Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Văn hóa Việt trong thơ Nguyễn Khuyến (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐOÀN THỊ TUYẾT

VĂN HÓA VIỆT TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐOÀN THỊ TUYẾT

VĂN HÓA VIỆT TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Thị Phương Thái

Thái Nguyên – 2017


i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Đoàn Thị Tuyết


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa
học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp
đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS Phạm Thị Phương Thái đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Đoàn Thị Tuyết


iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu............................................................................ 9
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 10
6. Đóng góp mới của đề tài .................................................................................... 11
7. Bố cục ................................................................................................................. 11
NỘI DUNG ............................................................................................................ 12
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA VIỆT VÀ NHÀ THƠ NGUYỄN
KHUYẾN ............................................................................................................... 12
1.1. Văn hóa và văn hóa Việt ................................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm văn hóa........................................................................................ 12
1.1.2. Văn hóa Việt và đặc điểm văn hóa Việt ....................................................... 13
1.2. Không gian văn hoá xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ........ 16
1.3. Nguyễn Khuyến - Nhà thơ vùng đồng bằng Bắc Bộ ...................................... 17
Tiểu kết Chương 1 .................................................................................................. 21
Chương 2: DẤU ẤN VĂN HÓA VIỆT QUA BỨC TRANH THIÊN NHIÊN
VÀ BỨC TRANH XÃ HỘI ................................................................................... 23
2.1. Dấu ấn văn hóa Việt qua bức tranh thiên nhiên .............................................. 23
2.1.1. Phong cảnh thiên nhiên làng quê Việt ......................................................... 23
2.1.2. Danh lam thắng cảnh Việt............................................................................ 32
2.1.3. Cảnh sắc bốn mùa vùng đồng bằng Bắc Bộ ................................................ 38
2.2. Dấu ấn văn hóa Việt qua bức tranh đời sống xã hội ....................................... 45
2.2.1. Thú vui đời thường ....................................................................................... 45



iv

2.2.2. Sinh hoạt văn hóa làng xã ............................................................................ 49
2.2.3. Sinh hoạt lao động, sản xuất ........................................................................ 52
2.2.4. Các phong tục, tập quán .............................................................................. 56
2.2.5. Tín ngưỡng, lễ hội ........................................................................................ 61
Tiểu kết Chương 2 .................................................................................................. 65
Chương 3: DẤU ẤN VĂN HÓA VIỆT QUA LỐI ỨNG XỬ VÀ TÍNH CÁCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG NGƯỜI VIỆT ..................................................... 67
3.1. Dấu ấn văn hóa Việt qua lối ứng xử ............................................................... 67
3.1.1. Ứng xử với bản thân ..................................................................................... 67
3.1.2. Ứng xử với gia đình...................................................................................... 72
3.1.3. Ứng xử với xã hội ......................................................................................... 77
3.2. Tính cách văn hóa truyền thống người Việt.................................................... 81
3.2.1. Tính cộng đồng ............................................................................................. 81
3.2.2. Tính hướng nội ............................................................................................. 85
3.2.3. Tính trọng danh ............................................................................................ 89
3.2.4. Tính duy tình................................................................................................. 93
3.3. Những cảm nhận và thái độ của nhà thơ trước những biến đổi của văn hóa
Việt ......................................................................................................................... 96
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................ 100
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 105
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 113


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1. Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do lao động của con
người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định, tích lũy, tạo ra bản sắc riêng của
từng tộc người, từng xã hội. Nó được coi là thẻ căn cước của mỗi dân tộc. Với vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên và sự lựa chọn một cách tự nhiên, phương thức mưu
sinh Việt Nam có những nét văn hóa đặc trưng của nền văn minh lúa nước, mà
sự tích tụ đậm nhất phải kể đến vùng đồng bằng Bắc Bộ - cái nôi hình thành văn
hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu
được nhiều giá trị truyền thống hơn cả.
Nếu văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế
giới thì văn học là một trong những hoạt động lưu giữ những thành quả đó một
cách sinh động nhất. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá
qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là bức tranh văn hoá dân gian trong
thơ Hồ Xuân Hương, là vẻ đẹp của làng quê Việt qua những vần thơ nức tiếng
của Nguyễn Khuyến, là những nét văn hoá truyền thống và cảnh sắc thiên nhiên
đất nước trong truyện ngắn, tuỳ bút Nguyễn Tuân hay tiểu thuyết của Vũ Bằng,
là những tín ngưỡng, phong tục độc đáo trong sáng tác của Tô Hoài… Vì lẽ đó,
nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu văn học để tìm hiểu bức tranh
văn hoá của một thời đại hay một giai đoạn lịch sử. Đây cũng là hướng nghiên cứu
được quan tâm trong thời gian gần đây.
2. Nguyễn Khuyến vẫn được biết đến với tư cách là “nhà thơ của làng cảnh
Việt Nam” (Xuân Diệu); nhà thơ trữ tình, trào phúng xuất sắc; nhà thơ có tài năng
và nhân cách lớn trong nền văn học nước nhà. Số lượng các công trình nghiên cứu
khá đồ sộ về Nguyễn Khuyến đều thống nhất trong việc khẳng định vị trí của ông
với tư cách là một tác gia văn học tiêu biểu nhưng có lẽ như vậy vẫn là chưa đủ để
khẳng định vị thế của ông trong nền văn học, văn hóa nước nhà.
Ông sinh ra và gắn bó một đời với Bình Lục – Yên Đổ nên nét văn hóa đặc
trưng vùng đồng quê chiêm trũng nói riêng, bản sắc văn hóa Việt nói chung đã
thấm đượm trong từng trang thơ Nguyễn Khuyến: Từ con đom đóm lập lòe ngõ



