Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp quản lý rừng bền vững tại trại thực nghiệm trường trung cấp nghề cơ điện và kỹ thuật nông lâm đông bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 97 trang )

Bộ GIáO DụC Và ĐàO Tạo

bộ nông nghiệp và PTNT

TRƯờNG ĐạI HọC LÂM NGHIệP

Nguyễn quang chung

nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp
quản lý rừng bền vững tại trại thực nghiệm
trường trung cấp nghề cơ điện và kỹ thuật
nông lâm đông bắc

luận văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà nội, năm 2008


Bộ GIáO DụC Và ĐàO Tạo

bộ nông nghiệp và PTNT

TRƯờNG ĐạI HọC LÂM NGHIệP

Nguyễn quang chung

nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp
quản lý rừng bền vững tại trại thực nghiệm
trường trung cấp nghề cơ điện và kỹ thuật
nông lâm đông bắc


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

luận văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS: Hoàng Kim Ngũ

Hà nội, năm 2008


1

Đặt vấn đề

Hệ sinh thái rừng (HSTR) là nguồn tài nguyên quí giá của mỗi quốc gia, là
loại tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái tạo được. Nghề rừng không những tạo ra
các sản phẩm lâm sản hàng hóa và dịch vụ đóng góp cho nền kinh tế quốc dân mà
còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường như: phòng hộ đầu nguồn,
hạn chế lũ lụt, giữ đất, giữ nước, điều hòa khí hậu, làm trong sạch môi trường... góp
phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo cho người dân
vùng nông thôn miền núi và bảo vệ an ninh quốc phòng vùng biên giới hải đảo.
Trong những năm gần đây, sự biến đổi bất lợi về môi trường đã làm ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân đặc biệt là người dân vùng núi, nhiều
thảm hoạ từ tự nhiên xuất hiện hơn như: hạn hán, lũ lụt, bão, lốc... đã gây ảnh hưởng
đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Theo báo cáo về ảnh
hưởng biến đổi môi trường của Liên hợp quốc năm 2007 thì Việt Nam sẽ là một
trong mười quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi môi trường. Nguyên
nhân chính của vấn đề trên là do diện tích rừng trên trái đất đang ngày càng bị thu
hẹp và mất rừng chính là nguyên nhân quan trọng nhất của sự giảm sút đa dạng sinh
học, gia tăng hiệu ứng nhà kính, thoái hoá đất đai và biến đổi khí hậu - những hiện
tượng đang đe doạ sự tồn tại lâu dài của thế giới sinh vật và cả con người trên toàn

hành tinh.
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên phần lục địa là 33,12 triệu ha, trong đó
diện tích có rừng là 12,28 triệu ha tương ứng với độ che phủ của rừng 36,7% và có
khoảng 5,07 triệu ha đất chưa sử dụng, trong đó có khoảng 4,31 triệu ha đất trống
đồi núi trọc là đối tượng của sản xuất lâm nông nghiệp. Năm 1943, Việt nam có
14,3 triệu ha rừng, độ che phủ là 43%, đến năm 1990 chỉ còn 9,18 triệu ha, độ che
phủ rừng 27,2%; thời kỳ 1980-1990, bình quân mỗi năm hơn 100 nghìn ha rừng đã
bị mất [1]. Hiện nay, mất rừng đã trở thành vấn đề quan trọng ở Việt Nam, nó không
chỉ thể hiện ở sự thu hẹp về diện tích hàng trăm nghìn héc ta mỗi năm, mà còn thể
hiện ở sự suy giảm về trữ lượng và chất lượng của rừng, nhiều loài động, thực vật có
nguy cơ tuyệt chủng đe doạ sự cân bằng sinh thái.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm số lượng và chất lượng rừng là do
công tác quản lý, sử dụng vốn rừng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp thời cũng


2

như phù hợp với nhu cầu và tốc độ phát triển của xã hội. Việc lập kế hoạch, xác định
các giải pháp quản lý sử dụng rừng thường mới chỉ dựa trên hiện trạng tài nguyên
rừng và định hướng chủ quan của yêu cầu quản lý mà ít khi xem xét đến những tiềm
năng, định hướng lâu dài và khả năng đáp ứng của tài nguyên rừng đối với nhu cầu
phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh môi trường. Việc lập quy hoạch quản
lý, phát triển rừng thường không được xuất phát từ nhu cầu của cộng đồng dân cư
hoặc không đảm bảo lợi ích lâu dài về đất đai của người dân bản địa. Do vậy, khi tổ
chức triển khai thường gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả không cao, không đảm bảo
tính ổn định, bền vững. Từ thực tế đó, vấn đề đặt ra trong quản lý, sử dụng rừng hiện
nay là phải đảm bảo tính ổn định, bền vững và quan tâm đến vai trò cũng như lợi ích
của cộng đồng dân cư sống bằng nghề rừng.
Trường Trung cấp nghề Cơ điện và Kỹ thuật Nông lâm Đông Bắc (Trường
TCN Đông Bắc) được Nhà nước giao quản lý, sử dụng 499,95 ha rừng và đất rừng.

