Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tuan 25 lop 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.4 KB, 26 trang )

Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
Tuần 25 - Bài 24
TIẾT 121: SANG THU
A. Mục tiêu cần đạt.
Giúp học sinh:
Phân tích được những cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang
đầu thu
- Rèn luyện thêm năng lực cảm thụ thơ ca.
B. Tổ chức các hoạt động dạy và học.
1. Kiểm tra bài cũ
- Đọc thuộc lòng và diễn cảm bài thơ: “Viếng lăng Bác”
- Phân tích một trong những hình ảnh ẩn dụ mà em tâm đắc nhất (hàng tre, mặt trời, vầng trăng, trời xanh,
con chim, bông hoa….)
2. Giới thiệu:
- Đất nước ta có bốn mùa Xuân - Hạ - Thu- Đông. Mùa nào cũng đẹp! Mùa nào cũng yêu! Thiên nhiên
bốn mùa ấy theo thời gian thay nhau ban tặng cho con người những sắc màu tươi mới, những nét duyên
thơ mộng của riêng mình. Mùa thu là đề tài gợi nhiều cảm xúc với thi nhân nhưng mỗi người lại lưu dấu
ấn về mùa thu bằng những nét riêng trong trẻo. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng góp cho mùa thu ở miền Bắc
Việt Nam một làn hương mới trong “Sang thu”.
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt
*Hoạt động 1: Tìm hiểu chung về bài thơ
? Nêu những nét hiểu biết về tác giả?
- GV cho hs xem chân dung tác giả và bổ sung tư liệu về nhà văn
Hữu Thỉnh.
- Hữu Thỉnh là nhà thơ thuộc thế hệ chống Mỹ cùng Phạm Tiến
Duật, nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm. Có bài hát rất nổi tiếng
được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc từ thơ của Hữu Thỉnh là:
“Năm anh em trên một chiếc xe tăng”.
- Là nhà thơ viết nhiều và hay về những con người, cuộc sống ở
nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm
xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến


chuyển nhẹ nhàng.
? Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?

Bài thơ được làm theo thể thơ gì? Phương thức biểu đạt của
bài thơ?
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả:
- Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm
1942 - quê ở Tam Dương - Vĩnh
Phúc
- Là nhà thơ chiến sĩ trưởng thành
trong kháng chiến chống Mỹ.
- Thơ Hữu Thỉnh ấm áp tình
người và giàu sức gợi cảm.Ông
viết nhiều và hay về con người,
cuộc sống ở nông thôn về mùa
thu.
- Có nhiều tập thơ, trường ca nổi
tiếng.
- Hiện là Chủ tịch Hội nhà văn
Việt Nam.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
+ 1977, in lần đầu trên báo văn
nghệ, in lại nhiều lần trong các tập
thơ.
+ Rút từ tập “Từ chiến hào đến
thành phố”, NXB Văn học, Hà
Nội, 1991
b. Thể thơ: Năm tiếng - ngũ ngôn

LVC – K9 - 2
1
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
Chúng ta cùng tìm hiểu cách đọc bài thơ?
? Bài thơ có mấy khổ? Có gì đặc biệt trong cách trình bày bài
thơ? Theo con nên đọc như thế nào?
- Bài thơ có 3 khổ. Mạch cảm xúc dâng trào trong suốt cả bài
thơ nên cả bài đọc với giọng tình cảm nhẹ nhàng và lưu ý giọng
đọc riêng ở từng khổ.
+ Khổ 1: đọc với giọngthiết tha nhấn vào các từ ngữ thể hiện
tâm trạng ngỡ ngàng, xao xuyến của tác giả.
+ Khổ 2: Đọc giọng nhẹ nhàng, lúc mau, lúc chậm rãi, khoan
thai để làm nổi bật được hình ảnh thơ đẹp.
+ Khổ 3: Đọc với giọng trầm lắng, thoáng suy tư, chú ý ngắt ở
một số từ.
Gọi 2 hs đọc. Sau khi đọc, con thấy nhà thơ muốn nói gì qua
bài thơ?
=> Mùa thu không chỉ làm rung động lòng thi nhân mà còn đem
đến cho ta những xúc cảm nhẹ nhàng, êm ái gợi nhiều thương
nhớ bâng khuâng…. Chỉ một bài thơ ngắn nhưng có nhiều hình
ảnh đặc sắc, gợi cảm đã cho thấy cảm nhận tinh tế của nhà thơ
khi thiên nhiên đất trời chuyển từ hạ sang thu. Vậy chúng ta
cùng tìm hiểu bài thơ theo từng khổ, để thấy rõ điều đó.
*Hoạt động2: hướng dẫn phân tích bài thơ
- Đọc diễn cảm khổ 1.
?Từ “bỗng” trong câu thơ 1 diễn tả trạng thái nào trong cảm
nhận của nhà thơ?
-> Ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên.
? Mùa thu hình như đã về và nhà thơ bỗng nhận ra điều gì
vậy? Nhận ra bằng những giác quan nào?