2

sâu, con trâu già phì phò bên gốc tre đến bóng trăng lóng lánh in đáy nước; từ
cách diễn đạt mộc mạc, dung dị đến cách ứng xử, nỗi trăn trở rất đỗi chân tình của
con người thôn quê… Tất cả đều toát lên vẻ đẹp văn hóa Việt một cách đậm đà,
dung dị. Mỗi sáng tác của ông đều chứa đựng trong đó những sắc màu đa diện của
văn hóa Việt từ cảnh sắc thiên nhiên, cách ứng xử đến các lề thói, phong tục, tập
quán xưa. Vì thế, tuy bấy lâu nay, thơ Nguyễn Khuyến đã được cảm thụ, soi tỏ ở
nhiều góc độ (giá trị nội dung, nghệ thuật, phong cách) nhưng những giá trị văn
hóa trong thơ ông lại chưa được tìm hiểu một cách hệ thống, khái quát và nâng
lên tầm bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, việc khai thác các biểu hiện, giá trị của
Văn hóa Việt trong thơ Nguyễn Khuyến được chúng tôi lựa chọn để tiến hành
nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện nhằm đem đến một góc nhìn mới, một
sự lý giải mới về những giá trị nhiều mặt trong sáng tác của Nguyễn Khuyến,
đồng thời luận văn cũng muốn chứng minh một cách hệ thống để khẳng định và
tôn vinh ông với tư cách một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Nguyễn Khuyến - nhà
thơ góp phần khắc họa văn hóa Việt qua sáng tác của mình.
Mặt khác, nhìn từ thực tiễn, chúng tôi còn thấy trong chương trình các
cấp, nội dung giảng dạy về Nguyễn Khuyến và tác phẩm của ông cũng chiếm
một thời lượng nhất định. Vì thế, việc tìm về và khẳng định văn hóa Việt trong
thơ Nguyễn Khuyến cũng sẽ góp phần khai thác tác phẩm văn học tưởng như cũ
ở những vỉa tầng giá trị mới từ đó đem đến một cái nhìn toàn diện hơn về tác gia
Nguyễn Khuyến cũng như sự nghiệp sáng tác của ông.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu về văn hóa Việt trong tác phẩm văn học
Văn hóa gồm nhiều thành tố cấu thành nên những công trình nghiên cứu
về văn hóa rất đồ sộ. Bên cạnh các nghiên cứu chung về văn hóa Việt Nam với
các tác giả như: Đào Duy Anh, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Huyên, Phan Ngọc,
Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh, Trần Ngọc Thêm, Đinh Gia Khánh, Nguyễn
Đăng Duy… còn có khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Việt từ các

bình diện cụ thể trong mối quan hệ với văn học và biểu hiện của nó trong các tác
phẩm văn học (đặc biệt là văn học trung đại). Có thể kể đến các tác giả với các


3

công trình chuyên khảo tiêu biểu như: Triết lí đạo Phật trong Truyện Kiều của
Cao Huy Đỉnh; cuốn Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa [8] của Lê
Nguyên Cẩn; Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2002) [81]
của Trần Nho Thìn… Trong đó, cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa (2002) [81], tác giả Trần Nho Thìn đã tiến hành giới thuyết một số vấn
đề lý luận của văn học trung đại Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa và cắt nghĩa
hình tượng nghệ thuật, thủ pháp nghệ thuật, các khía cạnh của cấu trúc nghệ
thuật của một số tác phẩm văn học trung đại từ nền tảng văn hóa. Thông qua
quyển sách này, những trăn trở của tác giả về một phương thức mới cho việc thể
hiện chân lí nghệ thuật mà cụ thể là khoa học văn học đã được chưng cất và kết
tinh thành một lí thuyết thật sự.
Ngoài ra, còn một loạt các luận văn như: Văn hóa tâm linh trong văn xuôi
trung đại [68]; Văn hóa ứng xử người Việt trong truyện thơ Nôm (2007) [20];
Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du (2010) [42]; Thế ứng xử xã
hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua một số ca dao - tục ngữ
(2010) [3]; Văn hóa tâm linh người Việt trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh (2013) [34]; … Cụ thể là:
Luận văn Văn hóa ứng xử người Việt trong truyện thơ Nôm (2007) [20]
của Triệu Thùy Dương đã nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt qua một
số truyện thơ Nôm tiêu biểu thế kỷ XVIII – XIX. Từ đó, tác giả đã tìm ra ảnh
hưởng của thế ứng xử với tư cách là quan niệm sống, lối sống, nếp sống, lối
hành động của một cộng đồng người trong thực tế đời sống đến văn học. Luận
văn đã tìm hiểu truyện thơ Nôm người Việt dưới góc nhìn từ truyền thống văn
hóa Việt. Người viết đã có ý thức tiếp thu cách làm văn hóa so sánh để chỉ ra

đâu là nét văn hóa thuần Việt và đâu là những ảnh hưởng của văn hóa ngoại sinh
đến văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng xử người Việt qua thể loại truyện thơ Nôm.
Hay luận văn Văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại của Hoàng Thị
Minh Phương (2007) [68] đã tiến hành hệ thống hoá những biểu hiện của thế
giới tâm linh để có cái nhìn hệ thống, toàn diện về những yếu tố ấy trong cách
cảm nhận về thế giới và con người ở một thời kì lịch sử. Tác giả luận văn đã đi


4

sâu tìm hiểu thế giới tâm linh- thế giới thứ hai trong “mô hình hai thế giới” trong
văn học trung đại qua 17 tác phẩm văn xuôi thời trung đại.
Qua luận văn Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc
Bộ qua một số ca dao - tục ngữ (2010) [3], tác giả Trần Thúy Anh đã làm rõ
những đặc điểm ứng xử truyền thống của người Việt trong cái nôi văn hóa châu
thổ Bắc Bộ. Tác giả đã tái hiện lại bộ mặt lịch sử, chiều sâu văn hóa, nét sinh
động, những sắc thái riêng biệt trong ứng xử của họ đồng thời chỉ ra những tiếp
biến văn hóa của thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt xưa qua tư liệu ca
dao và tục ngữ.
Trương Thị Hòa trong luận văn Văn hóa tâm linh người Việt trong tiểu
thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (2013) [34] đã đi sâu nhận
dạng, thống kê, phân loại các hiện tượng tâm linh trong tác phẩm này. Lấy điểm
tựa là văn hóa truyền thống dân tộc, bước đầu luận văn đã đi sâu tìm hiểu, phân
tích một số biểu hiện văn hóa tâm linh nổi bật và các phương thức thể hiện các
yếu tố tâm linh, qua đó thấy được ý nghĩa của chúng đối với tác phẩm, cũng như
đối với đời sống con người.
Một số luận văn được thực hiện gần đây cũng tiến hành nghiên cứu các
bình diện của tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa như: So sánh hình tượng
anh hùng Từ Hải và Lục Vân Tiên dưới góc nhìn văn hóa [58], Phong tục qua
sáng tác của Tô Hoài trước 1945 [28]... Đặc biệt, luận văn Tâm thức văn hóa