Trại thực nghiệm là đơn vị chức năng trong trường có nhiệm vụ quản lý, sử dụng và
phát triển tài nguyên rừng phục vụ các nhu cầu về thực hành thực tập, thực nghiệm
khoa học, tham quan và sản xuất rừng. Trong 25 năm qua, Trại thực nghiệm đã quản
lý và sử dụng rừng đáp ứng được với nhu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học, nhiều
mô hình rừng có giá trị cao trong đa dạng sinh học và phòng hộ. Tuy nhiên trong
những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường là áp
lực về gia tăng dân số trong khu vực và nhu cầu về lâm sản, đất canh tác đã tác
động, ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên rừng và đất rừng của Trại thực nghiệm.
HSTR trên khu vực đang bị đe doạ, mất dần các giá trị, chức năng phòng hộ và bảo
vệ môi trường sống bởi các hoạt động canh tác của cộng đồng dân cư trên khu vực.
Mặt khác một số chính sách của Nhà nước, phương thức quản lý, sử dụng và quy
hoạch phát triển rừng của Trại thực nghiệm hiện cũng chưa phù hợp, không đáp ứng
với nhu cầu của thực tiễn trong quản lý, sử dụng rừng hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng trên và để góp phần bổ sung, hoàn thiện những cơ sở
lý luận cũng như tìm ra giải pháp quản lý rừng bền vững trên một khu vực cụ thể.
Chúng tôi thực hiện đề tài:
Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp quản lý rừng bền vững tại Trại thực
nghiệm Trường Trung cấp nghề Cơ điện và Kỹ thuật Nông lâm Đông Bắc


3

Chương 1
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Những khái niệm, quan niệm về quản lý rừng bền vững
Khái niệm phát triển bền vững được đề cập chính thức trong báo cáo Tương
lai của chúng ta của Hội đồng thế giới về phát triển bền vững họp ở Brundland
(WCED, 1987). Theo khái niệm này Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm
thoả mãn mọi nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến những khả
năng phát triển để thoả mãn mọi nhu cầu của những thế hệ tiếp theo [12].

Thuật ngữ sử dụng bền vững tài nguyên rừng được dùng để chỉ các cách thức
khai thác, sử dụng, quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng một cách hợp lý
theo quan điểm phát triển bền vững. Tuy nhiên, để tránh sự hiểu biết không đầy đủ
về bản chất của thuật ngữ và nhấn mạnh hơn về tính tổng hợp của vấn đề, không chỉ
giới hạn ở sử dụng theo nghĩa hẹp, một thuật ngữ khác thường được sử dụng và được
xem như đồng nghĩa là Quản lý rừng bền vững (QLRBV).
Trong những năm gần đây, QLRBV đã trở thành một nguyên tắc đối với quản
lý kinh doanh rừng đồng thời cũng là một tiêu chuẩn mà quản lý kinh doanh rừng
phải đạt tới. Hiện tại có hai định nghĩa đang được sử dụng ở Việt Nam:
Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) định nghĩa: "Quản lý rừng bền vững là
quá trình quản lý các khu rừng cố định nhằm đạt một hoặc nhiều hơn các mục tiêu
quản lý đã được đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản
phẩm và dịch vụ của rừng mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và
năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn đối
với môi trường và xã hội".
Tiến trình Helsinki định nghĩa: "Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và
đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng
suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng và duy trì tiềm năng của rừng trong hiện
tại và tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế, xã hội của chúng ở cấp địa
phương, quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với các hệ sinh thái
khác". [21].


4

Theo các khái niệm và định nghĩa trên, có thể hiểu một cách đơn giản
QLRBV hay sử dụng bền vững tài nguyên rừng là cách quản lý đảm bảo đạt được
các mục tiêu: Bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội, chúng phải được xem xét
một cách bình đẳng và đồng thời. Tính bền vững thể hiện ở hai cấp độ: Mức độ có
thể đạt được trong thực tế luôn nhỏ hơn mức độ bền vững tối ưu về mặt lý thuyết.

Các khái niệm, định nghĩa trên cũng chỉ rõ sự cần thiết phải áp dụng một cách linh
hoạt các biện pháp quản lý rừng phải phù hợp với điều kiện ở từng địa phương và
phải được thực hiện một cách đồng bộ, liên thông trên phạm vi toàn cầu.
Cho đến nay, trên thế giới vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về lâm
nghiệp bền vững nhưng về tổng thể là nhất trí với phát triển bền vững. Các chuyên
gia trong và ngoài nước đã có những tư tưởng là luận điểm tổng thể gần như nhau.
Một số quan điểm có tính tiêu biểu được đề cập đến trong "Lời kêu gọi nguyên tắc
vấn đề rừng" được thông qua trong đại hội môi trường và phát triển Liên Hợp Quốc
năm 1992 đã nêu lên: "Tài nguyên rừng và đất rừng nên được quản lý bằng phương
thức bền vững để thoả mãn nhu cầu xã hội, kinh tế, văn hoá và tinh thần của người
đương thời và thế hệ con cháu. Nhu cầu đó là những sản phẩm và dịch vụ của rừng,
ví dụ gỗ và các sản phẩm ngoài gỗ, các loại lương thực, rau, y dược, chất đốt, nhà ở,
việc làm, vui chơi, nơi ở của động thực vật hoang dã, tính đa dạng của phong cảnh
và những sản phẩm khác của rừng. Nên áp dụng mọi biện pháp để bảo vệ rừng, làm
cho nó tránh được những ô nhiễm, bao gồm ô nhiễm không khí, cháy rừng, sâu và
bệnh hại để giữ được mọi giá trị của chúng" (Trích nguồn: Sinh thái rừng - PGS.TS
Hoàng Kim Ngũ - Năm 2005) [17]
QLRBV bao gồm hai nội dung chủ yếu, đó là: xây dựng, bảo vệ và sử dụng
hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên rừng phục vụ cho các nhu cầu của xã hội hiện tại
cũng như ổn định, bền vững trong tương lai. Phát triển nguồn tài nguyên rừng mang
lại gía trị về kinh tế, thu nhập ổn định cho người dân nhưng không làm ảnh hưởng
đến môi trường và gây phương hại đến các ngành kinh tế khác. Công cụ để quản lý
rừng bền vững bao gồm các quy trình công nghệ, chính sách pháp luật, giải phát kỹ
thuật và các hoạt động cụ thể nhằm thoả mãn được những nguyên lý về kinh tế, xã
hội và môi trường sinh thái. Như vậy, quản lý bền vững tài nguyên rừng là phương


