Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận môn quản lý lễ hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.19 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
“Con người là khóa, văn hóa là chìa” là câu nói các cụ vẫn lưu truyền
trong dân gian. Vì vậy, để tìm hiểu về cuộc sống sinh hoạt, tôn giáo tín
ngưỡng của một cộng đồng làng xã thì cần phải tìm hiểu những vấn đề về
cuộc sống, phong tục tập quán, những nét văn hóa đặc sắc của con người
cộng đồng đó. Lễ hội không chỉ là nơi hội tụ giá trị văn hóa đặc trưng của
mỗi vùng quê, mà còn là nơi phản ánh rõ nét đời sống vật chất,kinh tế, xã
hội của vùng đó. Trong cuộc sống, lễ hội mang lại sự thanh thản cho con
người, gạt đi những lo toan thường nhật, tăng thêm sự gắn bó và tình yêu
với thiên nhiên đất nước. Mỗi một lễ hội nước ta gắn bó với làng xã, địa
danh, vùng đất, gắn với những điển tích về những anh hùng, những vĩ nhân,
những người có công dạy dỗ truyền nghề,...
Lễ hội cũng chính là dịp để con người có cơ hội gặp gỡ, giao lưu
đồng cảm, là nơi kết nối cộng đồng, nơi con người thể hiện truyền thống
uống nước nhớ nguồn. Với các ý nghĩa to lớn và ảnh hưởng đến đời sống
con người như vậy, vấn đề đặt ra là quản lý, tổ chức lễ hội như thế nào để
phát huy hết giá trị của lễ hội và để góp phần xây dựng nền văn hóa Việt
Nam theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước. Thực tế trong thời gian
gần đây, rất nhiều lễ hội làng, lễ hội chùa đang được đua nhau tổ chức. Đó
là những lễ hội cổ truyền được khôi phục lại và cả những lễ hội mới được
mở ra với quy mô lớn, hoàng tráng và rất tốn kém, lãng phí tiền của và
công sức của nhà nước và nhân dân, kèm theo đó là nhiều hiện tượng phát
sinh ra từ lễ hội mới này, các giá trị văn hóa tinh thần thiêng liêng đang dần
mai một, cũng như hình thức bị thay đổi khiến vai trò làm chủ của nhân
dân cũng đang mất dần. Người dân đến với lễ hội chủ yếu là cầu cúng, xin
tài lộc, và vui chơi giải trí để giải tỏa sau những ngày làm việc, giao lưu kết
nối với nhau và gần gũi tình làng nghĩa xóm.


2


Nằm trong hệ thống lễ hội truyền thống văn hóa của người Việt
Nam, lễ hội đền Trúc Lâm Đồng Thái - Ba Vì - Hà Nội là một lễ hội đầy đủ
các yếu tố điển hình của một lễ hội truyền thống Việt Nam. Không chỉ đối
với người dân Đồng Thái mà cả với người dân quanh vùng và, lễ hội đền
Trúc Lâm được xem như một cái tết thứ hai của người dân nơi đây. Lễ hội
đền Trúc Lâm trong đời sống tinh thần của người dân Đồng Thái có tầm
quan trọng rất lớn. Tuy nhiên những năm gần đây, các hiện tượng ngoại lai
du nhập, những hình thức trò chơi từ những nơi khác mang tới như: xóc
thẻ, xem bài tây, xem bói, lợi dụng những trò chơi của lễ hội để tổ chức cờ
bạc, các độ; việc xả rác bừa bãi, việc bày bán hàng rong gây mất trật tự an
ninh, không vệ sinh an toàn thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường... là những
hình ảnh xấu góp phần tác động tiêu cực và làm mất đi không gian văn hóa
dân gian, làm ảnh hưởng tới ý nghĩa thiêng liêng trong lễ hội đã giảm đi
trước những yếu tố xã hội, thương mại hóa và các hiện tượng tiêu cực, từ
đó khiến việc quản lý lễ hội trở thành một vấn đề cần được quan tâm. Thực
trạng khó kiểm soát của lễ hội đền Trúc Lâm đã và đang là sự quan tâm của
người dân Ba Vì nói chung, của người dân Đồng Thái nói riêng
Vậy, để quản lý lễ hội đền Trúc Lâm một cách khoa học, thỏa mãn nhu
cầu tín ngưỡng, giải trí của người dân và phát huy hết được tài sản văn hóa
vô giá của mảnh đất Ba Vì là hết sức quan trọng. Chính vì vậy em đã chọn
đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức và quản lý lễ
hội đền Trúc Lâm Đồng Thái - Ba Vì - Hà Nội” làm tiểu luận môn quản lý
lễ hội.


3

NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LỄ HỘI
Khái niệm về lễ hội

Lễ hội là gì? Đó là câu hỏi đặt ra mà chúng ta phải trả lời cho thấu
đáo. Xét về mặt ngôn ngữ từ lễ hội là một từ ghép của hai từ đơn lễ và hội.
Giới nghiên cứu lễ hội ở nước ta từ những năm 90 của thế kỉ trước
đã thể hiện trong các công trình nghiên cứu hai thuật ngữ "lễ hội" và "hội
lễ". Thực chất hai thuật ngữ này có chung nội hàm nhưng được tiếp cận ở
hai góc độ khác nhau về hoạt động của lễ hội trong đời sống xã hội hiện
đại.
Năm 1993, tại Hà Nội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức hội
thảo khoa học quốc tế với chủ đề "Lễ hội truyền thống trong đời sống xã
hội hiện đại", có 34 bài phát biểu và báo cáo khoa học trình bày tại hội thảo
này. Phát biểu tổng kết hội thảo, GS.PTS. Lê Hữu Tầng gói lại vấn đề trên:
"Các đại biểu đã đề cập đến nhiều yếu tố khác nhau cấu thành hội lễ, trong
đó đặc biệt nhấn mạnh đến hai yếu tố cơ bản của nó là hội và lễ. Nhưng hội
là chính hay lễ là chính? Một số học giả cho rằng hội là chính. Số khác cho
rằng lễ là chính. Người coi hội là chính thì khẳng định phải gọi là hiện
tượng đang được xét là hội lễ mới đúng. Người coi lễ là chính lại khẳng
định ngược lại: Phải gọi nó là lễ hội mới đúng. Cũng có ý kiến cho rằng lễ
và hội là hai yếu tố giữ vai trò then chốt, tạo nên cốt lõi của hội lễ. Thiếu
một trong hai yếu tố đó thì hội lễ sẽ không còn là hội lễ nữa. Vì vậy, có thể
gọi nó là hội lễ hay lễ hội đều được...". Sau hội thảo này, phần nhiều các
bài viết thiên về cách gọi là lễ hội.
Cho tới nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa về lễ hội.
Giáo sư Vũ Ngọc Khánh cho rằng: "Lễ hội cũng gọi là hội lễ, là hình
thức sinh hoạt văn hóa xã hội của một tập thể, một tổ chức thuộc giới,
nghề, ngành hoặc tôn giáo trong phạm vi một địa phương hoặc trong cả
nước".
Giáo sư Đinh Gia Khánh bầy tỏ quan điểm: "Trước hết phải nói rằng
hội lễ là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng tất yếu nảy sinh trong
xã hội loài người trên cơ sở một nhu cầu không thể không thỏa mãn của
con người sống thành xã hội. Hội lễ đã nảy sinh trong xã hội thị tộc, bộ lạc

tức là dưới chế độ cộng sản nguyên thủy và sẽ còn là một hình thức sinh
hoạt văn hóa cộng đồng của xã hội cộng sản văn minh sau này".
Nhóm tác giả viết cuốn sách: Cơ sở văn hóa Việt Nam luận giải thời
điểm ra đời lễ hội: "Cư dân Việt và cư dân các dân tộc ít người ở Việt Nam