Việt trong thơ Nguyễn Huy Hoàng (qua khảo sát Một thời tôi từng có và Canh
ngọn đèn đợi sáng) [53] của Đào Thị Lê đã bước đầu khảo sát và làm sáng tỏ
những biểu hiện tâm thức văn hóa Việt trong thơ Nguyễn Huy Hoàng qua phương
diện nội dung và nghệ thuật, từ đó thấy rõ giá trị nhân bản, nhân văn thơ Nguyễn
Huy Hoàng từ góc nhìn văn hóa. Đây là các công trình khá tiêu biểu cho xu
hướng nghiên cứu liên ngành về văn học dưới góc nhìn văn hóa – một hướng
tiếp cận đã và đang được quan tâm trong thời gian gần đây. Luận văn của chúng
tôi được thực hiện như một sự kế thừa và tiếp nối xu hướng nghiên cứu này ở
một phạm vi khảo sát cụ thể và không trùng lặp – Thơ Nguyễn Khuyến nhằm tôn
vinh ông trong một vai trò mới – Nhà văn hóa lớn của dân tộc.


5

2.2. Lịch sử nghiên cứu về văn hóa Việt trong sáng tác của Nguyễn Khuyến
Thơ văn Nguyễn Khuyến được công bố muộn, đăng tải lần đầu tiên trên
Nam phong tạp chí (1917). Việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu thơ văn chữ Hán
của Nguyễn Khuyến được chính thức bắt đầu từ năm 1957, nhưng phải đến năm
1971, khi cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến được công bố, công việc này mới đạt
được những thành tựu đáng kể. Kể từ đây, việc nhìn nhận “Nguyễn Khuyến –
một nhà thơ yêu nước ” bắt đầu được đề cập đến. Cũng trong khoảng thời gian
này, bộ Hợp tuyển thơ văn yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX ra mắt và
Nguyễn Khuyến cũng có một vị trí nhất định trong bộ sách trên. Nguyễn
Khuyến là một tác gia tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Chính vì
vậy, các công trình nghiên cứu về Nguyễn Khuyến và tác phẩm của ông có số
lượng không nhỏ.
Nghiên cứu một cách hệ thống về cuộc đời và toàn bộ sự nghiệp văn thơ
Nguyễn Khuyến có thể kể đến các cuốn sách chuyên khảo mang tính tổng hợp
các bài viết nghiên cứu về Nguyễn Khuyến như: Nguyễn Khuyến về tác gia và
tác phẩm [64]; Nguyễn Khuyến thơ, lời bình và giai thoại [65]; Nguyễn Khuyến

tác phẩm và lời bình; Nguyễn Khuyến thơ [66]... Các công trình này đã tập hợp
các bài nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp và các tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ.
Ngoài ra có thể kể đến một số bài viết khác về chân dung và phong cách nghệ
thuật thơ của ông như: Các nhà thơ cổ điển Việt Nam [14] của Xuân Diệu; Thi
hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ [10] do Nguyễn Huệ Chi chủ biên; Tâm trạng
Nguyễn Khuyến qua thơ tự trào của Vũ Thanh [64]; bài viết Nguyễn Khuyến,
một phong cách thơ lớn của Nguyễn Lộc [56]; Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Khuyến [23] của Biện Văn Điền… Đặc biệt công trình “Nguyễn Khuyến về tác
gia và tác phẩm” (2003) do Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu đã tập hợp một
cách khá đầy đủ những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và
sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ xưa đến nay. Cuốn sách đem đến cho bạn đọc
một bức tranh toàn cảnh những thành tựu trong việc nghiên cứu một trong
những tác gia văn học lớn nhất cuối thế kỷ XIX. Cuốn sách ra đời với mong
muốn trở thành cơ sở cho bước tiếp theo trong việc nghiên cứu sự nghiệp của


6

nhà thơ được cả dân tộc yêu mến” [79, tr.44]. Quyển sách với 4 phần chính đã
giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà
thơ Nguyễn Khuyến cũng như phong cách nghệ thuật của thơ văn ông. Đồng
thời đây cũng là tài liệu tham khảo vô cùng quý báu cho chúng ta tham khảo về
nhà thơ Nguyễn Khuyến nói chung và đề tài Văn hóa Việt trong thơ Nguyễn
Khuyến nói riêng. Có thể nói, Nguyễn Khuyến là nhà thơ để lại dấu ấn đậm nét
trong văn học với rất nhiều tác phẩm được lưu truyền hậu thế. Vì vậy, thơ văn
ông đã được rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu ở các khía
cạnh thuộc về nội dung và nghệ thuật.
Nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Khuyến dưới góc nhìn văn hóa có
thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Nghiên cứu về cảnh sắc làng quê trong thơ Nguyễn Khuyến: Có rất nhiều

bài viết, công trình bàn về vấn đề này với các tác giả tiêu biểu như: Xuân Diệu,
Mã Giang Lân, Nguyễn Huệ Chi, Trần Nho Thìn, Lê Trí Viễn, Đặng Thị Hảo và
đặc biệt là Vũ Thanh.
Xuân Diệu trong cuốn “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam” đã gọi Nguyễn
Khuyến là: “Nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam”. Tác giả đã có sự
cảm nhận rất sâu sắc về nội dung và nghệ thuật ba bài thơ thu của Nguyễn
Khuyến: “Ba bài thơ thu hay vì Nguyễn Khuyến là một thi sĩ có tài. Nhưng cần
một điều kiện nữa: là nhà thơ có tài ấy phải gắn bó, thâm nhập, hòa tâm hồn
mình một cách sâu sắc, thấm thía với đất nước Việt Nam. Nhà thơ ấy phải sống
như Nguyễn Khuyến” [14, tr.411]. Không chỉ ca ngợi Nguyễn Khuyến là nhà
thơ của làng cảnh Việt Nam, Xuân Diệu còn cho rằng: “Hai trục xúc cảm rất rõ
trong thơ Nguyễn Khuyến, là quê hương làng nước, và đồng bào nhân dân;
không phải tâm hồn nhà thơ nào cũng có cả hai trụ cột như thế” [14, tr.411].
Trong “Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ”, bên cạnh việc đi sâu vào tìm
hiểu, tập hợp những tài liệu, những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp
văn chương của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Huệ Chi còn nhận định về nhà thơ
như sau: “Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng
như cho khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc,