5

thức quản lý được cộng đồng xã hội chấp nhận, có cơ sở về mặt khoa học, có tính

khả thi về mặt kỹ thuật, đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả về mặt kinh tế và môi
trường sinh thái [27].
Tại Hội nghị các Bộ trưởng Lâm nghiệp lần thứ 2 họp ở Helsinki năm 1993,
một Hướng dẫn chung về quản lý rừng bền vững ở Châu Âu đã được thống nhất với
6 tiêu chí:
- Duy trì và phát triển hợp lý tài nguyên rừng và sự đóng góp của nó cho chu
trình cacbon.
- Duy trì và nâng cao sức sống các hệ sinh thái rừng một cách khoẻ mạnh và
bền vững.
- Duy trì và nâng cao chức năng sản xuất của rừng (gỗ và lâm sản ngoài gỗ).
- Duy trì và nâng cao tính đa dạng sinh học của các hệ sinh thái rừng.
- Duy trì và tăng cường chức năng phòng hộ của rừng (bảo vệ đất và nước).
- Duy trì và nâng cao các chức năng kinh tế, xã hội cũng như cải thiện các
điều kiện khác của rừng.
Sáu tiêu chí trên là các nguyên tắc chung khi áp dụng cho các điều kiện cụ
thể sẽ được xây dựng thành các chỉ tiêu định lượng, trong đó phải xem xét các yếu
tố về tự nhiên và các yếu tố về kinh tế xã hội, quan trọng nhất là đặc điểm của từng
loại rừng.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo
vệ môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái, đa dạng sinh học và các đặc điểm về mặt xã
hội và nhân văn.
Để có thể sử dụng tài nguyên rừng bền vững, trong sản xuất lâm nghiệp cần
tuân thủ một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc như duy trì và cải thiện độ phì của
đất, bảo đảm tái sinh, ổn định năng suất, nâng cao sức chống chịu của lâm phần, bảo
tồn đa dạng sinh học và đáp ứng các yêu cầu về kinh tế - xã hội. Có thể hiểu nội
dung cơ bản của vấn đề sử dụng bền vững tài nguyên rừng như sau:
1.1.1. Sử dụng tài nguyên rừng bền vững về mặt kinh tế
Một hệ thống sử dụng tài nguyên rừng bền vững về kinh tế phải đáp ứng được
4 yêu cầu cơ bản sau:



6

- Đạt năng suất cao và ngày càng tăng.
- Chất lượng tốt.
- Đạt giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích cao.
- Giảm rủi ro đến mức tối thiểu.
Hệ thống sử dụng tài nguyên rừng phải có mức năng suất sinh học cao trên
mức bình quân vùng có điều kiện tự nhiên. Năng suất sinh học bao gồm các sản
phẩm chính như gỗ, tre, nứa,... và các sản phẩm ngoài gỗ như lá, hoa, quả, hạt, dược
liệu... Việc so sánh giữa các hệ canh tác là so sánh tương đối và trên cơ sở năng suất
bình quân của vùng. Một hệ bền vững phải có năng suất trên mức trung bình của
vùng đó, nếu không sẽ không thể cạnh tranh với các hệ sử dụng đất khác, nhất là
trong cơ chế thị trường. Năng suất phải có xu hướng tăng dần, khi năng suất giảm
thì hệ thống không thể bền vững. Trong nhiều trường hợp chiều hướng năng suất có
ý nghĩa hơn là giá trị tuyệt đối của năng suất tức thời.
Các nhân tố rủi ro phải được tính toán sao cho có thể giảm đến mức thấp nhất
như thiên tai, sâu bệnh hại, lửa rừng,... Ví dụ rừng trồng thuần loài đồng tuổi dễ bị
rủi ro thiệt hại nhiều hơn là rừng hỗn giao khác tuổi. Cần chú ý cả khía cạnh thị
trường trong kinh doanh, tránh cho người sản xuất bị người mua độc quyền ép giá.
Sản phẩm ưu tiên phải là các sản phẩm dễ bảo quản, ít hư hỏng, để được lâu và có
thị trường rộng.
1.1.2. Sử dụng tài nguyên rừng bền vững về mặt bảo vệ môi trường
Sử dụng tài nguyên rừng bền vững về mặt bảo vệ môi trường phải thoả mãn 3
yêu cầu cơ bản:
- Duy trì và không ngừng cải thiện sức sản xuất của đất.
- Tăng độ che phủ của lớp thảm thực vật.
- Bảo vệ được nguồn nước.
Yêu cầu về bảo vệ đất được thể hiện bằng chỉ tiêu giảm lượng mất đất hàng
năm dưới mức cho phép, mức này được xác định cho từng loại đất, từng loại thảm

thực vật và cho từng vùng địa lý khác nhau.


7

Độ phì của đất tăng dần là đòi hỏi bắt buộc đối với sử dụng đất bền vững
trong bất kỳ hệ canh tác nào, trong đó tuần hoàn các chất hữu cơ được cải thiện có
vai trò quan trọng hàng đầu.
Độ che phủ mặt đất phải đạt tối thiểu trên mức an toàn sinh thái, thông
thường là 35%. Tuy nhiên khi xét từng đơn vị nhỏ thì tỷ lệ che phủ có thể khác
nhau, song xét tổng thể toàn hệ thống thì tỷ lệ này phải đạt hoặc vượt ngưỡng tối
thiểu. Ngoài ra đặc điểm che phủ theo thời gian trong năm hay tính liên tục của nó
cũng cần được xem xét đến.
Khả năng bảo vệ nguồn nước bao gồm 2 mặt: số lượng và chất lượng. Về số
lượng hay khả năng sinh thuỷ của rừng có thể xác định được qua nghiên cứu toàn
lưu vực hay thông qua các quan trắc định tính còn chất lượng nước có thể nhận biết
không khó khăn bằng một loạt các chỉ tiêu định lượng. ở nước ta, ước tính khoảng
50% dao động về sản lượng lúa ở Việt Nam là do tác động của nạn mất rừng, thậm
chí có thể có những dao động lớn hơn nếu không duy trì được thảm rừng tự nhiên
trên lưu vực các sông, nhất là ở miền Bắc và miền Trung.
1.1.3. Sử dụng tài nguyên rừng bền vững về hệ sinh thái và đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học bao gồm 3 thành phần chính: Đa dạng về gen, đa dạng về
loài và đa dạng về hệ sinh thái. Mỗi thành phần của đa dạng sinh học có những giá
trị riêng về khoa học, kinh tế và môi trường và giữa chúng với nhau có những mối
quan hệ hữu cơ ràng buộc. Đa dạng về gen là cơ sở khoa học cho việc tuyển chọn lai
tạo ra các giống mới hay loài mới. Đa dạng về loài thường là đối tượng cho khai
thác với mục đích kinh tế; còn đa dạng về hệ sinh thái có chức năng bảo vệ môi
trường sống, các hệ sinh thái được duy trì nhờ sự tồn tại của các quần thể loài sống
trong đó.
Bảo tồn đa dạng sinh học phải chú ý bảo tồn cả 3 thành phần của nó, trong đó