4

là những cư dân nông nghiệp sống bằng nghề trồng lúa nước. Vòng quay
của thiên nhiên và mùa vụ tạo ra trong họ những nhu cầu tâm linh. Khoảng
thời gian nghỉ ngơi này là dịp để người dân vừa cảm ơn thần linh đã phù hộ
cho họ một mùa màng đã qua, vừa cầu xin thần linh phù hộ cho một mùa
màng sắp tới. Dần dà, biến thiên thời gian đã lắng đọng nhiều phù sa văn
hóa trong lễ hội. Sinh hoạt văn hóa ấy của cư dân được gọi là lễ hội".
Thạc sĩ Phạm Vũ Dũng cho rằng: "Lễ hội (hay hội lễ) là một sinh hoạt
văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của nông dân hay
thị dân, diễn ra trong những chu kỳ không - thời gian nhất định để làm
những nghi thức về nhân vật được sùng bái, để tỏ rõ những ước vọng, để
vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm".
Nếu lấy thời điểm tháng 8/1945 làm mốc, chúng ta dễ nhận thấy rằng,
những lễ hội hình thành trước đó, đại đa số gắn bó với làng xã vùng nông
thôn, nông nghiệp, nông dân, những ngư dân và thợ thủ công, được gọi là
lễ hội cổ truyền, lễ hội truyền thống. Sau năm 1945, lễ hội ở nước ta tiếp
tục dòng chảy của các lễ hội truyền thống mà giáo sư Đinh Gia Khánh nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng, nó: "là những hiện tượng còn
sống sót của quá khứ" và "Nếu người ta, nếu dân chúng còn tin vào nó thì
sẽ không chỉ đơn thuần là một hiện tượng đang sống sót mà đã trở thành,
phải trở thành một hiện tượng đang tái sinh". Đồng thời trong xã hội, với
điều kiện sinh hoạt mới, đã xuất hiện những lễ hội mới, được gọi với cái
tên chung là lễ hội hiện đại. Ví dụ: lễ hội tòng quân, lễ hội Quốc khánh 2/9,
lễ hội 27/7, lễ hội văn hóa - thể thao - du lịch, lễ hội hoa Đà Lạt, lễ hội kỷ

niệm ngày thành lập tỉnh, thành phố, ban, ngành...
Lễ hội là một diễn xướng văn hóa tổng hợp, gồm nhiều thành tố cấu
thành, cho dù là lễ hội truyền thống hay lễ hội hiện đại, nhưng nhất thiết
phải có hai thành tố cơ bản, đó là lễ và hội.
Theo giáo sư Đinh Gia Khánh: "Danh từ hội lễ nên được dùng như
một thuật ngữ văn hóa. Có thể sơ bộ xác định ý nghĩa của thuật ngữ này
theo hai thành tố là hội và lễ. Hội là tập hợp đông người trong một sinh
hoạt cộng đồng. Lễ là nghi thức đặc thù gắn với sinh hoạt ấy". Giáo sư Trần
Quốc Vượng nói về mối quan hệ của hai thành tố lễ - hội: "Lễ hội gồm hai
phần vừa tách rời vừa không tách rời nhau: Lễ (nghi lễ cúng Thần, Thánh,
Phật, Mẫu...) và Hội (tụ hội của dân một làng hay liên làng (vùng)"; "Trên
thực tế và về lý thuyết Lễ - Hội xoắn xuýt hữu cơ vào nhau, không thể tách
rời".
Giáo sư, tiến sĩ Ngô Đức Thịnh cũng đồng quan điểm: "Lễ và hội là
một thể thống nhất không thể chia tách. Lễ là phần tín ngưỡng, là phần thế


5

giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần đạo, còn hội là phần tập
hợp vui chơi, giải trí, là đới sống văn hóa thường nhật, phần đời của mỗi
con người, của cộng đồng. Hội gắn liền với lễ à chịu sự quy định của lễ, có
lễ mới có hội".
Phần lễ: là các nghi thức thể hiện đức tin, ý chí, tình cảm của cộng
đồng vào một sự kiện, sự vật, nhân vật, hiện tượng nào đó. Phần lễ tạo cảm
xúc hướng con người vào một tâm điểm cụ thể nào đó.
Phần hội: các sinh hoạt văn hóa thu hút đông đảo quần chúng tham gia
biểu hiện tinh thần, sức sống của cộng đồng và các tài năng của thành viên.
Lễ và hội không tách biệt mà nằm lẫn, đan xen vào nhau như trong lễ
hội truyền thống, lễ hội tưởng niệm danh nhân cách mạng ở nhà lưu niệm.

Lễ do từng cá nhân hay một nhóm người thực hiện trong thời gian tổ chức
lễ hội. Nhưng lễ và hội có thể tách biệt riêng từng phần , như một số lễ hội
hiện đại xong phần nghi thức lễ thì chuyển sang hội.
Tóm lại, tổng hợp ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước và trên
phương diện quan sát, chúng ta dễ đi đến thống nhất rằng: Lễ hội là một
hình thức sinh hoạt văn hóa của một nhóm người hay nhiều nhóm người,
diễn ra trong một không gian nhất định, trong một thời điểm nhất định; nơi
hội tụ và trình diễn tổng hợp các loại hình văn hóa, nơi hòa nhập văn hóa
quá khứ và văn hóa hiện tại nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng
người, đánh thức niềm tin, sự tự nguyện và cảm hứng thăng hoa, sáng tạo
của mỗi người khi tham gia vào lễ hội. Lễ hội thể hiện tính tập thể (nhóm
người), tính cộng đồng (nhiều nhóm người), tính tổng hợp (nhiều loại hình
văn hóa), tính ngẫu hứng, sáng tạo (mỗi cá thể người tham gia vào sinh
hoạt cộng đồng), qua đó tạo nên mối cộng cảm và tinh thần gắn bó giữa các
thành viên của cộng đồng, từ cuộc sống thường nhật, hướng tới những
chuẩn mực giá trị xã hội và đức tin vào một thế giới được huyền thoại hóa
từ cõi đời thực, tạo nên niềm vui và sức mạnh chung của cả cộng đồng.
Nguồn gốc của lễ hội
Là một sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, lễ hội, dù biểu hiện dưới bất
cứ hình thức nào cũng phản ánh hiện thực đời sống xã hội, thể hiện tâm tư,
nguyện vọng, quan niệm của một tập thể, một cộng đồng về cuộc sống.
Đặc điểm của lễ hội dân gian
Lễ hội phản ánh hiện thực khách quan thông qua diễn xướng nguyên
hợp và tổng hợp các hình thức nghệ thuật phản ánh quan niệm thẩm mĩ của
quần chúng nhân dân.
Các chức năng của lễ hội
Chức năng giáo dục


6


Chức năng giao tiếp và kích thích sự sáng tạo
Chức năng tín ngưỡng
Chức năng vui chơi, giải trí
Chức năng kinh tế
Đặc điểm nghệ thuật của lễ hội
Lễ hội diễn ra trong thời điểm hiện tại nhưng các sự kiện lịch sử trong
quá khứ cùng đồng hiện.
Lễ hội là thời điểm thăng hoa của cảm xúc thẩm mĩ
Không gian thiêng hòa trộn với tính thực dụng
Tính chu kỳ và sự ngẫu hứng của lễ hội
Diễn trình lịch sử lễ hội
Theo GS.TS - Nguyễn Xuân Kính có 5 thời kỳ lễ hội của người Việt
Thời kỳ xây dựng nền văn hóa Đông Sơn
Thời ký Bắc Thuộc
Thời kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập, tự chủ
Thời kỳ đất nước sống dưới chế độ thực dân phong kiến
Lễ hội sau cách mạng tháng 8 đến nay
5 giá trị cơ bản của lễ hội (GS.TS. Ngô Đức Thịnh)
- Giá trị cố kết cộng đồng
Lễ hội thuộc cộng đồng
Lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng
Chất keo dính tạo nên sự cố kết cộng đồng
Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và
cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.
Ngày nay lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng
đồng.
- Giá trị hướng về cội nguồn (nguồn gốc tự nhiên và xã hội)
Mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về cội nguồn:
• Nguồn cội tự nhiên: con người vốn từ đó sinh ra