7

đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời
của con người, đất nước Việt Nam” [10, tr.24]. Mã Giang Lân cũng đánh giá:
“làm nên giá trị thơ văn của Nguyễn Khuyến là toàn bộ những sáng tác của nhà
thơ, những nét làm nên cái đặc sắc riêng của Nguyễn Khuyến là những bài thơ
viết về cảnh và người ở chốn quê, những bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả,
trước đó cũng có những nhà thơ viết về làng cảnh Việt Nam nhưng chưa có ai
để lại ấn tượng sâu đậm bằng Nguyễn Khuyến” [52; tr.74]. Còn Vũ Thanh cũng
khẳng định: “Nguyễn Khuyến sống đời sống của người nông dân quê ông và ông

viết về cuộc đời họ, cảnh đời họ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần
nghìn năm của văn học dân tộc Việt Nam đời sống nghèo khó của người nông
dân với những cảnh sinh hoạt bình thường ở thôn quê trờ thành đối tượng
phản ánh của thơ ca”, và “Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ viết về nông thôn số
một của văn học dân tộc (…). Chỉ đến Nguyễn Khuyến mới làm được những
điều mà thơ ca truyền thống chưa làm được (và ngay cả trong thơ hiện đại có lẽ
cũng chưa có được một nhà thơ nông thôn nào tầm cỡ như Nguyễn Khuyến).
Một nông thôn thật sự đã hiện ra trong thơ Yên Đổ. Đó là một nông thôn từng
gắn bó máu thịt với nhà thơ ngay từ thuở lọt lòng” [79; tr.18-19]. Đặng Thị Hảo
với bài viết Đề tài thiên nhiên và quan niệm thẩm mĩ đã chỉ ra những nét đặc sắc
trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của nhà thơ Nguyễn Khuyến: bút pháp
nghệ thuật điêu luyện, khiếu quan sát tinh tường, trực giác nhạy bén trước vẻ
đẹp đa dạng của thiên nhiên, cùng tình yêu quê hương hồn nhiên mà sâu sắc…
Luận văn Nội dung và nghệ thuật đặc sắc trong thơ thiên nhiên của Nguyễn
Khuyến [55] của Đào Thị Linh cũng chỉ ra những đặc sắc trong những bài thơ
viết về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến như: cảnh vật làng quê, cảnh vật bốn
mùa, danh lam thắng cảnh và một số yếu tố nghệ thuật (thể loại, ngôn ngữ,
giọng điệu, hình ảnh) góp phần thể hiện giá trị nội dung này…
Nghiên cứu về văn hóa sinh hoạt làng xã trong thơ Nguyễn Khuyến:
Trong bài viết Từ những biến động trong nguyên tắc phản ánh thực tại của văn
chương nhà nho đến bức tranh sinh hoạt nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến,
Trần Nho Thìn đã có những nhận xét hết sức khái quát về văn hóa làng xã trong


8

thơ Tam Nguyên những ngày trở về Yên Đổ: “Các nhà nghiên cứu đã nói nhiều
tới những bài thơ trong đó Nguyễn Khuyến kể lại các hình thức sinh hoạt có tính
chất văn hóa ở nông thôn: cảnh ông cùng các bạn đồng tuế lên lão năm mươi,
cảnh chợ Đồng ngày giáp Tết Nguyên Đán, đêm giao thừa… Những bài thơ này

có sức diễn tả không khí, sắc màu, âm thanh của cuộc sống văn hóa độc đáo của
nông thôn, rõ nét tưởng như có thể hít thở được không khí ấy.” [82,tr.565]
Tiếp tục mạch nghiên cứu trên, trong luận văn Văn hóa ứng xử trong thơ
Nguyễn Khuyến (2015) [93], Thân Thị Minh Trang đã tiến hành tìm hiểu đặc
điểm văn hóa ứng xử của người Việt được thể hiện trong thơ Nguyễn Khuyến,
làm rõ vai trò của văn hóa ứng xử và ý nghĩa của nó đối với mỗi cá nhân và xã
hội. Luận văn góp phần làm rõ hơn bối cảnh văn hóa, tâm tư, tình cảm của con
người trong buổi giao thời. Bên cạnh đó, trong đề tài Giá trị văn hoá truyền
thống trong trước tác chữ Nôm của Nguyễn Khuyến [71], Hoàng Mai Quyên
cũng đã quan tâm đến đời sống tình cảm và văn hóa giao tiếp của Nguyễn
Khuyến trong mối quan hệ với những người thân như: vợ con, bạn bè, học trò…
Tuy nhiên, tác giả mới chỉ tìm hiểu một cách sơ lược về các mối quan hệ ứng xử
này chứ chưa đưa nó thành một hướng nghiên cứu chính, chi tiết và cụ thể. Bên
cạnh đó còn có bài viết Giá trị văn hoá truyền thống trong thơ Nôm của Nguyễn
Khuyến [30], Dương Thu Hằng và Hoàng Mai Quyên. Bài viết đã đề cập đến
những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa của nhân dân đồng bằng Bắc Bộ nói
chung và người dân tổng Yên Đổ quê hương tác giả nói riêng. Từ đó, hai tác giả
đi đến khẳng định mảng thơ Nôm của Nguyễn Khuyến đã lưu giữ được những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một khía
cạnh của văn hóa Việt trong một bộ phận thơ của Nguyễn Khuyến. Các giá trị
văn hóa truyền thống khác như: các biểu tượng văn hóa; tâm hồn, tính cách, lối
ứng xử nổi bật của người Việt; thể thơ, giọng điệu cùng lớp ngôn từ chứa đựng
chất văn hóa Việt… thì chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ.
Các công trình nghiên cứu trên đều là nguồn tư liệu vô cùng phong phú để
chúng ta có thể tìm hiểu về tác gia Nguyễn Khuyến một cách trọn vẹn và đầy đủ
nhất. Các tác giả không chỉ giới thiệu về vị trí của Nguyễn Khuyến trong nền