quan trọng nhất là bảo tồn các hệ sinh thái, vì đây là nơi cư trú của loài, nơi giữ gìn
các gen đã được hình thành và thích nghi với từng điều kiện sống cụ thể. Ngoài ra
chức năng của hệ sinh thái còn duy trì các hiệu quả to lớn cả về mặt kinh tế và bảo
vệ môi trường mà nhiều khi không thể tính được bằng tiền.


8

Khai thác HSTR quá mức đã làm cho nhiều loài động, thực vật có nguy cơ bị
tuyệt chủng. Do vậy, việc nâng cao tính đa dạng sinh học của HSTR phải đáp ứng 4
yêu cầu sau:
- Số loài cây không bị giảm hoặc tăng lên.
- Tỷ lệ cây lâu năm cao nhất có thể được.
- Bảo toàn và làm phong phú quỹ gen.
- Khai thác tối đa các loài cây bản địa.
Trước hết, đa dạng sinh học được biểu hiện qua thành phần loài cây, tính bền
vững tỷ lệ thuận với số lượng loài trong hệ sinh thái. Như vậy rừng tự nhiên bền
vững hơn rừng trồng, rừng hỗn giao bền vững hơn rừng thuần loài, đa canh bền vững
hơn độc canh
Trong hệ sinh thái, những loài cây có tuổi thọ dài có khả năng bảo vệ đất tốt
hơn cây ngắn ngày và tỷ lệ tổ thành của chúng càng lớn thì tác dụng bảo vệ và cải
thiện đất càng lớn, do đó tính bền vững của hệ sinh thái càng cao.
Sử dụng HSTR bền vững có nghĩa là duy trì và phục tráng được quỹ gen sẵn
có và không ngừng bổ xung thêm bằng các loài cây mới, các nguồn gen mới. Một
HSTR bao gồm nhiều loài cây bản địa được chọn lọc lâu đời thích nghi với điều kiện
tự nhiên của địa phương và được bổ xung thêm các giống mới sẽ có ý nghĩa lớn về
tính bền vững của hệ sinh thái.
1.1.4. Sử dụng tài nguyên rừng bền vững về mặt xã hội nhân văn
Những tiêu chí phản ánh tính bền vững về mặt xã hội của một hệ thống sử
dụng tài nguyên rừng cũng tương tự như các hệ thống quản lý sử dụng đất đai khác

bao gồm:
- Khả năng đáp ứng các nhu cầu đa dạng của người dân.
- Sự phù hợp với năng lực thực tế của người thực hiện.
- Không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
- Phù hợp với pháp luật hiện hành.
- Khả năng thu hút và tạo thêm nhiều lao động, việc làm.
- Sự chấp nhận của cộng đồng.


9

Điều quan trọng là thu nhập phải thường xuyên, thời gian sản xuất ngắn và
vốn đầu tư thấp, người sản xuất ít vốn không thể chờ đợi thu thập lâm sản chính ở
cuối chu kỳ, nếu trong chu kỳ cây lâm nghiệp họ không có thu nhập đủ bảo đảm
cuộc sống. Đối với rừng phòng hộ vấn đề sản phẩm ngoài gỗ càng có ý nghĩa quan
trọng vì không được phép khai thác gỗ.
Nội dung đáp ứng nhu cầu của các hộ sản xuất tối thiểu là:
- Đủ lương thực bằng cách tự túc hay tạo ra nguồn tiền để mua.
- Đủ thực phẩm bảo đảm cân đối năng lượng và hợp khẩu vị.
- Có sản phẩm bán được để có tiền mặt và thu nhập đều đặn.
- Đủ củi đun và gỗ phục vụ sinh hoạt.
Hệ thống bền vững phải phù hợp với năng lực của người sản xuất để bảo đảm
tính khả thi của giải pháp khi triển khai nhân rộng. Về vốn đầu tư cần có nguồn vốn
vay ổn định có lãi suất thấp và thời hạn phù hợp chu kỳ kinh doanh.
Về kỹ thuật, cần phát huy kiến thức và kinh nghiệm bản địa, tập quán canh
tác của người dân địa phương, kết hợp với kỹ thuật tiến bộ nhưng đơn giản, người
dân có thể tiếp thu và tự làm được nếu có tập huấn.
Hệ thống sử dụng tài nguyên rừng bền vững còn có tác dụng không ngừng
nâng cao năng lực của người sản xuất, điều đó thể hiện ở sự tham gia triệt để của họ
trong toàn bộ quá trình sản xuất từ khâu quy hoạch, xây dựng phương án, kế hoạch,