• Nguồn cội cộng đồng: xóm làng, dân tộc, đất nước
Nguồn cội văn hóa: những biểu tượng (Quốc tổ), những phong tục, tập
quán tốt đẹp (tâm linh, món ăn truyền thống, cách ăn mặc...), còn gọi
là truyền thống văn hóa...
Càng trong thời đại cahs mạng khoa học kĩ thuật con người càng
muốn có nhu cầu trở về với cội nguồn sinh thái và truyền thống văn
hóa.
- Giá trị cân bằng đời sống tâm linh


7

Tâm linh là cái thiêng, cái thiêng liêng con người ngưỡng mộ, tôn thờ
và tin
Tín ngưỡng, tôn giáo là thuộc đời sống tâm linh
Lễ hội làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh
Cuộc đời thứ hai sau cuộc đời trần tục của con người.
Lễ hội cho con người tận hưởng những giây phút thiêng liêng, đẹp đẽ
khác hẳn đời thường, từ đó cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện
thực.
- Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa cộng đồng.
Nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh
hoạt văn hóa cộn đồng.
Nhân dân hưởng thụ các giá trị văn hóa và tâm linh
Lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản
Con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn háo của mình
- Giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Lễ hội là bảo tàng sống về văn hóa dân tộc, nó làm cho văn hóa dân
tộc được giữ gìn, hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang

thế hệ khác.
Người dân tự đứng ra tổ chức lễ hội, hơn hết họ biết cách duy trì à đủ
khôn ngoan để sáng tạo làm giàu có lễ hội ở làng quê họ.
Con người hóa thân vào lễ hội và lễ hội thôi thúc họ sống cho làng
quê, dân tộc và biết quí trọng những giá trị văn hóa của cha ông họ lưu
truyền lại.
Phân loại lễ hội dưới góc nhìn của các nhà quản lý
Lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du
nhập từ nước ngoài vào Việt Nam, lễ hội văn hóa - du lịch.
Quản lý lễ hội
Khái niệm quản lý
Quản lý là một quá trình đi từ chỗ nắm được, nắm đúng cái hiện có thấy được, thấy đúng cái cần có. Biết tìm mọi biện pháp khả thi và tối ưu
để đưa từ cái hiện có lên tới cái cần có.
Quản lý là sự tác động có chủ đích, có tổ chức của chủ thể quản lý lên
đối tượng bị quản lý và khách thể của quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục đích đề ra
trong điều kiện biến động của môi trường.
Khái niệm quản lý lễ hội


8

Quản lý lễ hội là sự tác động có chủ đích, có tổ chức của chủ thể quản
lý lên các hoạt động tổ chức lễ hội à các điều kiện đảm bảo cho tổ chức lễ
hội trong không gian tổ chức lễ hội nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục đích đề ra trong điều
kiện biến động của môi trường.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC LỄ HỘI ĐỀN TRÚC LÂM
Khái quát về di tích đền Trúc Lâm Đồng Thái – Ba Vì – Hà Nội
Lịch sử hình thành việc xây dựng đền Trúc Lâm

Từ xưa đến nay đền Trúc Lâm thờ vị danh Tướng có công dẹp giặc
Nguyên Mông, giúp vua Trần cứu nước ở thế kỷ thứ XIII. Vị danh Tướng
có tên là Phùng Lân Hổ mẹ của ông là Phùng Thị Tiên Dung quê ở xã Đồng
Bảng huyện Minh Nghĩa phủ Tiên Phong tỉnh Sơn Tây (nay là xã Đồng
Thái huyện Ba Vì).
Trong một lần đi vào làm ở trong rừng, bỗng có một đám mây che
rợp, tiếng hổ hét gầm dữ dội, từ đó bà có thai và 14 tháng ra Phùng Lân Hổ
lớn, lên trong thời buổi nhà Trần bị giặp Nguyên Mông đễn xâm lược.
Nhận được lời kêu gọi của vua Trần, Phùng Lân Hổ đã xin ra giúp vua Trần
cứu nước.
Sau khi mẹ ông mất, nhà vua đã ban cho một miếng đất để xâylăng
mộ. Đến ngày 8 tháng giêng năm ấy ông đã trở về nơi thành trì của ông
(được vua ban cấp) gọi là thanh đền (nay thuộc lăng Dục Mỹ huyện Phong
Châu tỉnh Vĩnh Phúc). Ông cùng quân sĩ tập luyện và giúp dân ổn định
cuộc sống.
Vào giờ Ngọ ngày 10 tháng Chạp năm ấy ông bỗng dưng biến mất nhà
vua cho xây lăng mộ ông tại nơi ông đóng quân từ đó cho đến nay.
Khi sống ông lo cho dân yên nươc mạnh. Khi hóa thần linh thiêng
ngầm giúp cho vận nước. Để tỏ lòng biết hơn vô hạn tới ông, vua Trần đã
cho phép thôn Đồng Bảng xã Đồng Thái nơi ông sinh ra và lớn lên xây
dựng đề thờ phụ đến nay là đền Trúc Lâm năm 1258.
Kiến trúc đền Trúc Lâm
Đền Trúc Lâm là một công trình kiến trúc cổ và đẹp cấu trúc khá độc
đáo, mà ta ít gặp ở các ngôi đền cùng thời.
Ngôi đền được xây dựng theo kiến trúc dọc, có 3 gian thờ, 4 mái và 2
trái từ ngoài vào đền Trúc Lâm bao gồm tam quan, hai dãy nhà tả hữu mạc
và đền chính. Bao quanh ngôi đền là những ván được bào nhẵn. Kiến trúc
bên trong đền có chạm khắc những hình rồng, hình phượng, tạo sự uy



9

nghiêm linh thiêng của ngôi đền, sự mềm mại, uyển chuyển của những họa
tiết hoa văn cổ và đẹp.
Tuy không lớn lắm, nhưng ngôi đền có vẻ khá độc đáo ngay từ bên
ngoài, các bộ phân kiến trúc gỗ của đền đều được chạm khắc trang trí rất
công phu, nhằm tăng thêm giá trị thẩm mĩ cho toàn bộ công trình. Nhìn
chung nghệ thuật trang trí ngôi đền mang đậm nét phong cách nghệ thuật
cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19.
Các hiện vật dược thờ cúng trong đền
Ngoài các công trình kiến túc đã được miêu tả ở trên, đền Trúc Lâm
còn bảo lưu được một khối lượng di vật khá phong phú và đa dạng. Trong
đó có nhiều di vật mang giá trị nghệ thuật thẩm mĩ cao bao gồm: một cuấn
thần phả bằng giấy gió, bản sắc phong, bốn câu đối chữ hán ca ngợi công
lao của Phùng Lân Hổ và các câu đối treo ở cửa đền ngoài, 1 bộ đinh đồng,
1 đôi hạc đồng, 1 bộ kiện bành, 1 bộ long ngai bài vị gỗ sơn son thiếp vàng,
2 hương án ghi sơn son thiếp vàng, 1 cây đèn long trúc, 24 chấp kích….
Ngoài ra còn có nhiều đồ thờ tự khác nhau như: Bát hương , bát xứ,
cây nến, mâm đồng, bộ bát bửu, quả gỗ, chiên đồng, hia, quần áo thờ…..
Lễ hội đền Trúc Lâm qua các thời kì
Lễ hội bị gián đoạn từ năm 1965 – 1975 nhưng khi hòa bình lập lại lễ
hội được khôi phục năm 1976. Trong việc công tác chuẩn bị nghi lễ vẫ
được tổ chức rất kỹ càng, cứ ngày 06 tháng Chạp lại tổ chức một cuộc họp
của các cụ cao niên, ngày hôm đó sẽ bầu ra 5 đến 6 cụ đảm bảo mọi yêu
cầu để đến ngày 10 tháng chạp sang Lăng Dục Mĩ tại Vĩnh Phúc để mời
nhà Ngài về ăn tết tại đền Trúc Lâm ( hay còn gọi là đi sái tảo).
Sau đó một tháng tức ngày 06 tháng Giêng lại có một cuộc họp tương
tự như vậy để chuẩn bị cho ngày tổi chức lễ hội. Ngoài việc tổ chức lễ hội
vào ngày 09 và 10 tháng Giêng thì đền Trúc Lâm có một phần đặc biệt so
với các lễ hội khác. Đền Trúc Lâm có tổ chức tế lễ 3 tháng hè từ ngày 1/4