9


văn học trung đại Việt Nam mà còn đi vào tìm hiểu các khía cạnh nội dung,
nghệ thuật trong thơ văn ông. Luận văn của chúng tôi được thực hiện với mong
muốn sẽ khảo sát để chỉ ra một cách hệ thống, toàn diện các biểu hiện của văn
hóa Việt qua tư liệu thơ Nguyễn Khuyến, từ đó tiến hành giải mã các nét văn
hóa ấy từ góc nhìn liên ngành văn học – văn hóa – xã hội - lịch sử để đi đến
chứng minh, khẳng định và tôn vinh Nguyễn Khuyến với tư cách một nhà văn
hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là các phương diện của Văn hóa Việt
trong thơ Nguyễn Khuyến.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu:
Các biểu hiện của văn hóa Việt trong thơ Nguyễn Khuyến, đặc biệt là trên
phương diện nội dung như: Phong cảnh làng quê Việt, bức tranh sinh hoạt ở
làng quê Việt, phong tục tập quán, văn hóa ứng xử, tính cách văn hóa truyền
thống người Việt… Trong quá trình phân tích chúng tôi cũng làm rõ một số dấu
ấn văn hóa Việt trên các khía cạnh nghệ thuật tiêu biểu: thể thơ, giọng điệu,
ngôn ngữ, không gian văn hóa,... Từ đó, tiến hành lý giải về các biểu hiện của
văn hóa Việt trong thơ Nguyễn Khuyến và so sánh với một số tác giả khác.
- Phạm vi tư liệu:
+ Tư liệu thơ văn Nguyễn Khuyến chúng tôi sử dụng từ cuốn: Thơ văn
Nguyễn Khuyến của Nguyễn Văn Huyền, NXB KHXH, 1983.
+ Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng cuốn Hợp tuyển thơ văn thế kỷ XVIII –
XIX, tái bản 1978 của Nxb Văn học, cuốn Tổng tập văn học Việt Nam đến hết
thế kỷ XIX của Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội và một số cuốn tài liệu về lịch sử
văn học Việt Nam giai đoạn này.


10


4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra một cách hệ thống, toàn diện các biểu hiện của văn hóa Việt trong
thơ Nguyễn Khuyến, từ đó góp phần chứng minh, khẳng định và tôn vinh
Nguyễn Khuyến với tư cách là một nhà văn hóa lớn của dân tộc.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tổng hợp tài liệu; thu thập các ngữ liệu để làm rõ các biểu hiện của văn
hóa Việt trong thơ Nguyễn Khuyến;
+ Phân tích, làm rõ các giá trị về văn học đặc biệt là về văn hóa lịch sử thể
hiện qua nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến.
+ Làm nổi bật cách khai thác các giá trị văn hóa độc đáo của Nguyễn
Khuyến, từ đó chỉ rõ tài năng, phong cách thơ của thi sĩ và tôn vinh ông ở một
góc nhìn mới với tư cách một nhà văn hóa lớn của dân tộc.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa
Đây là hướng nghiên cứu chủ đạo được chúng tôi sử dụng xuyên suốt toàn
bộ luận văn để khai thác một cách hệ thống, toàn diện các biểu hiện của nét văn
hóa Việt trong thơ Nguyễn Khuyến cả trên bình diện nội dung và nghệ thuật thể
hiện.
5.2. Phân tích, tổng hợp
Từ các ngữ liệu khảo sát được, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá và
giải mã các ngữ liệu về văn hóa Việt được biểu hiện trong thơ Nguyễn Khuyến
dưới góc nhìn văn hóa, lịch sử để đưa ra các kết luận khoa học liên quan đến vấn
đề nghiên cứu.
5.3. So sánh, đối chiếu
Chúng tôi còn so sánh biểu hiện của văn hóa Việt trong thơ Nguyễn
Khuyến với một số tác giả khác như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bình Khiêm, Tú
Xương…



11

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp, thủ pháp khác như:
khảo sát, thống kê, miêu tả… để tiến hành làm rõ các biểu hiện của văn hóa Việt
trong thơ ông.
6. Đóng góp mới của đề tài
Trên cơ sở tiến hành khảo sát, thống kê một cách hệ thống, toàn diện các
dạng biểu hiện của văn hóa Việt xét về mặt nội dung và nghệ thuật thể hiện các
nét văn hóa ấy trong thơ Nguyễn Khuyến, luận văn tiến hành giải mã các đặc
điểm trên dưới góc nhìn liên ngành để đi đến khẳng định giá trị về các tác phẩm
của Nguyễn Khuyến trên phương diện văn học - văn hóa và tôn vinh tài năng
nhiều mặt của ông (đặc biệt là trên phương diện văn hóa) trong dòng chảy văn
học Việt Nam cũng như trong lịch sử văn hóa dân tộc.
7. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về văn hóa Việt và nhà thơ Nguyễn Khuyến
Chương 2: Dấu ấn văn hóa Việt qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh xã hội
Chương 3: Dấu ấn văn hóa Việt qua lối ứng xử và tính cách văn hóa
truyền thống người Việt


12

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA VIỆT VÀ NHÀ THƠ NGUYỄN KHUYẾN
1.1. Văn hóa và văn hóa Việt
1.1.1. Khái niệm văn hóa

Văn hoá là một vấn đề rất rộng, khó có định nghĩa nào bao quát đầy đủ nội
hàm của nó. Văn hoá bao hàm hết thảy các sinh hoạt của loài người, từ sinh hoạt
vật chất đến sinh hoạt tinh thần, sinh hoạt xã hội. Mọi hoạt động của con người và
sản phẩm - kết quả của những hoạt động ấy do con người có ý thức tác động vào
tự nhiên và xã hội mà có đều thuộc về văn hoá. Quá trình phát triển của loài người
gắn liền với các hoạt động cải biến hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Con
người sáng tạo ra văn hoá và văn hoá lại tái tạo bản thân con người.
Trên thế giới có khoảng hơn 300 định nghĩa về khái niệm này. Người sử
dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77 – 76 trước Công nguyên)
thời Tây Hán, với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người – văn trị giáo
hóa. Theo chiết tự của chữ Hán: Văn: đẹp; hóa: trở nên, biến cải, văn hóa là làm
cho cái gì đó trở nên đẹp đẽ và có giá trị. Ở phương Tây, thuật ngữ “văn hóa”
trong tiếng Anh là “Culture”, trong tiếng Đức là “Kultur”, tiếng Pháp là “Cultura”
và đều bắt nguồn từ chữ Latin “cultus” với nghĩa là “gieo trồng’’, “trồng trọt”.
Với nghĩa ban đầu thuật ngữ “Văn hóa”, được cả người phương Tây và phương
Đông quan niệm là sự giáo dục con người, là cái đối lập với tự nhiên.
Ở nước ta, từ đầu thế kỉ XX, Đào Duy Anh đã phát hiện văn hóa phải gắn
liền với sinh hoạt của con người nảy sinh trong quá trình lao động và trong từng
hoàn cảnh địa lí nhất định: Theo ông, nghiên cứu “Các điều kiện địa lí có ảnh
hưởng lớn đối với cách sinh hoạt của con người, song người là giống hoạt động
cho nên trở lại cũng có thể dùng sức mình mà xử trí và biến những điều kiện ấy
cho thích hợp với những điều kiện cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà
cũng biến chuyển và khiến văn hóa cũng biến chuyển theo. Nghiên cứu xem sự
hoạt động để sinh hoạt về các phương diện của một dân tộc xưa nay biến chuyển