đến tiêu thụ sản phẩm. Người sản xuất có quyền và được tự quyết định việc sử dụng
rừng không bị áp đặt, được bình đẳng trong hưởng lợi từ thành quả của họ.
Hệ thống bền vững phải được cộng đồng chấp nhận, điều này được thể hiện ở
sự phù hợp của nó đối với nền văn hoá dân tộc và tập tính của địa phương. Một
phương án sản xuất sẽ không thể tồn tại và phát triển, nếu trái với truyền thống văn
hoá và phong tục tập quán của cộng đồng dân cư địa phương.
Trên quan điểm kinh tế - sinh thái học, hiệu quả sinh thái môi trường của
rừng hoàn toàn có thể quy đổi được thành những giá trị kinh tế đơn thuần đem lại
thu nhập cho người trồng rừng. Những giá trị kinh tế sinh thái đó là: Khả năng hấp
thụ khí CO2, cung cấp O2, lưu giữ nguồn nước, chống xói mòn, đa dạng sinh học...
đây là những sản phẩm cần được định giá và đưa vào giá trị của rừng để từ đó nâng


10

cao được giá trị và ý nghĩa của rừng đối với sự phát triển ổn định, bền vững của mỗi
địa phương. Như vậy, QLRBV về thực chất là một hoạt động nhằm góp phần vào
việc sử dụng bền vững, tối ưu không gian sống cũng như phát huy mọi tiềm năng và
gía trị thực của tài nguyên rừng.
Với ý nghĩa to lớn về sinh thái - kinh tế - môi trường, QLRBV hiện được xem
như là một trong những nhiệm vụ cấp bách của hoạt động quản lý tài nguyên rừng,
là giải pháp để đảm bảo an ninh, an toàn và ổn định cho sự tồn tại lâu bền của con
người và sinh vật trên trái đất.
1.2. Khái quát những vấn đề về QLRBV trên thế giới
Đối với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước có nền công nghiệp
và kinh tế sớm phát triển (Anh, Đức, Pháp, Nhật bản, Hà lan...) vấn đề quản lý tài
nguyên rừng luôn được xem như là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo an ninh về môi trường cho sự phát triển ổn định của mỗi quốc gia. Do vậy, các
chính sách liên quan đến sự phát triển của nguồn tài nguyên rừng thường gắn chặt
với lợi ích và nhu cầu của cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Người dân luôn

được xem như là yếu tố trung tâm của quá trình phát triển tài nguyên rừng.
Trong những năm gần đây, tại một số quốc gia: Inđônêxia, Philippin, Nepan,
Bangladesh, Zimbabwe, Panama, Canađa.... thường xuyên xảy ra các cuộc biểu tình
của cộng đồng dân cư và các tổ chức môi trường đòi Chính phủ cũng như các ngành
công nghiệp khác phải chấm dứt khai thác nguồn tài nguyên rừng của họ. Bảo vệ,
phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng chính là đảm bảo an toàn và duy trì cuộc
sống lâu dài, ổn định cho cộng đồng dân cư trên toàn thế giới.
Trên thế giới, lịch sử quản lý rừng được bắt đầu tại các quốc gia ở Châu âu.
Đầu thế kỷ 18, các nhà lâm học Đức G.L. Hartig [31], Heyer [30] đã đề xuất nguyên
tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng tuổi. Cũng vào thời điểm đó các
nhà lâm nghiệp Pháp (Gournad, 1922) và Thụy Sĩ (H. Boiolley) [29] cũng đã đề ra
phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn.
Trong thời kỳ này, hệ thống quản lý rừng phần lớn vẫn dựa trên các mô hình quản lý
quốc gia từ trung ương (rừng được quản lý chủ yếu bởi các doanh nghiệp của nhà


11

nước), quản lý mang tính chất tập trung. Diện tích đất rừng do nhà nước quản lý
chiếm từ 25-75% tổng diện tích đất đai của nhiều quốc gia.
Giai đoạn từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, hệ thống quản lý rừng thường
mang tính tập trung cao ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Trong thời kỳ này, vai trò sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng không được
chú ý. Mặc dù trong các quy định pháp luật thì rừng là tài sản của toàn dân. Song,
trên thực tế người dân không hề được hưởng lợi từ rừng và vì vậy người dân cũng
không hề quan tâm đến vấn đề xây dựng và bảo vệ vốn rừng. Họ chỉ biết khai thác
rừng để lấy lâm sản và lấy đất canh tác phục vụ cho nhu cầu sống của chính họ. Bên
cạnh đó, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng
tăng lên nên tình trạng khai thác qúa mức đối với tài nguyên rừng trong giai đoạn
này cũng trở thành nguyên nhân quan trọng của tình trạng suy thoái tài nguyên

rừng.
Từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm
sút một cách nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái và cuộc
sống của người dân miền núi thì phương thức quản lý rừng tập trung như trước đây
đã trở lên không thích hợp. Chính phủ ở một số quốc gia đã tìm mọi cách cứu vãn
tình trạng suy thoái rừng thông qua việc ban hành một số chính sách nhằm động
viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. Phương thức
quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất hiện đầu tiên ở ấn Độ và
dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như: Nông lâm kết hợp,
trang trại, lâm nghiệp xã hội (Nepan, Thái Lan, Philippin,...). Hiện nay, ở các nước
đang phát triển, khi sản xuất nông lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan trọng đối với
người dân nông thôn miền núi, thì quản lý rừng theo phương thức phát triển lâm
nghiệp xã hội sẽ là một hình thức mang tính bền vững nhất về cả phương diện kinh
tế, xã hội lẫn môi trường sinh thái.
Năm 1967 - 1969 tổ chức FAO đã quan tâm đến phát triển NLKH và đi đến
thống nhất: áp dụng biện pháp NLKH là phương thức tốt nhất để sử dụng đất rừng
nhiệt đới một cách hợp lí, tổng hợp và nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực
phẩm và sử dụng lao động dư thừa đồng thời thiết lập cân bằng sinh thái. Cũng theo