- Hương ổi, gió se, sương chùng chình.
- Giác quan: khứu giác, xúc giác, thị giác.
? Dấu hiệu đầu thu được nhà thơ cảm nhận từ “hương ổi”.
Điều đó có ý nghĩa gì? Tại sao?
Thu được cảm nhận từ nơi làng quê, trong cảm nhận của người
sống gắn bó với làng quê, các dân tộc ở phía Bắc đất nước (Cây
ổi, quả ổi là thứ cây, quả, gần gũi quen thuộc với người dân quê
miền Bắc). Mùi quả chín, ổi chín, mùa ổi đã từng trở thành nhan
đề cho cả một bộ phim truyện nổi tiếng, ở đây đã thành mùi
hương của mùa thu miền Bắc VN.=> Cho thấy sự gần gũi, gắn
bó của con người với chốn quê.
?Hương ổi phả vào trong gió se”. Em hiểu từ “phả” và từ “gió
se” như thế nào? Nêu cảm nhận của con về hai câu thơ đầu?
- Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả mùi hương ổi thơm nồng nàn
lan toả. (có thể thay bằng các từ “thổi”, đưa, bay, lan, tan….
Nhưng cả bấy nhiêu từ đều không có cái nghĩa đột ngột, bất
ngờ).
- Gió se: gió hơi khô, lạnh.
- Cảm nhận: Hương ổi thơm nồng nàn, quyến rũ phả hương
thơm vào gió thu se lạnh lan toả khắp không gian => thức dậy
không gian vườn ngõ.
GV chốt, chuyển ý:
Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu thu là hương ổi, làn gió và
sương thu. Nhưng không phải là “sương thu man mác đầu
c. Phương thức biểu đạt: trữ tình
kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
d. Đọc bài thơ:
II. Phân tích.
1. Khổ thơ 1:
- Hương ổi lan vào không gian,

phả vào gió se.
- Sương chùng chình: -> Sương
đầu thu giăng mắc nhẹ nhàng,
chuyển động chầm chậm nơi
đường thôn ngõ xóm.
=> Dấu hiệu thu sang bảng lảng,
mơ hồ.
LVC – K9 - 2
2
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
ghềnh” của Tản Đà mà là : “Sương chùng chình qua ngõ”.
? Con hiểu “chùng chình” nghĩa là gì? Hình ảnh thơ “sương
chùng chình qua ngõ” gợi cho con sự hình dung, liên tưởng
như thế nào?
? Có thể thay từ “chùng chình” bằng các từ ngữ khác như:
dềnh dàng, lững thững, đủng đỉnh được không? Vì sao?
- Chùng chình: từ láy gợi hình, không thể thay bằng từ “dềnh
dàng”, đủng đỉnh, chầm chậm, lững thững… vì nó không nổi bật
được tâm trạng của sương thu. Dùng từ “chùng chình” có cái hay
riêng. Tác giả đã nhân hoá làn sương. Nó bay (đi) qua ngõ nhà
có vẻ cố ý chậm hơn mọi ngày. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ
khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người thiếu
nữ còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai……
? Nhưng vì sao nhà thơ lại viết lời thơ cuối đoạn: “hình như
thu đã về”? Cách nói đó bộc lộ cảm xúc gì?
Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ
ngàng nên cả khứu giác, cả xúc giác và thị giác đều như mách
bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. Từ “hình như” là
sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên
trong cái cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ.

? Từ đó, em cảm nhận được điều gì từ tâm hồn nhà thơ trước
thu?
Tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu
với tình yêu tha thiết.
* Chốt : Khổ thơ nói lên những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về
cảnh sang thu của đất trời. Thiên nhiên được cảm nhận từ những
gì vô hình (hương, gió), mờ ảo (sương chùng chình), nhỏ hẹp và
gần (ngõ). Đó là những cảm nhận rất riêng của nhà thơ.
=> Tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc
bâng khuâng qua các từ “bỗng”,
“hình như”.
=>Thiên nhiên sang thu được Hữu
Thỉnh cảm nhận qua nhiều yếu tố,
bằng nhiều giác quan và sự rung
động thật tinh tế.
Chuyển ý:
Không gian nghệ thuật của bức tranh sang thu không chỉ dừng
lại trong cảm nhận của nhà thơ mà còn lan toả trong cái nhìn xa
hơn, cao hơn, nhiều tầng bậc hơn ở những khổ thơ tiếp theo.
*Theo dõi khổ thơ thứ hai.
Thiên nhiên sang thu tiếp tục được phát hiện qua những
hình ảnh thơ nào?
Con hiểu từ “dềnh dàng” và từ “vội vã” như thế nào?
Tại sao tác giả lại viết “Sông được lúc dềnh dàng- Chim
bắt đầu vội vã?
- Sự vận động của thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được
cụ thể hoá bằng những đổi thay của vạn vật. Sông lúc sang thu
không còn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa lũ, mà êm
ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm xuống. Một chữ “dềnh
dàng” mà nói lên được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả của con