đến ngày 7/4, nếu có năm nhuận cả 4 tháng hè.
Ngày trước cụ mệnh được chọn phải là người có chắc sắc, địa vị, mà
phải là Lý trưởng hoặc Phó lý, gia đình phải quang quẻ, sạch sẽ… Các cụ
quan viên y tế khác cũng được chọn lựa rất kĩ càng không kém phần cụ
mệnh.
Yêu cầu của lễ vật cũng rất cẩn thận và phong phú. Lễ vật cúng tế bao
gồm : Cơm cá nướng, oản quả, mâm ngũ quả, năm vị bánh (bánh rán, bánh
trôi,bánh trưng, chè lam, bánh mật). Đặc biệt là lễ xôi gà, xôi phải được đồ
từ gạo nếp hương, màu trắng, gà phải là gà thiến, không được cắt tiết mà
phải bóp cổ chết.


10

Lễ hội như thường luật gồm có hai phần: phần hội và phần lễ.
Phần lễ bao gồm: lễ cáo yết, lễ dâng hương của các cụ cao niên và các
gia đình trong dòng họ, lễ rước thần thánh và cuối cùng là lễ yên vị.
Trong phần hội có phần hạn chế hơn do hoàn cảnh của xã hội còn khó
khăn, có năm mở có năm không. Theo trí nhớ của các cụ cao niêm trong
làng, ngày trước có hai trò chơi được tổ chức nếu có là đấu vật và nấu cơm
thi.
Diễn trình lễ hội đền Trúc
Địa điểm và thời gian tổ chức lễ hội
Lễ hội đền Trúc Lâm tổ chức thường niên vào ngày 09 và 10 tháng
Giêng. Lễ hội được tổ chức ở đền Trúc Lâm, phần hội tổ chức ngay phần
hồ, bên cạnh đền hay nói cụ thể hơn là tại xón Đông Rừng, thôn Đồng
Bảng – Đồng Thái. Từ khi xã quản lý thì cứ 3 – 5 năm lễ hội lại được tổ
chức to một lần.Ngoài những năm khác thì thôn tự tổ chức nhưng phải
được sự cho phép của chính quyền Uỷ ban nhân dân xã.
Thành phần tham gia và công việc chuẩn bị

* Công việc chuẩn bị khâu tổ chức:
Uỷ ban nhân dân xã sẽ đứng ra tổ chức một cuộc họp từ ngày 15 đến
ngày 20 tháng Chạp, người phụ trách công việc là Phó chủ tịch Uỷ ban
nhân dân xã Phùng Kim Thuận có trách nhiệm viết giấy mời để mời các
ban ngành, các cụ cao niên trong làng, các thành viên tổ chức mặt trận để
phân công công việc cho việc tổ chức lễ hội.
* Công việc chuẩn bị cho phần lễ:
Lễ vật là một trong những cách thức bày tỏ lòng tôn kính tới vị thần
và nó được coi là lễ nghi quan trọng nhất trong ngày hội.
Như thường lệ, lễ hội ở đâu hầu hết các lễ vật tế thần bao gồm: xôi gà,
thủ lợn, cùng với các hương hoa quả, trầu, rượu… Tất cả các lễ vật đều là
sản phẩm nông nghiệp mà chính những người dân nơi đây làm ra. Nhưng ở
lễ hội Trúc Lâm xã Đồng Thái lễ vật tế thần bao gồm: lễ xôi gà, lễ cơm cá
nướng, lễ bánh, oản quả, hoa quả, rượu, trầu, nước thánh… tất cả các lễ vật
kể trên đều được chuẩn bị rất công phu tiến hành rất cẩn thận có phần đặc
biệt ở quy định lễ vật.
Nội dung phần nghi lễ
Đây là nghi thức quan trọng, thiêng liêng nhất của hội làng. Nghi lễ
diễn ra trong 2 ngày là 09 và 10 tháng Giêng. Sáng ngày mùng 09 khỏang
từ 5h – 7 h một số quan viên y tế và cụ mệnh ra ngoài mộ Thánh Mẫu gần
đó để làm lễ sinh thần. Ở đền cụ từ và các quan viên y tế khác có trách
nhiệm kiểm tra lại các lễ vật xem thiếu sót gì thì phải bổ sung ngay sau đó.


11

Sau khi chuẩn bị xong xuôi công việc, nghi lễ tế thần được bắt đầu.
Trước tiên là nghi thức “thượng nhang” là nghi thức châm hương dâng lên
nhà Ngài. Sau khi dâng hương xong thì vào tế tam tuần. Trong tế tam tuần,
tất cả các quan viên y tế và cụ mệnh và mợi người khác phải làm theo hiệu

lệnh của bên Đông xướng. Trong tế tam tuần thì có ba câu xướng chính bắt
đầu ở các tuần từ 1,2,3 theo thứ tự như sau: “hành sơ hiến lễ”, “hành á hiến
lễ”, “hành trung hiến lễ”, trong các bước nghi thức của các tuần diễn ra
tương tự nhau. Khi tế ba tuần xong thì tất cả làm lễ yên vị.
Sáng mồng 10 tháng Giêng là ngày rước kiệu nhà ngài nên các thành
viên trong đoàn rước đến rất đông. Trước khi hành lễ trình rước kiệu Ban tổ
chức tranh thủ dành thời gian cho các gia đình, dòng họ, cá nhân chưa có
điều kiện làm lễ từ hôm trước, hôm nay sẽ tiếp tục dâng lễ lên nhà Ngài.
Lộ trình của đoàn rước được nghỉ ở điếm Trại Lác để lấy nước thánh,
tại giếng Thánh cho lên kiệu. Trong quãng đường nếu có người dân để lễ ở
dọc đường thì cụ điện sẽ khêu kiểm ra lệnh dừng kiệu để đón lễ.
Sau khi rước kiệu về đền thì cụ mệnh và các quan viên y tế chuẩn bị
làm lễ yên vị.
Nội dung phần hội
Có thể nói phần hội là phần vui nhất mà mọi người đều hào hứng,
mong mỏi nhất, nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí của đông đảo các
tầng lớp nhân dân trong làng và khách thập phương tới xem. Tất cả những
mệt nhọc, nhưng lo toan vất vả trong cuộc sống hàng ngày dường như đã
được giải tỏa và tan biến đi trong những tiết mục sinh hoạt văn hóa hết sức
sôi dộng.
Các trò chơi
* Trò đấu vật : đấu vật là trò chơi thi tài truyền thống có từ rất lâu đời
và được người dân Đồng Thái gắn liền với lễ hội đền Trúc Lâm từ xã xưa.
Đấu vật và tưởng nhớ tới vị anh hùng thượng võ, mô phỏng cuộc tập
luyện của Tướng Phùng Lân Hổ với đội quân của ông. Đấu vật không chỉ
đơn giản đấu bằng sức lực, mà còn cần sự khéo léo, thông minh của các đô
vật.
Hội vật được tổ chức tại sới vật được xây dựng trong lòng hồ thu hút
đại đa phần khán giả xem hô hào cổ vũ rất nhiệt tình. Điều đó chứng tỏ sức
hút, tầm quan trọng của hội vật trong lòng người dân.