12

báo cáo của FAO, mỗi năm trung bình rừng nhiệt đới của thế giới mất đi khoảng 15
triệu ha rừng thì chỉ hơn 100 năm nữa rừng nhiệt đới sẽ hoàn toàn bị biến mất, loài
người sẽ phải chịu những thảm họa khôn lường về kinh tế, xã hội và môi trường [7].
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng trên phạm vi
toàn thế giới, cộng đồng Quốc tế đã tổ chức nhiều hội nghị, thành lập nhiều tổ chức,
đề xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng như: Chiến lược bảo tồn
quốc tế (1980 và điều chỉnh năm 1991), Thành lập tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế
(ITTO năm 1983), xây dựng chương trình hành động rừng nhiệt đới (TFAP năm

1985) của Tổ chức nông lương FAO, Hội nghị Quốc tế về môi trường và phát triển
(UNCED tại Rio de janeiro năm 1992, Công ước về buôn bán các loài động thực vật
quý hiếm (CITES), Công ước về đa dạng sinh học (CBD,1992), Công ước về thay
đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994), Công ước về chống sa mạc hóa (CCD, 1996),
Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, 1997) [7]. Những năm gần đây nhiều hội
nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia về quản lý rừng bền vững đã liên tục được tổ
chức. Tại Hội nghị thượng đỉnh về môi trường năm 2007 họp ở đảo Bali (Inđônêxia),
một lần nữa đã khẳng định bảo vệ môi trường và đặc biệt là bảo vệ, duy trì nguồn tài
nguyên rừng là trách nhiệm chung của mọi quốc gia trên thế giới.
Tổ chức gỗ Quốc tế ITTO là tổ chức đầu tiên đáp ứng vấn đề quản lý bền
vững rừng nhiệt đới, tổ chức này đã biên soạn "Hướng dẫn quản lý rừng tự nhiên
nhiệt đới" (ITTO, 1990), "Tiêu chí đánh giá quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt
đới"(ITTO, 1992), "Hướng dẫn thiết lập hệ thống quản lý bền vững các khu rừng
trồng trong rừng nhiệt đới"(ITTO, 1993) và "Hướng dẫn bảo tồn đa dạng sinh học
của rừng sản xuất trong vùng nhiệt đới"(ITTO, 1993). Tổ chức này đã xây dựng
chiến lược quản lý bền vững rừng nhiệt đới buôn bán lâm sản nhiệt đới cho năm
2000. Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống quản lý rừng bền vững là xuất
phát từ các nước sản xuất sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập một lâm phận
sản xuất ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới, mong muốn điều tiết
việc khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn cầu. Vấn đề đặt ra là
phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô quốc tế, hội đồng
quản trị rừng đẫ được thành lập để xét công nhận các tổ chức chứng chỉ rừng, nhằm


13

đảm bảo giá trị của các chứng chỉ. Với sự phát triển của quản lý rừng bền vững,
Canađa đã đề nghị đặt vấn đề quản lý rừng bền vững trong hệ thống quản lý môi
trường theo tiêu chuẩn ISO 14001 [22].
Hiện nay, trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc gia

(Canada, Thuỵ Điển, Malaysia, Indonesia v.v) và cấp quốc tế của tiến trình Helsinki,
tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và tổ chức gỗ nhiệt đới đã có bộ
tiêu chuẩn "Những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng (P&C) đã được công nhận và áp
dụng ở nhiều nước trên thế giới và các tổ chức cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ tiêu
chí này để đánh giá quản lý và công nhận chứng chỉ rừng [21].
Các nước trong khu vực Đông Nam á đã họp hội nghị lần 18 tại Hà Nội
tháng 9/1998 thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số
vùng ASEAN về QLRBV (viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất C&I của ASEAN
cũng giống với C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng chia làm 2 cấp quản lý là
cấp quốc gia và cấp đơn vị quản lý [8]. Tuy nhiên, việc áp dụng vào từng quốc gia
trong vùng và từng địa phương trong một quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, bởi vì
các tiêu chuẩn không hoàn toàn phù hợp với từng địa phương trong vùng.
1.3. Khái quát những vấn đề về QLRBV ở Vịêt nam
Theo kết quả kiểm kê đất đai đến ngày 01 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ,
diện tích rừng toàn quốc là 12,28 triệu ha (độ che phủ rừng 36,7%) trong đó khoảng
10 triệu ha rừng tự nhiên và 2,28 triệu ha rừng trồng; được phân chia theo 3 loại
rừng như sau:
- Rừng đặc dụng

: 1,9 triệu ha, chiếm 15,7%

- Rừng phòng hộ

: 5,9 triệu ha, chiếm 47,0%

- Rừng sản xuất

: 4,5 triệu ha, chiếm 36,6%

Với vốn rừng như trên, chỉ tiêu bình quân hiện nay ở nước ta là 0,15ha

rừng/người và 9,16 m3 gỗ/người, thuộc loại thấp so với chỉ tiêu tương ứng của thế
giới là 0,97 ha/người và 75m3/người [1].
Trong khoảng 50 năm qua, ở Việt Nam đã có tới 5 triệu ha rừng tự nhiên bị
mất [5], ngoài các nguyên nhân làm mất rừng do sự gia tăng dân số, thiếu thốn về
lương thực, phá rừng lấy đất canh tác, khai thác lâm sản quá mức... như hầu hết các