sông mùa thu, ngỡ như nó được nghỉ ngơi thoải mái khi mùa
nước lũ cuồn cuộn đã đi qua.
- Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã
bay về tổ trong buổi hoàng hôn.
2. Khổ thơ 2:
- Sông: dềnh dàng
- Chim vội vã
- Mây vắt nửa mình….
+ Dềnh dàng: chậm chạp, thong
thả, một cách cố ý.
+ Vội vã: hối hả, gấp gáp, khẩn
trương.
=> Đều là từ láy, phép đối lập
tương phản, nghệ thuật nhân hoá
=> Cảnh vật trở nên sống động có
hồn. Thu sang được cụ thể hoá
bằng những hình ảnh quen thuộc
mà vô cùng tinh tế, chính xác về
LVC – K9 - 2
3
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
- từ bắt đầu” trong ý thơ được dùng rất độc đáo “bắt đầu vội vã”
chứ không phải là “đang vội vã”. Phải tinh tế lắm, yêu và gần
gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong
những cánh chim bay.
?Nêu cảm nhận của em về lời thơ: có đám mây mùa hạ,
vắt nửa mình sang thu”?
- Vắt, đặt ngang qua một vật khác và để cho buông thõng xuống
(theo từ điển tiếng Việt). Người ta thường nói: khăn vắt vai, con
đường mòn vắt ngang sườn núi….

- Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình hai nửa của một
đám mây thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng
chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc
giao mùa.Trong “chiều sông thương”, ông cũng có một câu thơ
tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố
Hạ.”
- Đám mây vắt nửa mình sang thu, lối diễn đạt, sự liên tưởng
thật thần tình độc đáo. Sự thực không có đám mây nào như vậy
vì làm sao có sự phân chia rạch ròi, mắt ta nhìn thấy được. Đó là
đám mây của trí tưởng tượng, liên tưởng. Đó là cảm nhận tinh tế
của một thi sĩ đang say thời khắc chuyển mùa này. Nhà thơ đã
lấy sự vận động của không gian để miêu tả sự vận động của thời
gian.
- Cái “vắt nửa mình” ngập ngừng duyên dáng của đám mây, trên
bầu trời lúc giao mùa đã đưa người đọc về với không gian và
thời gian khi “sang thu” thật đẹp và cũng thật khêu gợi “hồn
thơ”: Có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu”.
? Em cảm nhận được tâm hồn thơ Hữu Thỉnh như thế
nào?
Chuyển:Khúc giao mùa của không gian và thời gian khi
sang thu còn được thể hiện ở chiều sâu suy ngẫm trong khổ
cuối.
*Theo dõi khổ thơ cuối.
? Con người còn cảm thấy những biểu hiện khác biệt
nào của thời tiết khi chuyển từ hạ sang thu?
? nhận xét gì về cấu trúc câu trong hai câu thơ: “Vẫn
còn bao nhiêu nắng. Đã vơi dần cơn mưa”? Tác dụng
của cấu trúc câu đó?
Những cảm nhận về biểu hiện thiên nhiên đó gợi cho
con liên tưởng nào không?

GV: Các từ ngữ : “vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất ngờ” vừa
cho thấy, vẫn còn đó dấu ấn, vẫn còn đó dư âm của mùa hạ.
Nhưng tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc
trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Nắng cuối hạ vẫn
còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những ngày giao mùa này
đã ít đi những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ. Sấm cũng bớt đi…
- Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ cảm xúc giao
mùa của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên
nhiên.
thời điểm giao thoa của hai mùa:
hạ - thu. Dòng sông trôi một cách
thanh thản gợi lên vẻ êm dịu của
bức tranh thiên nhiên, những cánh
chim bắt đầu vội vã ở buổi hoàng
hôn.
+ Đám mây mùa hạ vắt nửa mình
sang thu.
=> Hình ảnh nhân hoá bất
ngờ,cảm giác giao mùa được diễn
tả thú vị => Gợi hình ảnh làn mây
mỏng nhẹ, kéo dài của mùa hạ còn
sót lại trên bầu trời tôn thêm vẻ
đẹp của bầu trời sang thu. Chất
liên tưởng và chất thi sĩ đã diễn tả
một cảm xúc thật đẹp về không
gian và thời gian chuyển mùa thật
sinh động, nhẹ nhàng.
* Hình ảnh thơ được tạo bằng
cảm nhận tinh tế, kết hợp với trí
tưởng tượng bay bổng. Diễn tả sự