* Trò nấu cơm thi: Nấu cơm thi dã có từ rất lâu đời trong lễ hội truyền
thống của đến Trúc Lâm, cũng không kém phần sôi nổi hào hứng như trò
đấu vật. Trong mỗi đội chơi có khoảng 7 – 8 người bao gồm cả trai lẫn gái.
Trong số đó con trai có nhiệm vụ đi lấy nước ở giếng Trại Lác ( giếng


12

Thánh) các chị em phụ nữ ở nhà làm thóc, gạo sạch sẽ đợi nước về đã sạch
và nấu. Ngày xưa, việc nấu cơm được nấu ngay tại chỗ nhưng bây giời nấu
cơm phải chạy quanh sân đền cho đến khi cơm chín và trong khoảng thời
gian Ban tổ chức quy định.
Ngoài hai trò đấu vật và nấu cơm thi lễ hội đền Trúc Lâm còn rất
nhiều trò chơi khác như: trò bắt vịt, đập niêu, kéo co, tổ tôm, cờ tướng, đi
cầu treo, trọi gà.
Những hoạt động sau khi bế mạc lễ hội
Sau khi phần hội kết thúc, đại diện của Ban tổ chức sẽ lên trao giải
thưởng nhất, nhì, ba cho các đô vật, các đội đã xuất sắc dành giải thưởng và
chụp ảnh lưu niệm. Các tiểu ban và các đoàn viên thanh niên có trách
nhiệm thu dọn dụng cụ, đồ vật… khi mọi chuyện được an vị thì các đại
diện mời dân làng, ban tế, đoàn rước ở lại thụ lộc luôn ở sân trước cổng
đền.
Vai trò lễ hội đền Trúc Lâm trong cuộc sống hiện nay
Ý nghĩa của lễ hội đền Trúc Lâm
Như đã giới thiệu ở trên đền Trúc Lâm là nơi linh thiêng thờ cúng vị
thần Phùng Lân Hổ, vị Tướng tài ba có công dẹp giặc Nguyên Mông giúp
dân yên ổn. Lễ hội đền Trúc Lâm góp phần làm thỏa mãn nhu cầu đời sống
tâm linh của con người, là điểm tựa đời sống tinh thần, là trạng thái thăm
hoa từ đời sống hiện hữu của người dân Đồng Thái.
Góp phần liên kết cộng đồng dân cư trong xã với các xã lần cận và

những người xa quê
Lễ hội đền Trúc Lâm là hiện tượng văn hóa của người dân Đồng Thái,
nó đã xiết chặt mối quan hệ giữa con người với con người, con người với
thế giới tâm linh.
Tính cấu kết cộng đồng còn được thể hiện rất rõ trong mối quan hệ
giữa chính quyền Uỷ ban nhân dân xã Đồng Thái cùng người dân và 11 xã
khác cùng thờ vị thần Phùng Lân Hổ. Đối với mọi thành viên trong xã ai
cũng có tinh thần trách nhiệm tham gia vào lễ hội để thờ cúng vị thần của
họ. Lễ hội còn là dịp để các gia đình quây quần bên nhau, là dịp của những
con người xa quê làm ăn về với quê hương, những người thân của họ.
Ngoài những mặt tích cực của lễ hội đem lại thì bên cạnh đó còn có
một số thành phần cá nhân lợi dụng lễ hội để tổ chức các tể nạn xã hội, lạm
dụng lễ hội để làm những việc trái pháp luật làm ảnh hưởng đến tính thiêng
của lễ hội.


13

Đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Hội làng là dịp mỗi cá nhân trong làng được hòa mình và trong không
gian thiêng liêng của lễ hội, mà ở đây cớ sự giao hòa giữa người và thần
trước những tiếng chiêng, tiếng trống vang lên trong ngày hội. Không khí
càng được tưng bừng hơn khi những trò chơi trong phần hội đều phục vụ
được mọi tầng lớp lứa tuổi, những tiếng hò hét la lớn đã hiện trên khuôn
mặt của những người nông dân trong một năm vất vả với đồng ruộng.
Góp phần bảo lưu văn hóa cổ truyền.
Lễ hội là một cách thể hiện phong tục tín ngưỡng của người dân với
thần thánh của họ. Hiện nay lễ hội đền Trúc Lâm ngoài người trong làng
còn có 17 xã khác cùng thờ chung vị thần Phùng Lân Hổ, cứ như thế tiếng
tăm của người sẽ ngày càng được vang xa hơn, lưu truyền từ đời này sang

đời khác và mãi mãi đến thế hệ sau này.
Đánh giá công tác quản lý lễ hội đền Trúc Lâm
Thành tựu
Lễ hội đền Trúc Lâm - nơi lưu trữ, bảo tồn và phát huy các lễ nghi tín
ngưỡng tâm linh, nơi gìn giữ các dấu ấn lịch sử. Những giá trị văn hóa
truyền thống từ bao đời nay, là niềm tự hào lớn của nhân dân xã Đồng Thái
cùng người dân đã có rất nhiều cố gắng trong việc tổ chức, quản lý lễ hội.
Ban tổ chức lễ hội đền Trúc Lâm đã điều hành lễ hội, theo đúng quy định,
đúng chương trình đã được cấp phép, đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo
không khí trang nghiêm, trọng thể trong phần lễ; vui tươi, lành mạnh trong
phần hội. Việc phân công nhiệm vụ trong ban tổ chức được thực hiện một
cách cụ thể, rõ ràng và khiến các bộ phận thực hiện theo đúng chức năng,
nhiệm vụ, đạt được hiệu quả và tránh sự chồng chéo.
Lễ hội được phục dựng theo hướng bảo lưu các yếu tố tích cực của lễ
hội truyền thống, kết hợp với một số yếu tố mới, đề phù hợp với những
văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong phần hội có nhiều trò
chơi, trò diễn dân gian được đầu tư khôi phục, đã góp phần làm phong phú
thêm cho lễ hội, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, văn nghệ của nhân
dân và thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc, như: múa rồng, cờ người,
bắt vịt, đi cầu khỉ đập niêu...
Kết quả của hoạt động lễ hội đền Trúc Lâm thời gian vừa qua cho
thấy, lễ hội đã phát huy được các tiềm năng, thế mạnh của văn hóa, để phục
vụ cho thấy, lễ hội đã phát huy được các tiềm năng, thế mạnh của văn hóa,
để phục vụ cho việc phát triển du lịch, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu văn hóa
tâm linh, giải trí của nhân dân địa phương và các vùng lân cận. Ngoài ra lễ