13

thế nào, là nghiên cứu văn hóa lịch sử của dân tộc ấy”.[1, tr.3]. Theo Trần Quốc
Vượng: “Văn hóa theo nghĩa rộng là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người,

bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế… để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng
xử, một thái độ, tổng quát của con người về vũ trụ, với một hệ thống những
chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong
cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người [104, tr.25]. Còn Trần Ngọc
Thêm lại quan niệm: “Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị (vật chất và tinh
thần, tĩnh và động, vật thể và phi vật thể…) do con người sáng tạo ra và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong tương tác với môi trường tự nhiên và xã
hội của mình”. [80, tr.10]
Qua các quan niệm trên, chúng tôi đồng tình với các ý kiến hiểu về văn
hóa ở nghĩa rộng nhất của từ này đó là: Văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay
của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa là động lực phát triển khiến cho
cộng đồng mang bản sắc độc đáo riêng.
1.1.2. Văn hóa Việt và đặc điểm văn hóa Việt
Theo tác giả Lê Văn Toan [90], do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và
lịch sử hình thành quốc gia dân tộc, văn hóa Việt Nam sớm có xu thế giao lưu,
hội nhập, tiếp biến, nhờ thế Việt Nam có nền văn hóa đa ngôn ngữ, giàu bản sắc.
Nền văn minh Đại Việt được xếp là một trong 34 nền văn minh đầu tiên của
nhân loại. Nhiều học giả thống nhất rằng, bản sắc văn hóa Việt Nam được tạo ra
ở vùng lúa nước sông Hồng cách đây hơn 4 nghìn năm, được tôi luyện và khẳng
định trong 2000 năm chống và đối thoại với Trung Quốc đã đủ tầm cỡ để tiếp
biến văn hóa thành công. Trong suốt chiều dài lịch sử hơn 400 năm tiếp biến văn
hóa Việt Nam với phương Tây dưới nhiều hình thức, vừa có cưỡng bức, vừa có
đối thoại văn hóa, có thời điểm vừa chống lại, vừa tiếp thu, nhưng văn hóa Việt
Nam vẫn vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa hiện đại hóa.
Cũng theo tác giả Lê Văn Toan, văn hóa Việt Nam có những nét mang
tính đặc trưng phổ biển của văn hóa nói chung và có những đặc trưng riêng biệt,
đặc thù. Những đặc trưng cơ bản riêng biệt này được hình thành, đúc kết, bảo



14

lưu, phát triển từ điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, chính trị - kinh tế - xã hội của
Việt Nam. Các học giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học, Văn hóa
học, Văn hóa Việt Nam tổng hợp và đưa ra 5 đặc trưng của văn hóa Việt Nam
như sau:
Tính cộng đồng làng xã, thể hiện rõ ở 6 phẩm chất: Tính đoàn kết, giúp
đỡ; Tính tập thể thương người; Tính dân chủ, làng xã; Tính trọng thể diện; Tình
yêu quê hương, làng xóm; Lòng biết ơn. Bên cạnh những phẩm chất tốt, tính
cộng đồng làng xã cũng để lại nhiều tật xấu trong văn hóa: Thói dựa dẫm; Thói
cào bằng, chụp mũ; Bệnh sĩ diện, háo danh; Bệnh thành tích; Bệnh phong trào;
Bệnh hình thức, ...
Tính trọng âm. Bảy phẩm chất tốt được biểu hiện trong tính trọng âm là:
Tính ưa ổn định; Tính hiền hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; Thiên hướng
thơ ca; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách. Bên cạnh đó, tính trọng âm
cũng là mảnh đất hình thành những bệnh xấu như: Bệnh thụ động, khép kín;
Bệnh lề mề, chậm chạp; Bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn; Bệnh sùng ngoại, ...
Tính ưa hài hòa, thể hiện ở bốn phẩm chất: Tính mực thước; Tính ung
dung; Tính vui vẻ, lạc quan; Tính thực tế. Tuy nhiên, tính ưa hài hòa cũng gây
mặt hạn chế, như: Bệnh đại khái, xuề xòa; Bệnh dĩ hòa vi quý; Bệnh trung bình
chủ nghĩa; Bệnh nước đôi, thiếu quyết đoán,...
Tính kết hợp, thể hiện ở hai khả năng: Khả năng bao quát tốt; Khả năng
quan hệ tốt. Mặt trái của tính kết hợp này cũng tạo ra những hậu quả xấu như:
Thói hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh sống bằng quan hệ,…
Tính linh hoạt. Biểu hiện của tính linh hoạt được thể hiện ở 2 phẩm chất
tốt: Khả năng thích nghi cao; Tính sáng tạo. Tính linh hoạt nhiều khi cũng dẫn
đến hậu quả xấu như: Thói tùy tiện, cẩu thả; Bệnh thiếu ý thức pháp luật,…
Tổng hợp 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ta thấy phẩm chất,
giá trị cốt lõi tốt nhất chính là lòng yêu nước; tinh thần dân tộc; lòng nhân ái,
thương người; tính cộng đồng làng xã; tính tinh tế.