thay đổi của đất trời theo tốc độ
chuyển động từ hạ sang thu (có cái
chậm, có cái nhanh) nhẹ nhàng mà
rõ rệt, sinh động.
* Qua đó ta cảm nhận được hồn
thơ giàu xúc cảm, thiết tha với quê
hương đất nước của nhà thơ.
3. Khổ thơ ba:
- Vẫn còn… nắng
- Vơi dần… mưa
- Sấm…. bớt bất ngờ
- Hàng cây đứng tuổi.
=> Đảo cấu trúc câu =>Tác dụng:
Khẳng định sự giao mùa.
=> Gợi liên tưởng nhớ về mùa hạ.
=> Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tất
cả còn những dấu hiệu của mùa hạ
nhưng giảm dần mức độ, cường
độ và đang lặng lẽ vào thu.
LVC – K9 - 2
4
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
GV chuyển ý: “Sang thu” mang đậm chất dân gian và hơi thở
làng quê đồng thời cũng cho thấy sự suy ngẫm của con người.
GV Yêu cầu hs đọc: 2 câu cuối.
Có ý kiến cho rằng, hai câu cuối của bài thơ vừa có tính
tả thực, vừa mang hàm ý sâu xa, Con có đồng ý không?
Tại sao?
- Hai dòng cuối bài gợi ta liên tưởng đến một tầng ý nghĩa khác
– ý nghĩa về con người và cuộc sống.

+ Sấm: những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc
đời.
+ Hàng cây đứng tuổi: hình ảnh gợi tả những con người từng trải
đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc
đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng.
Hai câu kết đã khép lại bài thơ vừa là hình ảnh thiên nhiên sang
thu, vừa là suy nghĩ chiêm nghiệm về bản thân, về con người, về
đât nước. Nó vừa trang nghiêm chững chạc, vừa bâng khuâng
khiêm nhường nhưng cũng đầy tự hào kiêu hãnh.
Hoạt đông 3: tổng kết.
?Sự thành công về nội dung của bài thơ nhờ những yếu
tố nghệ thuật nào?
?Con cảm nhận về nội dung bài thơ như thế nào?
? Mùa thu là thời điểm giao cảm của tâm hồn con người
với thiên nhiên, tạo vật thaàn một truyền thống thi ca về
mùa thu. Em còn biết những bài thơ nào khác?
? Từ đó em còn thấy đóng góp mới của thơ Hữu Thỉnh là
gì?
- HT không viết về thời điểm trong thu (thu điếu), cuối thu (Đây
mùa thu tới) mà là thời điểm chớm thu. Gắn sang thu thời tiết
với đời người sang thu.
- HT đã có đóng góp mới cho mùa thu thi ca thêm phong phú.
Hoạt động 4: Luyện tập.
- Hai dòng cuối vừa mang nghĩa tả
thực, vừa tượng trưng:
+ Tả thực về thiên nhiên: Lúc thu
sang, bớt đi những tiếng sấm bất
ngờ.Hàng cây không còn bị bất
ngờ bị giật mình vì tiếng sấm nữa.
+Tượng trưng: Nhà thơ liên tưởng

đến những thay đổi của mùa thu
đời người:Khi con người đã từng
trải thì cũng vững vàng hơn trước
những tác động bất thường của
ngoại cảnh, của cuộc đời -> càng
vững vàng, tự tin hơn.
III.Tổng kết.
1. Nghệ thuật.
- Thể thơ 5 chữ. Sử dụng những
từ ngữ, từ láy, giàu hình ảnh, gợi
cảm.
- Từ ngữ đối lập, các phép tu từ,
nhân hoá, ẩn dụ.
2. Nội dung.
- Bài thơ thể hiện những cảm xúc
tinh tế của nhà thơ khi đất trời
chuyển mùa từ hạ sang thu.
- Thể hiện lòng yêu thiên nhiên,
tha thiết của nhà thơ.
IV> Luyện tập.
Trong bài thơ, con thích nhất hình
ảnh thơ nào? Hãy nêu cảm nhận
của con về hình ảnh thơ đó?
Hướng dẫn học bài:
- Học thuộc bài thơ.
- Phân tích hình ảnh: có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu. Hình ảnh này thú vị, mang chất
thơ và gợi lên đúng thời khắc lúc giao mùa như thế nào?
- Tìm thêm những câu thơ khác nói về mùa thu, chép vào sổ tay văn học để làm tư liệu. Ví dụ:
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

- Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
- tìm thêm trong Truyện Kiều, ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, bài “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư,
Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi….
- Soạn bài : Nói với con
Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) Chiều sông thương (Hữu Thỉnh)
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Đi suốt cả ngày thu
LVC – K9 - 2
5
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy, xương mỏng manh
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Mẩy vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì…..
(Thơ Thơ, 1938)
Mùa thu vàng sáng.
Mùa thu vàng sáng tới rồi đây
Áo nắng em phơi gió thổi đầy
Áo trắng hai tà phơ phất hoá