14

hội được tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo tồn, trùng tu lại

di tích đền Trúc Lâm và tránh sự xuống cấp di tích.
Công tác chỉ đạo, hướng dẫn tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về lễ hội đã được chính quyền địa phương triển khai sâu rộng, bằng các
hình thức nội dung phong phú, đảm bảo đúng các quy định của nhà nước,
góp phần giáo dục nhân dân địa phương, du khách tham gia lễ hội chấp
hành mọi nội quy quy chế lễ hội, ý thức giữ gìn tôn nghiêm nơi thờ tự, gìn
giữ vệ sinh môi trường, an ninh trật tự công cộng. Đồng thời, góp phần tích
cực trong việc tuyên truyền giới thiệu các giá trị của lễ hội.
Công tác nghiên cứu về đền Trúc Lâm được các nhà nghiên cứu sử
học và văn hóa coi trọng. Đã có đề tài nghiên cứu cấp trường, cấp bộ được
thực hiện, nhiều công trình nghiên cứu được in ấn, phát hành phổ biến tới
các cấp chính quyền, ngành văn hóa và các cán bộ làm công tác văn hóa
trong toàn xã. Những công trình nghiên cứu dưới góc độ văn hóa học, sử
học, khảo cổ học sẽ là tiền đề và cơ sở thuận lợi, là kho dữ liệu quý giá
giúp cho các nhà văn hóa, các nhà quản lý lễ hội đi sâu khai thác nghiên
cứu nhắm bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đền Trúc Lâm.
Về cơ sở vật chất
Những năm gần đây đền Trúc Lâm đã nhận được sự quan tâm sát sao
của nhà nước, bộ văn hóa, thể thao và du lịch, UBND thành phố Hà Nội và
các tổ chức đoàn thể xã hội của địa phương trong việc bảo tồn, tôn tạo,
trùng tu di tích đền Trúc Lâm, hay cơ sở hạ tầng của địa phương. Huyện Ba
Vì đã quy hoạch chi tiết mặt bằng tổng thể khu trung tâm lễ hội, đồng thời
hoàn thành một số hạng mục giao thông hạ tầng, trải đường nhựa quanh và
trong làng, tu bổ một số công trình nhỏ, lẻ đã xuống cấp trong xã Đồng
Thái. Đến nay về cơ bản hệ thống đường xá từ trục đường chính dẫn vào
đền Trúc Lâm đã khang trang, sạch đẹp hơn rất nhiều năm về trước. Cải
thiện, nâng cấp, xây dựng cơ sở vật chất mới và tốt hơn, phục vụ cho người
dân trong vùng, đồi sống của cư dân được nâng cao. Những thu nhập đến
từ dịp lễ hội còn hỗ trợ xây dựng, tu sửa đền, nhà văn hóa,
Về công tác quản lý, tổ chức lễ hội đền Trúc Lâm

Nhìn chung, công tác tổ chức và quản lý lễ hội đền Trúc Lâm trong
những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng
trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, nâng cao đời sống
thinh thần của nhân dân, thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ, du lịch.
Ban tổ chức lễ hội đã xây dụng phương án để quản lý bảo vệ môi
trường tự nhiên, môi trường xã hội, đảm bảo an toàn tuyệt đối, hạn chế
được những tiêu cực xảy ra tại nơi tổ chức lễ hội.


15

Công tác an ninh trật tự, an toàn tại lễ hội đền Trúc Lâm đến nay đã
được đẩy mạnh, đảm bảo an toàn cho nhân dân về người và tài sản khi
tham gia lễ hội. Đồng thời, công tác kiểm tra hoạt động văn hóa, dịch vụ
văn hóa trong lễ hội đã được tăng cường và chặt chẽ hơn. Do đó, các hiện
tượng tiêu cực đã giảm xuống đáng kể so với những năm về trước, góp
phần lành mạnh môi trường văn hóa tại khu vực lễ hội trước, trong và sau
thời gian tổ chức lễ hội
Hạn chế và nguyên nhân
Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả được, cũng phải nhìn nhận những mặt còn
hạn chế trong quá trình quả lý tổ chức lễ hội đền Túc Lâm trong những
năm gần đây, thấy được những mặt cần phải khắc phục, để lễ hội phát huy
tính văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc:
Cơ sở hạ tầng phục vụ lễ hội, đặc biệt là hệ thống nhà nghỉ, khách sạn
còn thiếu và nghèo nàn, nên việc bố trí nơi ăn nghỉ cho du khách ở điểm tổ
chức lễ hội lớn, có đông người dự hội có nhiều khó khăn. Các dịch vụ tự
phát mang tính thời vự, chưa có sản phẩm đặc trưng của địa phương bày
bán.
Sự thiếu hụt của Ban Quản lý di tích ảnh hưởng không nhỏ tới việc

bảo tồn, trùng tu di tích và tổ chức lễ hội đền Trúc Lâm. Với hình thức
quản lý dựa vào cộng đồng tồn tajik và kéo dài suốt vài trăm năm, từ khi
dền Trúc Lâm được thành lập tới nay, những mặt hạn chế do không có ban
quản lý di tích, với cơ cấu nhân sự là thành viên của các ban, ngành cấp cao
trực thuộc ủy ban nhân dân xã. Công tác đào tạo còn nhiều bất cập, cán bộ
văn hóa ở xã chưa được đà tạo chuyên mn về quản lý văn hóa. Đặc biệt là
nhân sự trong Ban tổ chức lễ hội, lại chủ yếu là các cụ trong hội người cao
tuổi, hội phục nữ, còn cán bộ hành chính và các lớp thanh niên trẻ trong
làng chiếm số lượng rất ít. Dưới ban tổ chức cũng chỉ có đội bảo vệ không
có các tiểu ban chuyên môn lo các mảng như: Cơ sở vật chất, tài chính, hậu
cần mà công việc chỉ giao theo hướng thuận tiện; tiện ai người đó nhận,
hoặc giao ai người đó lo. Ngoài ra ban văn hóa xã chỉ có 1 đến 2 cán bộ
quản lý chung về các hoạt động văn hóa, nên việc quản lý di tích - lễ hội là
rất khó khăn.
Công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia thực hiện nghiêm
túc các quy định về giữ gìn Di tích lịch sử - văn hóa, bảo vệ môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội còn chưa được thường xuyên. Đây là lễ hội cấp
xã, nên chưa tích cực huy động được các nguồn lực xã họi hóa tham gia
vào hoạt động tuyên truyền, phổ biến lễ hội.


16

Công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo an ninh trật tự kinh doanh dịch
vụ văn hóa công cộng chưa được quản lý chặt chẽ, nên tại lễ hội đôi khi
còn xảy ra các trường hợp như: tổ chức đánh bạc dưới hình thức trò vui
chơi có thưởng, bán hàng rong, chèo kéo khách hàng, treo biển, băng rôn
quảng cáo không đúng quy định, một số hộ kinh doanh không niêm yết giá
các mặt hàng, vấn đề an toàn thực phẩm vẫn chưa được quan tâm sát sao,
dẫn tới nhiều thực phẩm không rõ nguồn gốc được bán tràn lan như xúc

