậm đổi mới; cơ sở vật chất, kỹ thuật còn nghèo
nàn, thiếu thốn, nhất là ở các trung tâm bồi dưỡng chính trị. Nhận thức về vị
trí, vai trò, tầm quan trọng của LLCT và công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT
cho cán bộ, đảng viên nhất là CBCCS ở một số cấp ủy, chính quyền địa
phương, còn giản đơn, trì trệ trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, chưa thấy rõ
đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ, đảng viên, cho cán bộ cấp cơ sở là một
khâu quan trọng trong công tác cán bộ, là trách nhiệm của bản thân bí thư
cấp ủy, của ban thường vụ... Cơ chế đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực nói chung, đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho CBCCS của thành phố nói
riêng còn thiếu, chưa đồng bộ, hiệu quả thấp. Đạo đức nghề nghiệp, năng lực

24


trình độ chuyên môn của một bộ phận giảng viên còn yếu, chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy trong giai đoạn mới.
1.1.5. Chủ trương của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ cấp cơ sở giai đoạn (2008 - 2015)
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhận thức rõ vai trò
của lý luận cách mạng đối với phong trào cách mạng, thường xuyên quan tâm
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT nhằm nâng cao trình độ LLCT cho đội
ngũ cán bộ, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa “hồng”, vừa
“chuyên”. Những năm gần đây, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế, đặt ra yêu cầu cao đối với việc nâng cao phẩm chất,

năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Để nâng cao phẩm chất,
năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp, Đảng đặc biệt chú
trọng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện về tư tưởng, chính
trị, chuyên môn, nghiệp vụ, và thể chất… Trong đó, đào tạo, bồi dưỡng LLCT
là một trong những nội dung trọng tâm, ưu tiên hàng đầu của Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã đề ra chủ
trương: Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu đánh giá, quy hoạch,
ĐTBD, luân chuyển, bố trí sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ. Đồng
thời, “kiện toàn, tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các trường chính trị
tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và các trường dân tộc nội trú để
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở cơ sở” [46, tr.300].

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) ra Nghị
quyết số 16 - NQ/TW, ngày 01 tháng 8 năm 2007, Về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới, đã nhấn mạnh chủ trương: “Đổi mới và
nâng cao chất lượng giáo dục lý luận trong hệ thống các trường chính trị, các
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trong cả nước; khắc phục sự lạc
hậu của chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, bảo đảm tính cơ bản, hệ
thống, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam” [47, tr.8]. Đây là một chủ trương

25


×