15

Còn Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”
[80] đã rút ra 5 đặc trưng lớn khi bàn về tính cách văn hóa truyền thống người
Việt trong đó cũng có một số đặc trưng giống như trên. Cụ thể như sau:
Tính cộng đồng: Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, trong truyền
thống là kiểu nông nghiệp thuần túy. Tính thời vụ và nhu cầu chống thiên tai,
bảo vệ an ninh trật tự xã hội đã quy định kiểu liên kết làng xã cộng đồng trong
lối sống.
Tính ưa hài hòa: người Việt Nam nông nghiệp từ xa xưa mang trong
mình tư duy lưỡng phân - lưỡng hợp. Họ nhận thức được quy luật cân bằng của
cuộc sống bằng lối sống quân bình. Do vậy, người Việt trong cuộc sống luôn cố
gắng duy trì sự cân bằng, quân bình, tránh thái quá.
Thiên về âm tính: vì điều kiện tự nhiên xứ nóng quy định lối sống
nông nghiệp âm tính, do vậy mà tính cách văn hóa Việt Nam cũng thiên về âm
tính ở chừng mực nhất định. Hệ quả của nó là tính thân thiện, tinh thần dành ưu
tiên cho nữ giới. Mặt trái của nó là thói quen chậm chạp, ít nhạy bén, nặng tình
nhẹ lý…
Tính tổng hợp: đời sống nông nghiệp thuần túy đòi hỏi người Việt
Nam phải cố gắng bao quát hết mọi diễn biến của thời tiết, thiên nhiên để có
được vụ mùa bội thu nhất. Lịch sử văn minh trồng trọt ấy của người Việt Nam
đã giúp tạo hình tính tổng hợp trong tính cách văn hóa. Hệ quả của nó là người
Việt Nam có khả năng bao quát vấn đề cao, song mặt trái của nó là tư duy phân
tích (tư duy khoa học – thứ cần thiết cho phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật)
lại yếu kém. Đời sống nông nghiệp theo cơ chế làng xã khép kín khiến người
Việt Nam phải có đầu óc linh hoạt trong ứng xử để tồn tại. Tính linh hoạt thể
hiện rõ nét trong tư duy, trong lối sống, trong cung cách ứng xử với cả tự nhiên
và xã hội.

Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù bất biến, mà luôn
vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên và sự phát triển
của xã hội loài người. Vì thế, trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học đã
và đang tập trung nghiên cứu, đề xuất nhiều hướng đi, nhiều giải pháp phát triển


16

văn hóa, con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai với mong muốn 5 đặc
trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam sẽ được bảo tồn và dịch chuyển theo hướng
ngày càng hoàn thiện hơn. [91]
1.2. Không gian văn hoá xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Văn học Việt Nam chặng cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế
kỷ XX được coi là giai đoạn văn học có tính chất chuyển tiếp, giao thời.
Mặc dù chỉ diễn ra trong nửa thế kỷ, khoảng thời gian ngắn ngủi so với một
nghìn năm văn học trung đại, nhưng đây là giai đoạn có nhiều sự kiện văn hóa,
văn học quan trọng. Do có sự gắn bó chặt chẽ giữa văn học và đời sống xã hội
nên từ những biến cố lịch sử, những sự kiện chính trị cho đến không khí thời
đại, tâm lý cộng đồng... tất cả đều được lưu giữ trong tác phẩm văn học. Không
những thế, chính văn chương cũng tác động một cách tích cực, góp phần tạo nên
sự sôi động của đời sống xã hội lúc này. Không gian văn hóa xã hội Việt Nam
giai đoạn này cũng chịu sự chi phối của các biến cố lịch sử trên.
Cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp phát động nhằm vào Việt
Nam năm 1858 chính là biến cố quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với
sự vận động của văn học giai đoạn này. Bước ngoặt này đã kéo theo những xáo
trộn, những thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống
trong đó có lĩnh vực văn chương. Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống qua
từng giai đoạn lịch sử nên ở giai đoạn này tính thời sự, thế sự trong văn học trở
thành một đặc điểm nổi bật. Việc lựa chọn nội dung, xác định mục tiêu, đối
tượng hướng tới của văn học hay vị thế của văn học trong sinh hoạt cộng đồng

đều được các nhà văn chú trọng. Đời sống văn học giai đoạn này trở nên sôi
động và có những biến đổi sâu sắc diễn ra theo nhịp điệu ngày càng nhanh.
"Việc nước" trở thành vấn đề nóng bỏng nhất, cấp bách nhất của cả dân tộc lúc
này. Nó không chỉ là chuyện của đời sống thực tế mà còn là chuyện văn chương,
chuyện của văn nhân nho sĩ.
Từ cuộc đấu tranh vũ trang cả dân tộc bắt đầu chuyển sang cuộc đấu tranh
về văn hóa và lối sống trước sự xâm lược và sự áp đảo của văn hóa vật chất và
tinh thần của kẻ thù từ phương Tây. Văn hóa truyền thống dân tộc đứng trước


17

nguy cơ bị hủy diệt, phải tranh chấp với một kẻ thù hùng mạnh về mọi phương
diện, dẫn đến những xáo trộn lớn lao trong đời sống văn hóa: Công cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất và lần thứ hai của thực dân Pháp kết hợp với quá
trình xây dựng thuộc địa và chính sách xóa bỏ nền văn hóa truyền thống từ ngàn
đời của Việt Nam (bỏ chữ Hán, Nôm, học chữ Pháp và Quốc ngữ v.v…) đã làm
thay đổi dần xã hội.
Nguyễn Khuyến và các nhà thơ thuộc thế hệ ông đã dùng văn học để đấu
tranh nhằm bảo vệ nền văn hóa truyền thống, chống lại các chính sách văn hóa
phản động của kẻ thù. Việc phản ánh văn hóa Việt trong thơ ca của họ trở nên
có ý thức hơn lúc nào hết. Không gian đời sống lịch sử, xã hội cũng chính là
không gian văn hóa được các tác giả đương thời (trong đó có Nguyễn Khuyến)
kịp thời phản ánh chân thực, sống động trong các tác phẩm của mình dưới nhiều
bình diện khác nhau.
1.3. Nguyễn Khuyến - Nhà thơ vùng đồng bằng Bắc Bộ
Nguyễn Khuyến (1835–1909), sinh tại quê mẹ làng Hoàng Xá, huyện Ý
Yên, tỉnh Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở quê cha - làng Vị Hạ, tổng Yên Ðổ, huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Vùng quê mang đặc trưng điển hình của vùng đồng
bằng chiêm trũng này đã ăn sâu vào tâm thức ông từ thuở thiếu thời để tạo thành

một thứ vốn sống thực tế cấu thành nên các thi phẩm viết về làng quê mang đậm
dấu ấn Việt.
Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864,
ông đi thi Hương và đỗ Giải nguyên ở trường thi Nam Ðịnh. Năm 1871, thi Hội
lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên - Nguyễn Khuyến đứng đầu
ba kỳ thi nên người đời gọi ông là Tam nguyên Yên Ðổ. Ông làm nhiều chức
quan dưới triều Tự Ðức. Tình hình xã hội cuối thế kỷ XIX hết sức hỗn loạn
khiến ông cảm thấy lúc nào cũng sống trong tình trạng nghi kỵ nặng nề nên cuối
cùng đã cho con trai mình là Nguyễn Hoan ra làm quan. Kể từ đó, Nguyễn
Khuyến được sống tương đối yên ổn ở quê nhà cho đến khi mất. Những thăng
trầm của cuộc đời, những biến động của lịch sử đã tôi luyện, hun đúc nên cốt
cách tâm hồn ông, khí chất con người ông. Chính điều đó đã giúp ông luôn lựa