Áo vàng em mặc cánh thu bay
Những lá thu xanh điểm chút vàng
Tóc em ngược nắng toả hào quang
Em đi, đôi cánh tay bên ngực,
Như một lâu đài giữa ánh dương
Cứ đến mùa này anh thêm yêu
Hồn giang thêm cánh đến bao nhiêu!
Biếc trời, trong nước, xa thanh núi
Cao rộng tình ta, rực ráng chiều.
(7/ 1966. Trong tập “Hồn tôi đôi cánh”)
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng câu quan họ
Nở tím bên sông Thương
Nước vẫn nước đôi dòng
Chiều uốn cong lưỡi hái
Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên
Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ
Lúa cúi mình giấu quả
Ruộng bời con gió xanh
Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi
Mẹ đã thò lá mới
Trên lớp bùn sếnh sang
Cho sắc mặt mùa màng
Đất quê mình thịnh vượng
Những gì ta gửi gắm
Sắp hoe vàng bốn bên
Hạt phù sa rất quen

Sao mà như cổ tích
Mấy cô coi máy nước
Mắt dài như dao cau
ôi con sông màu nâu
Ôi con sông màu biếc
Dâng cho mùa sắp gặt
Bồi cho mùa thu phai
Nắng thu đang trải đầy
Đã trăng non múi buởi
Bên cầu con ghé đợi
Cả chiều thu sang sông.
(10- 1973)
LVC – K9 - 2
6
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
Đến với bài thơ hay: Xa vắng của Hữu Thỉnh
Xa vắng quá bồn chồn đi hỏi cát
Đường đông người đâu nhỉ dấu chân em
Xa vắng quá một mình đi hỏi bến
Người sang đò có dặn sóng gì thêm
Xa vắng quá tần ngần đi hỏi chợ
Người mua gương dạo ấy có hay về
- Người mua gương chỉ một lần trở lại
Soi tưng bừng rồi lặng lẽ quay đi
1999
HỮU THỈNH
Lại thêm một bài thơ đúng nghĩa thơ tình của một thi sĩ rất mực tài hoa, từng một thời mặc áo lính. Nhà thơ Hữu Thỉnh tuổi Nhâm Ngọ
(1942), quê ở làng Phước Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nho học,
dù vất vả cực nhọc từ tấm bé nhưng ngọn lửa đam mê học vấn vẫn không thôi cháy bỏng trong tâm trí ông. Giống như bao chàng trai trẻ
cùng thời, tốt nghiệp phổ thông, Hữu Thỉnh lên đường nhập ngũ. Là một người lính của Binh chủng Tăng - Thiết giáp, ông đã tham gia