xích, kẹo kéo,... Việc quản lý các gian hàng còn nhiều bất cập, làm cho
không gian lễ hội trở nên chật hẹp, gây cản trở cho đoàn rước kiệu. Hơn
nữa, hệ thống loa âm thanh của các gian bày bán hàng công suất quá lớn,
làm ảnh hưởng tới nghi thức tế lễ trong sân đền.
Lễ hội đền Trúc Lâm là lễ hội cấp làng, xã nên sự quan tâm của
UBND huyện Ba Vì vẫn còn hạn chế. Theo quy chế tổ chức lễ hội ban hành
ản thu kèm theo Quyết định số 39/2001 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông
tin quy định cụ thể việc báo cáo bằng văn bản về tổ chức các lễ hội chỉ có
quy định cho lễ hội, do cấp xã tổ chức trở lên, chưa hề có quy định nào về
lễ hội cấp thôn. Do vậy ban tổ chức lễ hội đèn Trúc Lâm chỉ có báo cáo với
ủy ban huyên Ba Vì vào dịp các năm chẵn, là các năm xã Đồng Thái tổ
chức lễ hội; còn những năm làng tổ chức thì hầu hết không có văn bản, báo
cáo nào. Từ đó cho thấy việc quản lý bằng văn bản còn lỏng lẻo, dẫn tới
tình trạng không rõ ràng và minh bạch về các vấn đề trong việc tổ chức lễ
hội mỗi năm.
Do không có sự thống nhất về nguồn thu nên các khoản thu trong và
sau lễ hội không quy về một mối, gây ảnh hưởng tới việc quản lý, cũng như
thiếu hụt kinh tế để đầu tư cho việc trùng tu di tích, cũng như tổ chức lễ hội
vào năm kế tiếp.
Công tác quảng bá lễ hội đến với du khách còn hạn chế, chủ yếu nằm
ở vấn đề kinh phí ít, không có chiến dịch và chiến lược cụ thể.
Nguyên nhân của hạn chế
Việc quản lý lễ hội đền Trúc Lâm còn có những hạn chế cần khắc
phục, là do những nguyên nhân chủ yếu sau: Đồng Thái là một xã nằm ở
huyện Ba Vì, Hà Nội tuy không có nhiều khó khăn về kinh tế, nhưng sự
phát triển chưa được đồng đều giữa các hộ, nghề.
Sự tham gia của lực lượng bảo vệ tại lễ hội còn lơ là trách nhiệm,
chưa cương quyết trong việc giải quyết các tệ nạn.
Các bậc bô lão thuộc hội người cao tuổi, hội phụ nữ đều là những
người nhiệt huyết, nhưng tuổi đã cao, sức khỏe đều hạn chế và kiến thức về

quản lý văn hóa theo hình thức mới, vẫn không thể nắm bắt kịp thời.


17

Công tác tuyên truyền đối với người dân, du khách thập phương về
thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội chưa liên tục.
Công tác quảng cáo quảng bá về lễ hội cũng như giá trị văn hóa mà lễ
hội đem lại còn hạn chế.
Kinh phí sử dụng cho ban tổ chức lễ hội hạn chế, do nguồn thu các
năm không quy về một mối.
Cơ sở vật chất, giao thông, điều kiện bến bãi chưa đáp ứng được yêu
cầu.
Một số cấp ủy Đảng, chính quyền ở địa phương tổ chức lễ hội chưa
xác định rõ vị trí, vai trò đặc biệt của lễ hội đối với sự phát triển của kinh tế
- xã hội của xã, làng nên chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Sự phối hợp
đồng bộ và liên ngành giữa các cơ quan, đơn vị liên quan lại chưa thật chặt
chẽ; các cấp các ngành chưa có sự chủ động, chưa tích cực tham gia quản
lý lễ hội, mà coi lĩnh vực hoạt động này như công việc riêng của ngành VH
- TT.
Công tác tuyên truyền giới thiệu về lễ hội chưa được quan tâm đầy đủ,
cũng như công tác giáo dục còn nhiều hạn chế, đã dẫn đến tình trạng ý thức
của người tham gia lễ hội chưa được cao. Còn có những tiêu cực, làm ảnh
hưởng đến tính chất thành kính và vui tươi, lành mạnh của lễ hội.
Kinh phí đầu tư cho tổ chức lễ hội còn hạn chế, khiến cho địa phương
tổ chức lễ hội phải huy động nguồn tài trợ của cộng đồng người dân địa
phương, thông qua các hoạt động tuyên truyền, kêu gọi.
Công tác thanh tra kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên, các vi
phạm trong lễ hội, nhất là khu vực kinh doanh các dịch vụ, vui chơi giải trí
và các dịch vụ khác chưa được xử lý kịp thời, chưa đủ sức răn đe.

Giải pháp nâng cao chất lượng công tác tổ chức và quản lý lễ hội
đền Trúc Lâm
Nâng cao nhận thức
Hoàn thiện văn bản pháp quy và tăng cường tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật về lễ hội
Hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách trong quản lý lễ hội,
chúng ta vẫn gặp những khó khăn trong việc quản lý các hoạt động lễ hội
mặc dù đã có nhiều văn bản pháp quy lên quan tới quản lý lễ hội, như: quy
chế tổ chức lễ hội, nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực văn hóa
- thông tin,... trên thực tế một số văn bản quản lý không thống nhất với
nhau, ví dụ tiêu biểu như sản xuất vàng mã ở biểu thuế đặc biệt, có nghĩa là
chấ nhận sự tồn tại của vàng mã, như vậy rất khó hoặc cần phải có nội quy


18

rõ ràng để ngăn chặn nạn đốt nhiều vàng mã gây tốn kém lãng phí ở các lễ
hội.
Dù những quy định xử phạt trong luật rất rõ ràng, nhưng các cơ quan
thi hành luật thường cả nể, hoặc vì tình thân nên bỏ qua, dẫn tới việc hiệu
quả của quy định xử phạt chưa cao. Những quy định khen thưởng, tôn vinh
người đã làm tốt công tác hoạt động tại lễ hội lại quá chung chung, trong
khi nên gắn quyền lợi của các tổ chức, các nhân đã đóng góp công sức để
bảo tồn phát huy giá trị lễ hội, như: cho phép họ gắn tên lên những tặng
phẩm cung tiến, công trình xây dựng đã đóng góp,...
Văn bản được ban hành chưa đồng bộ giữa các cấp, ngành và địa
phương, nên có hiện tượng văn bản chỉ tồn tại trên giấy tờ, hoặc thực hiện
văn bản chưa quy củ, chưa đúng với quy định của nhà nước, nhưng vẫn
phiên phiến cho qua. Vì vậy để giải quyết tình trạng này chúng ta cần tăng
cường giám sát công tác quản lý hành chính, từ cấp trung ương xuống địa

phương, hình thức xử lý cần cứng rắn và có biện pháp răn đe cụ thể.
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục và nâng cao
nhận thức cho người dân
Để lễ hội phản ánh đúng bản chất tốt đẹp truyền thống, thì chính
quyền địa phương cần đổi mới phương thức tổ chức, lập kế hoạch chi tiết
cho lễ hội, lấy yếu tố truyền tải bản sắc văn hóa dân tộc, thực hành trung
thực, sinh động phong tục, tập quán cổ truyền, nhằm gây ấn tượng cho
những người cùng tham gia lễ hội.
Do những năm qua, công tác thông tin truyền thông ở lễ hội đền Trúc
Lâm còn nhiều hạn chế. Ban tổ chức chưa có kế hoạch truyền thông cụ thể,
một vài năm có tuy nhiên chỉ là làm qua loa, không cẩn thận và không
mang lại hiệu quả cao. Các giá trị văn hóa lễ hội cần được tôn vinh, cần
được phát huy dưới góc độ kinh tế du lịch, như một tài sản văn hóa đặc
trưng để thu hút sự quan tâm ngày càng tăng của du khách trong, ngoài tỉnh
và khách quốc tế. Đây là hướng quy hoạch rất tốt để trên cơ sở bảo tồn di
tích gốc, phục hồi, duy trì và phát triển các sinh hoạt văn hóa, trong đó có
sinh hoạt lễ hội.
Chú trọng công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ những giá trị
văn hóa, lịch sử của lễ hội, trân trọng và tích cực chủ động phát huy các giá
trị đó trong đời sống cộng đồng hiện nay.
Phát huy vai trò của cộng đồng
Từ xa xưa, cộng đồng luôn giữ vai trò là chủ thể của các lễ hội, hiện
nay những người làm công tác văn hóa di sản đều có nhận thức chung: bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa là trách nhiệm trước hết của cộng đồng.