18

chọn được những cách ứng xử khéo léo, trọng tình, trọng nghĩa không chỉ trong
gia đình mà còn ngoài xã hội.
Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm hơn 800 tác phẩm có giá trị, bao gồm
thơ, văn, câu đối, ca trù viết bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng thành công nhất
là ở thể loại thơ Nôm. Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập,
"Bạn đến chơi nhà" và 3 bài thơ về mùa thu cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế,
câu đối truyền miệng. Trong đó, Quế sơn thi tập có khoảng 200 bài thơ bằng
chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài
Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra chữ Nôm hoặc ông viết bằng chữ
Nôm rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó để xác định đâu là bản nguyên
tác, đâu là bản dịch vì chúng rất điêu luyện. Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn
Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng
Lão - Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ
tình. Trong số các tác phẩm để lại cho đời, Nguyễn Khuyến đã dồn rất nhiều tài

năng và tâm huyết vào các sáng tác trữ tình. Xoay quanh đề tài nông thôn, tác giả
đã thể hiện thành công bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi đây.
Qua đó, giãi bày một cách kín đáo những nỗi niềm băn khoăn, những tâm sự lớn
của lòng mình. Chiều sâu tư tưởng kết hợp hài hòa với nghệ thuật thơ sáng tạo,
điêu luyện đã đưa những thi phẩm ấy lên một vị thế xứng đáng trong thi đàn dân
tộc. Do đó, trải qua nhiều biến thiên của thời gian, tên tuổi của Nguyễn Khuyến
vẫn đi cùng năm tháng và ghi tạc trong lòng công chúng yêu thơ.
Nguyễn Khuyến là một con người, một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu.
Chính vì thế, thơ ông cùng với thơ Hồ Xuân Hương trước kia, thơ Nguyễn Bính
và một số nhà thơ khác sau này, đã tạo thành một xu hướng thi ca vô cùng độc
đáo và đặc sắc, chuyên đặc tả bản sắc Việt Nam trên hai phương diện chủ yếu là
bản sắc quê hương đất nước Việt Nam và bản sắc tâm hồn Việt Nam. Trước hết,
người ta biết đến và ghi nhận Nguyễn Khuyến với tư cách một nhà thơ của vùng
đồng quê chiêm trũng đồng bằng Bắc Bộ. Điều này đã được các nhà nghiên cứu
khẳng định như một chân lý và được thể hiện một cách vô cùng đậm nét qua các
sáng tác của ông. Khung cảnh đặc trưng của xứ sở văn minh lúa nước với những


19

đồng ruộng thanh bình, những làng quê xanh ngát có lũy tre bao bọc xung
quanh, với nhịp sống êm đềm, thơ mộng và đầy chất trữ tình đã đi vào thơ
Nguyễn Khuyến một cách tự nhiên mà đầy sức lay động.
Tuy đã từng đỗ đạt cao, từng ra làm quan hơn 10 năm, thế nhưng bến neo
đậu duy nhất cho Tam Nguyên Yên Đổ trong cuộc đời ông có lẽ chỉ có thể là
quê cha, thôn Vị Hạ, tổng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Đã từng gắn
bó, in đậm trong hồi ức tuổi thơ cũng như trong suốt phần đời còn lại. Điều này
đã tạo nên một vốn hiểu biết sâu rộng và tình cảm đẹp đẽ của nhà thơ với cảnh
vật nông thôn. Suốt cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến luôn sống chan hòa, gần
gũi, chân tình với những người nông dân nghèo khổ. Ông xứng đáng là nhà thơ

của nông thôn với những bài thơ miêu tả tinh tế, chân thực những vẻ đẹp bình dị
của làng cảnh và nếp sống nông thôn. Qua những bài thơ trữ tình trong trẻo, tác
giả dựng nên một bức tranh thiên nhiên nông thôn rất tinh tế, xinh xắn. Nhưng
có lẽ nổi tiếng nhất và cũng là tiêu biểu nhất cho vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ
chính là chùm ba bài thơ thu: “Thu vịnh”, “Thu điếu” và “Thu ẩm”.
Nguyễn Khuyến còn là một nhà thơ, một nhà văn hóa có cách ứng xử tinh
tế, sâu sắc với thiên nhiên và con người. Mặc dù đã dự phần “bảng vàng bia đá”,
uyên thâm tất cả điển chương Hán học nhưng Nguyễn Khuyến có khuynh hướng
muốn giữ nguyên vẹn tâm hồn, phong cách của một con người, một ông già của
xứ làng quê Việt Nam ấy, trọn đời sống chan hoà với những người “chân quê”
giữa đồng đất, làng xóm quê hương. Theo tác giả Kiều Văn, ở bất kì bài thơ nào
của thi nhân Nguyễn Khuyến cũng đều có cái “lõi” thánh nhân. Vì vậy muốn
“thẩm” thơ Nguyễn Khuyến, nhất thiết phải “lặn” xuống tận đáy tâm hồn, trí tuệ
và bản chất con người ông. Yêu con người, nhất là người dân quê Việt Nam,
ngòi bút của Nguyễn Khuyến đã miêu tả hình ảnh của họ thật là sinh động, thân
thương và đôi khi kèm theo nụ cười kín đáo. Hình ảnh quê hương làng xóm đã
in đậm dấu vào thơ Nguyễn Khuyến. Cảnh nông thôn Việt Nam trong thơ ông là
những tác phẩm thơ – hoạ tuyệt diệu và hữu tình, có sức lay động trái tim con
người Việt Nam ở nhiều thời đại. Là một bậc đại Nho danh tiếng nhưng Nguyễn
Khuyến không tự đối lập mình với mọi người. Trái lại, tấm lòng thi nhân luôn


×