14

nước đang phát triển, thì 2 cuộc chiến tranh kéo dài cũng là nguyên nhân quan trọng
làm tăng sự giảm sút tài nguyên rừng. Một nguyên nhân khác là do công tác quản lý
rừng kém hiệu quả kéo dài trong nhiều năm làm cho diện tích rừng ngày càng suy
giảm, đất trống, đồi núi trọc ngày càng nhiều, chất lượng rừng giảm sút, nhiều loài
động, thực vật quí hiếm có nguy cơ tuyệt chủng Đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu của nước ta trong
thời gian vừa qua.
Công tác quản lý, sử dụng rừng của nước ta mới chỉ được chú trọng trong
khoảng 10 năm gần đây cùng với Quyết định số 661/QĐ -TTg, ngày 29 tháng 7 năm
1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực
hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng nhằm khôi phục lại hiện trạng tài nguyên rừng,
nâng độ che phủ tương đương với năm 1943 (43%). Tuy nhiên, theo tiến trình lịch
sử phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, có thể chia công tác tổ chức quản lý sử
dụng tài nguyên rừng thành 4 thời kỳ như sau:
1.3.1. Thời kỳ trước năm 1945
Đây là thời gian đất nước ta đang trong thời kỳ Pháp thuộc. Trong thời kỳ
này, diện tích rừng lên tới 14,3 triệu ha, tài nguyên rừng còn phong phú với chủ yếu
là rừng tự nhiên. Tài nguyên rừng bị khai thác, sử dụng tự do, không có sự can thiệp
của Nhà nước hay cộng đồng. Tuy nhiên, trong thời kỳ này dân số còn ít, các ngành
công nghiệp chưa phát triển nên nhu cầu lâm sản của người dân và nền kinh tế chưa
cao. Khai thác lâm sản chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt của người dân và

phục vụ một số ngành công nghiệp nhỏ: làm nhà cửa, xây dựng, chất đốt, làm tà vẹt,
đóng tàu....Vì vậy, mức độ tác động của con người vào tài nguyên rừng thấp nên tài
nguyên rừng còn phong phú và đa dạng.
1.3.2. Thời kỳ từ năm 1945 - 1975
Đây là thời kỳ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, tuy
nhiên đây cũng chính là thời kỳ 30 năm chiến tranh gian khổ của nhân dân Việt
Nam. Công tác quản lý, sử dụng rừng trong giai đoạn này bước đầu đã được chú
trọng và đạt được một số thành quả nhất định:


15

- Về tổ chức quản lý: Cấp quản lý Nhà nước trung ương có tổng cục lâm
nghiệp sau này là Bộ Lâm nghiệp là cơ quan chuyên ngành của Chính phủ. Đến năm
1973 có thêm Cục Kiểm lâm là cơ quan thực thi luật pháp bảo vệ rừng. ở cấp tỉnh
có các Ty Lâm nghiệp là tiền thân của các Sở Lâm nghiệp sau này, là cơ quản lý lâm
nghiệp của tỉnh kiêm cả việc quản lý các doanh nghiệp lâm nghiệp. ở cấp huyện có
các Hạt Lâm nghiệp trực thuộc UBND huyện, đồng thời là cơ quan ngành dọc của
các Sở Lâm nghiệp. Phần lớn diện tích rừng và đất rừng ở Miền Bắc được giao cho
các Lâm trường quốc doanh quản lý.
- Về tổ chức sử dụng rừng: Rừng được chia thành 3 chức năng để quản lý sử
dụng đó là rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. ở mỗi tỉnh rừng và đất
rừng được chia thành các tiểu khu có diện tích trung bình là 1.000 ha và đánh số từ 1
đến số cuối cùng trong phạm vi của tỉnh.
Trong giai đoạn (1945 - 1960): Công tác quản lý rừng tập trung giải quyết
nhiệm vụ chính trị quan trọng lúc đó là khai thác rừng phục vụ công cuộc toàn quốc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) và phục vụ chiến lược phục hồi
kinh tế sau kháng chiến (1955 - 1960). Nội dung chủ yếu trong công tác quản lý
rừng giai đoạn này là tập trung phát triển sản xuất lương thực, hướng dẫn nông dân
miền núi định canh, định cư, sản xuất nương rẫy, khôi phục kinh tế sau chiến tranh.

Vấn đề phát triển, quản lý rừng giai đoạn này chưa được đặt ra vì nguồn tài nguyên
rừng còn tương đối phong phú.
Giai đoạn (1961 - 1975): Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội diễn ra ở miền
Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt ở miền Nam. Đồng thời
đây cũng là giai đoạn rừng nước ta bị thiệt hại nhiều nhất do hoá chất chiến tranh.
Giai đoạn này công tác quản lý bảo vệ rừng được đẩy mạnh, khoanh nuôi tái sinh
rừng gắn chặt với công tác định canh định cư. Công tác khai thác rừng đã chú ý đến
thực hiện theo quy trình quy phạm, đảm bảo xúc tiến tái sinh tự nhiên. Nhìn chung
công tác quản lý bảo vệ rừng được thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương.
Pháp lệnh bảo vệ rừng ra đời năm 1975 là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giữ gìn
và phát triển tài nguyên rừng, là nền tảng cho các chiến lược sản xuất, kinh doanh
ngành lâm nghiệp.


16

1.3.3. Thời kỳ từ năm 1976 - 1990
Giai đoạn này là thời kỳ đất nước thống nhất, công tác quản lý bảo vệ rừng
được tổ chức thông qua lực lượng kiểm lâm trên toàn Quốc và được kiện toàn đến
các lâm trường quốc doanh, các Liên hiệp Lâm - Nông - Công nghiệp, đồng thời
quản lý đến từng tiểu khu rừng. Giai đoạn này Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ
tài nguyên rừng thông qua các Lâm trường quốc doanh, người dân và cộng đồng đã
bị tách rời khỏi các hoạt động quản lý sử dụng tài nguyên rừng của Nhà nước.
Trong thời kỳ này một phần lớn diện tích rừng tự nhiên được đưa vào khai
thác phục vụ xuất khẩu để phát triển kinh tế cùng với sự gia tăng nhanh chóng của
dân số là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thoái tài nguyên rừng nhanh
chóng. Đến năm 1990 rừng nước ta chỉ còn 9,18 triệu ha, độ che phủ rừng 27,2%
(thời kỳ 1980-1990, bình quân mỗi năm hơn 100 nghìn ha rừng đã bị mất) [1]
1.3.4. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay
Năm 1991 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được Nhà nước ban hành lần đầu