19

Xét cho cùng việc tổ chức, quản lý lễ hội là xuất phát từ nhu cầu
hưởng thụ văn hóa, nhu cầu mong muốn tham dự lễ hội của nhân dân. Vì

vậy, vai trò của người dân trong mọi quá trình tổ chức, trong quản lý lễ hội
là hết sức quan trọng. Do vậy, việc quản lý lễ hội không chỉ là trách nhiệm
của nhà quản lý, mà còn là của người dân địa phương và thậm chí của cả du
khách.
Nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác văn hóa
Kiện toàn tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý
Công tác chuẩn bị các điều kiện đảm bảo cho lễ hội, cần có sự phân
cấp quản lý một cách chặt chẽ, quy củ, nhất quán cao, điều đó đòi hỏi sự
phối hợp, thống nhất trong ban chỉ đạo và ban tổ chức lễ hội.
Thành lập ban quản lý lễ hội
Tăng cường đầu tư và thu hút nguồn lực xã hội
Đầu tư tu bổ, tôn tạo đền Trúc Lâm, bảo tồn không gian văn hóa của
lễ hội.
Việc đầu tư tài chính cho các lễ hội được coi như các chính sách đầu
tư đã được đề cao trong giai đoạn hiện nay, nhằm tôn vinh truyền thống dân
tộc, các anh hùng lịch sử. Việc khai thác phát huy tinh thần tự nguyện của
cộng đồng tham gia lễ hội, cần có chính sách quan tâm hỗ trợ kinh phí từ
ngân sách nhà nước ở các cấp, để tổ chức lễ hội có nhiều giá trị văn hóa
đặc sắc, có khả năng thu hút khách du lịch, mang lại lợi ích cho địa phương
Để quy hoạch bảo tồn lễ hội đền Trúc Lâm, cần phải tiến hành tổng
thể nghiên cứu kiểm kê, rà soát trong quá trình diễn ra lễ hội, tránh pha tạp
lai căng làm mất đi bản sắc. Trên cơ sở đó tính toán các nguồn lực, năng
lực quản lý và điều hành hoat động của chính quyền địa phương sở tại.
Đánh giá lại các giá trị di sản văn hóa được lưu giữ để bảo tồn, phát huy.
Phải đảm bảo được không gian tổ chức lễ hội, bao gồm: diện tích đất phục
vụ các hoạt động hội hè, hàng quán, bến bãi,... Việc bố trí đất đai cho hoạt
động lễ hội phải tuân thủ các quy định của luật di sản, luật đất đai, luật bảo
vệ môi trường... để đảm bảo hài hòa với quy hoạch tổng thể chung.
Thu hút nguồn lực xã hội.
Công tác xã hội hóa huy động các nguồn lực tham gia vào tổ chức,

quản lý lễ hội đền Trúc Lâm cần được đẩy mạnh, cần được thực hiện tốt
hơn. Cần thu hút được sự tham gia đầu tư, hỗ trợ của các cấp, các ngành,
các cá nhân, tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội. Song song đó vẫn là động
viên mọi tầng lớp nhân dân, tích cực tham gia các hoạt động sáng tạo và
phổ biến sản phẩm văn hóa, hướng dẫn khách tham quan đảm bảo an ninh
trật tự, an toàn giao thông...


20

Việc đầu tư tài chính cho các lễ hội được coi như các chính sách đầu
tư đã được đề cao trong giai đoạn hiện nay, nhằm tôn vinh truyền thống dân
tộc, các anh hùng lịch sử. Bên cạnh việc khai thác, phát huy tinh thần tự
nguyện của cộng đồng người dân tham gia lễ hội, cần có chính sách quan
tâm hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước ở các cấp, để tổ chức lễ hội có
nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, có khả năng thu hút khách du lịch, mang lại
lợi ích cho địa phương.
Quảng bá lễ hội đền Trúc Lâm
Trong xa thế toàn cầu hóa, cuộc sống hiện đại được tác động về mọi
mặt, kể cả văn hóa diễn ra khắp toàn thế giới. Một mặt giúp chúng ta được
tiếp cận với các nền văn hóa mới, quảng bá hình ảnh đất nước và văn hóa
dân tộc. Mặt khác lại mang đến những nguy cơ mai một, biến tấu về văn
hóa, nhất là các giá trị văn hóa phi vật thể, trong đó có lễ hội. Bởi vậy, việc
tuyên truyền quảng bá sâu rộng, trước mắt, cũng như lâu dài về di tích lịch
sử văn hóa góp phần giữ gìn, kế thừa truyền thống của dân tộc là hết sức
cần thiết.
Trên thực tế, tổ chức lễ hội nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục chủ
nghĩa yêu nước, quảng bá hình ảnh thương hiệu và các sự kiện hoạt động
mang tính kinh doanh, dịch vụ. Ban tổ chức lễ hội câng chủ động biên tập
chi tiết về lễ hội, thời gian, địa điểm và nội dung lễ hội, các trò chơi trong

lễ hội để phát thường xuyên tại lễ hội, các đài phát thanh của phường, xã,
tất cả nhằm quảng bá, thu hút khách thập phương đến với lễ hội đền Trúc
Lâm. Ban tổ chức cần lập ra kế hoạch quảng bá lễ hội đền Trúc Lâm sâu,
rộng, để đông dảo khách thập phương xa gần biết đến và tham dự. UBND
huyện, xã chủ trì, chỉ đạo ban tổ chức lễ hội phối hợp với phòng văn hóa thông tin, đài phát thanh thành phố, các báo đài của tỉnh và trung ưowng tổ
chức họp báo, thông cáo báo chí về kế hoạch tổ chức và nội dung lễ hội để
báo đài, truyền hình đưa tin đến nhân dân, đến khách thập phương. Bên
cạnh đó tại khuôn viên đền Trúc Lâm và các trục đường chính về đền, nên
dựng nhiều pano về hình ảnh lễ hội, chương trình lễ hội, sơ đồ,... để du
khách thập phương tiện theo dõi.


21

KẾT LUẬN
Tổ chức lễ hội là dịp bày tỏ lòng thành kính, sự tri ân của nhân dân đối
với các thế hệ tiền nhân, các vị anh hùng có công mở làng, dựng nước,
đánh đuổi giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi, những người có công chinh phục
tự nhiên, tạo dựng cuộc sống tốt đẹp trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Lễ hội là nơi thể hiện ý thức cộng đồng
và là trung tâm tích tụ văn hóa nghệ thuật. Lễ hội là dịp tốt để mọi người
tham gia sáng tạo, hưởng thụ văn hóa nghệ thuật truyền thống và hiện đại,
là cơ hội để phát triển văn hóa, nguồn động lực để thúc đẩy phát triển kinh
tế, xã hội, trong đó có phát triển du lịch, không chỉ của cộng đồng địa
phương mà còn của cả quốc gia.
Những bất cập của lễ hội Trúc Lâm trong thời gian qua, sẽ là một kinh
nghiệm quý giá trong công tác quản lý với các lễ hội, đang và sẽ phục hồi.
Để tránh sảy ra các hiện tượng như vậy sau này, ban tổ chức phải nghiên
cứu, tìm hiểu xu hướng xã hội mới, trên cơ sở đó có tính dự báo trước, để
kịp thời có hướng quản lý cho phù hợp. Bên cạnh đó, quản lý lễ hội luôn

cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, người dân địa phương và
các ban ngành liên quan. Những vấn đề đã và đang đặt ra cho việc tổ chức,
quản lý lễ hội đền Trúc Lâm hôm nay, có thể phát sinh do những quyết định
quản lý của quá khứ để lại. Điều quan trọng ở đây là chúng ta phải khẳng
định, lễ hội đền Trúc Lâm thực sự đang tồn tại và có vai trò nhất định trong
sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế,
xã hội của người Ba Vì.


22


23



×