chiến đấu trên nhiều chiến trường ác liệt thời chống Mỹ. Khói lửa chiến tranh và hiện thực cuộc sống chiến đấu sôi động đã thôi thúc ông
cầm bút ghi lại những điều cảm nhận được. Người yêu thơ từng say sưa đón nhận bài thơ “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” của Hữu
Thỉnh nói về tình đồng đội keo sơn gắn bó. Bài thơ được phổ nhạc và nhanh chóng chiếm được cảm tình sâu đậm của đông đảo thính giả,
đặc biệt là những người lính. Ngay từ năm 1973, ông đã đoạt giải Ba cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ. Con đường thơ của ông càng đi
càng rộng mở, đắm say, dào dạt. Năm 1976, một lần nữa Hữu Thỉnh lại bước lên bục nhận giải A cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ (Hội
Nhà văn Việt Nam).
Chiến tranh kết thúc, nhà thơ Hữu Thỉnh vào học ở Trường viết văn Nguyễn Du khóa đầu tiên. Tốt nghiệp, ông về làm biên tập và lần lượt
đảm trách các cương vị: Trưởng ban Thơ rồi Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1990, Hữu Thỉnh giữ chức Tổng Biên
tập Tuần báo Văn nghệ. Ông liên tiếp được bầu vào Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 3, 4, 5, 6. Hiện nay, nhà thơ Hữu
Thỉnh là Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông là tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng, trong đó có hai tập trường ca: “Đường tới thành phố” và “Sức bền của đất” giành được nhiều
giải thưởng danh tiếng. Không chỉ viết thật hay về người lính trên các lĩnh vực, Hữu Thỉnh còn sáng tác rất nhiều thơ tình. Lại vẫn là cách
tìm tòi thể hiện luôn mới mẻ trước những chuyện tưởng như rất xưa cũ. Ngòi bút thông minh, phong cách lịch lãm cộng với cốt cách văn
hóa đã khiến cho thơ tình của ông luôn có sức cuốn hút người đọc.
“Xa vắng” là một câu chuyện tình vu vơ thoáng qua, mới nghe tưởng chừng rất vô lý. Một gã tình si lang thang đi tìm về nơi chốn cũ. Tìm
ai vậy? Xa vắng quá bồn chồn đi hỏi cát/Đường đông người đâu nhỉ dấu chân em. Chỉ biết rằng bấy lâu chưa được gặp nhau, gã đứng ngồi
không yên cho nên gã phải đi tìm vậy. Nhưng biết tìm đâu bây giờ bởi trở đi mắc núi trở lại cách sông mất rồi. Chẳng biết hỏi ai, thôi thì
đành hỏi cát. Khởi đầu là một sự vu vơ, nhưng có lý bởi cát biết ôm giữ vào lòng cát những kỷ niệm êm đềm của thời hai người yêu nhau.
Cát chứng kiến mối tình của hai người và biết cất giữ cái điều thiêng liêng nhất cho họ. Nhưng trước họ và sau họ đã có bao cặp tình nhân
tìm đến với cát, vậy thì làm sao cát có thể là của riêng ai? Gã tình si cứ một mình đếm cát, cứ tẩn mẩn đi tìm và tự hỏi: Đâu nhỉ dấu chân
của em ta ngày ấy?
Xa vắng quá một mình đi hỏi bến/Người sang đò có dặn sóng gì thêm. Lại thêm một sự vu vơ nữa. Hỏi bến ư? Có mà hỏi suốt ngày, bởi
người đi thì nhớ bến chứ bến làm sao mà nhớ cho xuể ai với ai. Mà hỏi gì kia chứ? Hỏi người sang đò nghĩa là dò hỏi xem cô ấy có nhắn
lại điều gì chăng? Đến đây thì mọi sự đã rõ. Người yêu của gã đã đi lấy chồng. Con sáo đã sang sông. Biết vậy nhưng gã vẫn cố vớt vát để
tự an ủi lòng mình. Tại sao nàng không dặn bến mà lại đi dặn sóng nhỉ? Thì ra, nàng đâu có thể dứt bỏ mọi thứ một cách dễ dàng được, nên
chi lúc sang sông trong lòng nàng cũng nổi sóng chớ đâu có được yên ả. Giả dụ nếu đem từ bến thay từ sóng, hẳn câu thơ sẽ nhẹ hều.
Từ sự bồn chồn, gã tình si day dứt đi tìm, nhưng hết hỏi cát đến hỏi bến mà vẫn mờ mịt bóng chim, tăm cá. Gã nuốt cục nghẹn chôn chặt
đáy lòng. Biết vậy, nhưng “chút nghĩa cũ càng” cứ cựa quậy trong tâm tưởng khiến gã vẫn không thôi cuộc kiếm tìm, hỏi han. Cái bồn
LVC – K9 - 2
7

Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
chồn hăm hở qua đi nhường chỗ cho sự tần ngần, phân vân. Gã chỉ mong sao tìm lại được một chút gì hơi hướm của người cũ, của ngày
cũ, đem hong lên sưởi ấm cho hồn mình, để đặng thanh thản. Ôi cái điều ấy mới thật mong manh và rồ dại làm sao. Nhưng có lẽ đấy mới là
tình yêu đích thực. Xa vắng quá tần ngần đi hỏi chợ/Người mua gương dạo ấy có hay về. Dùng dằng mãi rồi gã cũng đi hỏi chợ, hỏi cái nơi
mà nàng vẫn thường lui tới trước khi xuống đò, sang sông. Giữa chợ trăm người bán, vạn người mua, biết hỏi ai đây? Lại cũng vu vơ, cắc
cớ nốt. Nhưng cuối cùng thì gã đàn ông khốn khổ cũng nhận được câu trả lời. Người mua gương chỉ một lần trở lại/Soi tưng bừng rồi lặng
lẽ quay đi. Chao ôi, thế nghĩa là nàng có trở về chốn cũ. Điều ấy cũng an ủi được phần nào. Cụ Nguyễn Du từng viết: “Dẫu lìa ngó ý còn
vương tơ lòng” kia mà.
Nhưng sao nàng lại cầm gương: “Soi tưng bừng rồi vội vã quay đi”? Chữ tưng bừng thường chỉ sự ồn ào náo động trong các hội hè đình
đám. Phải chăng thi sĩ đã phóng bút ở đây? Không hề, mà ngược lại nó hoàn toàn được sử dụng chính xác trong ngữ cảnh. Người thiếu phụ
trở về chốn cũ ngắm dung nhan của mình trong chiếc gương xưa, giật mình lắm nhưng phải cố che giấu cái điều đắng đót trong lòng. Thế
nên chị chàng mới phải khỏa lấp bằng cái sự tưng bừng, ồn ào, để che mắt những người quen biết cũ khỏi tọc mạch. Có khi nàng không
được hạnh phúc, hoặc giả nhan sắc của nàng đã phôi phai theo năm tháng. Vậy thì bẽ bàng lắm chứ. Ngắm nhìn dung nhan nơi chốn cũ,
biết đâu tim nàng chẳng nhói lên niềm tiếc nuối? Một nỗi lo sợ mơ hồ, nếu bất ngờ gặp lại người xưa thì sao nhỉ? Bởi thế nên sau khi đã
soi gương “tưng bừng”, nàng “lặng lẽ quay đi” như một kẻ trốn chạy quá khứ.
“Xa vắng” là một bài thơ tình đặc sắc không chỉ bởi cái tứ độc đáo, mà còn ở sự dồn nén đến chắt lọc. Tất cả chỉ có hai khổ, tám câu thơ
với sáu mươi tư con chữ mà dư âm của nó cứ thấm sâu vào lòng người đọc. Một cảm giác bâng khuâng, xa xót, vừa thương vừa giận cứ
lênh loang ra mãi tựa như những vòng sóng lan tỏa. Nhưng cuộc đời là thế và tình yêu sẽ bất tử với muôn vàn cung bậc, bất chấp thời gian.
Tiết 122: Ngữ văn
NÓI VỚI CON
A.Mục tiêu cần đạt
Giúp học sinh :
- Cảm nhận được tình cảm thắm thiết của cha mẹ đối với con cái, tình yêu quê hương sâu nặng cùng niềm
tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình qua lời thơ của Y Phương.
- Bước đầu hiểu được cách diễn tả độc đáo, giàu hình ảnh cụ thể, gợi cảm của thơ ca miền núi.
B. Tổ chức hoạt động dạy và học.
LVC – K9 - 2
8
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
Kiểm tra bài cũ:

- Đọc thuộc lòng bài thơ. Phân tích khổ thơ thứ 3.
Bài mới:
*Giới thiệu
Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ nhưng cũng thiêng
liêng nhất của con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng
truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ
đã giãi bày những sắc thái tình cảm ấy lên trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “nói với con” của tác
giả Y Phương một cách diễn đạt mộc mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha,
những lời dặn dò ân cần, chia sẻ của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê hương yêu
dấu của mình.
Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt.
Hoạt động 1: Tìm hiểu chung
? Nêu vài nét về tác giả Y Phương?
? Phần chú thích sgk nói với ta điều gì về hoàn cảnh sáng tác
bài thơ?
? Văn bản “Nói với con”nằm trong đề tài nào? Phương thức
biểu đạt là gì?
- Xuất hiện nhân vật trữ tình (người cha) mượn lời nói với con
để thể hiện tình cảm quê hương và tình cảm ruột thịt của mình.
? Lời thơ trong bài thơ này có gì mới lạ so với các bài thơ đã
học?
Đây là bài thơ của 1 tác giả người dân tộc Tày ở miền núi Cao
Bằng. Người dân miền Núi có cách nói, cách diễn tả tình cảm
khá độc đáo. Nhìn chung đó là cách nói thích ví von qua hình
ảnh cụ thể, cách diễn tả mộc mạc mà gợi cảm, mạnh mẽ, tư duy
bộc trực, dứt khoát, hình ảnh thường gắn với núi rừng.
- GV hướng dẫn cách đọc: Bài thơ là lời của người cha tâm
tình, dặn dò con, cần đọc với giọng thiết tha, trìu mến, ấm áp và
tin cậy.
? Mượn lời nói với con, nhà thơ gợi lên những nội dung gì ?

Từ những nội dung đó, hãy tìm hiểu bố cục của bài thơ. Bố
cục đó đem lại những hiệu quả gì cho tác phẩm.
+ Đoạn 1: (từ đầu đến “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời) : Nói
với con về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người: con lớn lên
trong tình yêu thương của cha mẹ, trong cuộc sống lao động
tươi vui của quê hương thơ mộng và nghĩa tình.
+ Đoạn 2: còn lại: Tự hào về sức sống mạnh mẽ và cao đẹp của
quê hương, người cha mong con hãy kế tục xứng đáng truyền
thống ấy.
=> Với bố cục này, bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng
ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả: (sinh 1948)
- Quê Trùng Khánh - Cao Bằng- dân
tộc Tày
- 1993: Chủ tịch hội văn nghệ Cao
Bằng
- Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật,
mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy
đầy hình ảnh của con người miền núi.
2. Tác phẩm:
- Trích trong cuốn “Thơ Việt Nam”
(1945 - 1985)
- Đề tài: Tình yêu gia đình, yêu quê
hương, phát huy truyền thống của tổ
tiên, của quê hương -> một tình cảm
cao đẹp.
- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết
hợp với miêu tả và tự sự.
- Thể thơ tự do: cách diễn đạt mộc

mạc chân thành, hình ảnh lạ.
- Bố cục: 2 phần
LVC – K9 - 2
9
Soạn ngữ văn 9 Đức Phong
nâng lên thành nghị lực, lẽ sống. Bài thơ vượt lên khỏi phạm vi
gia đình để nâng lên một ý nghĩa khái quát: Nói với con nhưng
cũng là để nói với mọi người một tư thế, một cách sống trong
đời. Cảm xúc, chủ đề của bài thơ được bộc lộ, dẫn dắt một cách
tự nhiên, hơp lí, có tầm khái quát nhưng vẫn thấm thía.
*Hoạt động 2: Hướng dẫn phân tích.
? Người cha đã nói với con về những tình cảm cội nguồn
nào?
- Tình gia đình
- Tình làng xóm, quê hương.
? Đọc và phân tích những lời thơ nói về tình cảm gia đình?
- 4 câu thơ đầu tiên đã gợi ra một hình ảnh đầm ấm của một gia
đình hạnh phúc. Ta rất dễ hình dung một hình ảnh cụ thể
thường gặp trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây
quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước
đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm
chút, nâng niu, đón nhận. Cả ngôi nhà như “rung lên” trong
tiếng nói, tiếng cười của con. Tuy nhiên đằng sau lời thơ này,
người cha muốn khái quát một điều lớn hơn: Con sinh ra và
lớn lên trong hạnh phúc gia đình.
? Vì sao lời đầu tiên của cha nói với con lại là điều đó?
=>Người cha muốn nhắc nhở con nhớ về tình cảm ruột thịt, về
cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người.
Chuyển: Cha mẹ yêu thương con, quê hương lại đùm bọc con,
nuôi dưỡng con nên người.

? hãy đọc mấy câu thơ cuối đoạn 1 và cho biết: em hiểu như
thế nào về các hình ảnh : đan lờ cài nan hoa - Vách nhà ken
câu hát? CS của quê hương như thế nào từ các lời thơ ấy?
(xem chú thích)
- Hình ảnh thơ vừa gợi công việc lao động cụ thể qua việc miêu
tả “đan lờ, ken vách nhà” vừa diễn tả được chất thơ cuả cuộc
sống lao động hồn nhiên ấy bằng cách sử dụng những động từ
“cài, ken” đi kèm với các danh từ “nan, hoa, câu hát” tạo thành
những kết cấu từ ngữ giàu sức khái quát, diễn tả tuy mộc mạc
mà gợi cảm về cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của người
dân lao động miền núi. Giữa cuộc sống lao động cần cù ấy, con
từng ngày lớn lên.
Cuộc sống của quê hương đã cho đứa con những gì? Em cảm
nhận như thế nào về lời thơ “rừng cho hoa - con đường cho
những tấm lòng? Một quê hương như thế nào được gợi lên từ
những lời thơ này?
- Hoa : vẻ đẹp thiên nhiên - sẵn có nơi đây -> Gợi vẻ đẹp tinh
tuý nhất của quê hương xứ sở.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi
người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách nói của Y
Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú
hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn”, “giọng nguồn thét
nuíu”, những bí mật của rừng thiêng…. Nhưng Y Phương chỉ
chọn 1 hình ảnh thôi – hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan của
rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về những gì
đẹp đẽ và tinh tuý nhất của quê hương.
II. Phân tích.
1. Nói với con về tình cảm cội
nguồn.
a. Tình gia đình:

- Chân phải/ bước tới cha
- Chân trái/ bước tới mẹ
- Một bước /chạm tiếng nói
- Hai bước /chạm tiếng cười
- Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới.
- Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
=> Cách nói mộc mạc bằng những
hình ảnh cụ thể, nhịp thơ 2/3, cấu trúc
đối xứng, nhiều từ láy lại-> tạo âm
điệu tươi vui, quấn quýt => không
khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc =>
tình cha con thêm chân thành, thấm
thía.
b. Tình làng xóm, quê hương.
- Đan lờ cài nan hoa.
- Vách nhà ken câu hát.
=> Cách gọi độc đáo: “người đồng
mình” và hình ảnh thơ mộc mạc, các
động từ “cài”, “ken” được dùng rất
gợi cảm.=> Cuộc sống lao động cần
cù và tươi vui.
- Rừng cho hoa.-> Vẻ đẹp thiên nhiên
> tinh tuý nhất của quê hương.
- Con đường cho… tấm lòng => vẻ
đẹp nghĩa tình.
=> Hình ảnh nhân hoá + điệp từ
“cho” =>Rừng núi quê hương thật
thơ mộng và nghĩa tình. Thiên nhiên
LVC – K9 - 2
10

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×