tiên trong lịch sử (sửa đổi bổ sung năm 2004) [3] là cái mốc đánh dấu sự phát triển
cũng như ghi nhận tầm quan trọng của ngành lâm nghiệp đối với nền kinh tế quốc
dân. Đây cũng đồng thời là căn cứ pháp lý quan trọng để hoạch định các chính sách,
định hướng phát triển nguồn tài nguyên rừng của nước ta.
Trong giai đoạn này, công tác giao đất giao rừng gắn với định canh, định cư
được đẩy mạnh. Sản xuất lâm nghiệp có những bước chuyển biến mạnh mẽ từ cơ chế
quản lý rừng tập trung của Nhà nước sang hình thức lâm nghiệp xã hội có sự tham
tích cực của người dân gắn với định hướng phát triển theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Hệ thống và tính chất quản lý ngành cũng có sự thay đổi cho
phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên rừng theo hướng tổng hợp, đa ngành và đa
mục tiêu.
Năm 1995 Bộ Lâm nghiệp được sát nhập với Bộ Nông nghiệp và Bộ Thuỷ lợi
thành lập Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ cấu tổ chức quản lý ngành
lâm nghiệp như sau:
- ở cấp trung ương: Bộ NN& PTNT, dưới Bộ có Cục Lâm nghiệp và Cục
Kiểm lâm.


17

- ở cấp tỉnh, thành phố: Có Chi cục Lâm nghiệp và Chi cục Kiểm lâm.
- ở cấp huyện: Có các Hạt kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm và chịu sự
lãnh đạo của UBND huyện.
- ở cấp xã: Đối với những xã có diện tích rừng lớn có Ban lâm nghiệp (hoặc
cán bộ phụ trách lâm nghiệp) và có các kiểm lâm viên phụ trách, quản lý trên địa
bàn.
- ở cấp thôn, bản: Có các quy ước, hương ước thôn bản về quản lý và bảo vệ
rừng.
Tháng 6 năm 1997 Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thay
mặt chính phủ ký cam kết bảo tồn ít nhất 10% diện tích rừng gồm các hệ sinh thái

rừng hiện có và cùng cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ tham gia thị trường lâm sản
bằng các sản phẩm được dán nhãn là khai thác hợp pháp trong các khu rừng đã được
cấp chứng chỉ rừng trong khối AFTA và WTO [7]. Tháng 12/1998 hội thảo quốc gia
về quản lý rừng bền vững do Bộ NN & PTNT, WWF Đông Dương, Đại sứ quán
vương quốc Hà Lan tại Hà Nội và FSC đồng tài trợ tổ chức tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Hội thảo đã thành lập một Tổ công tác quốc gia về QLRBV và chứng chỉ
rừng [2]. Đến nay Tổ công tác quốc gia đã biên soạn tài liệu "Tiêu chuẩn Việt
Nam quản lý rừng bền vững" dựa trên bộ tiêu chuẩn của FSC quốc tế, có điều chỉnh
bổ sung cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, bao gồm 10 tiêu chuẩn có thể tóm tắt
như sau:
- Tiêu chuẩn 1: Tuân theo pháp luật và P&C&I VN
- Tiêu chuẩn 2: Quyền và trách nhiệm trong sử dụng đất
- Tiêu chuẩn 3: Quyền của người dân sở tại
- Tiêu chuẩn 4: Mối quan hệ cộng đồng và quyền của công nhân
- Tiêu chuẩn 5: Những lợi ích từ rừng
- Tiêu chuẩn 6: Tác động môi trường
- Tiêu chuẩn 7: Kế hoạch quản lý
- Tiêu chuẩn 8: Kiểm tra đánh giá
- Tiêu chuẩn 9: Duy trì những khu rừng có giá trị bảo tồn cao
- Tiêu chuẩn 10: Rừng trồng


18

Ngày 26/7/2006, tại Hà Nội, Trung ương Hội khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp
Việt Nam đã khai trương và đưa vào hoạt động Viện Quản lý rừng bền vững và
Chứng chỉ rừng, đây là thành viên của Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC) hoạt
động tại Việt Nam. Viện ra đời đánh dấu sự hợp tác, hoà nhập với cộng đồng thế
giới trong lĩnh vực quản lý rừng bền vững của ngành lâm nghiệp nước ta. Viện hoạt
động sẽ hỗ trợ tích cực cho các khu vực trọng điểm rừng Quốc gia xây dựng các tiêu

chuẩn rừng được cộng đồng Quốc tế công nhận trước khi các sản phẩm rừng Việt
Nam được chế biến thương mại. Mục tiêu của QLRBV ở Việt Nam là đến năm 2020
sẽ có khoảng 30% diện tích rừng quốc gia nhận chứng chỉ rừng FSC của Hội đồng
quản trị rừng thế giới [23].
Bên cạnh việc ban hành luật Bảo vệ và Phát triển rừng là hàng loạt các văn
bản pháp qui, các Nghị định, Chỉ thị của Thủ tướng, của Bộ Lâm nghiệp (sau này là
Bộ NN và PTNT), các Chương trình, Dự án phát triển lâm nghiệp ra đời góp phần
mạnh mẽ vào việc khôi phục, phát triển nguồn tài nguyên rừng, làm cho luật pháp về
rừng đi vào cuộc sống, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của ngành Lâm nghiệp
nói chung và vấn đề quản lý tài nguyên rừng bền vững nói riêng. Một số Chính sách,
Chương trình, Dự án lâm nghiệp tiêu biểu trong giai đoạn này:
- Năm 1992, Chính phủ phê duyệt Chương trình 327 nhằm phủ xanh đất
chống, đồi núi trọc.
- Quyết định 264, năm 1992 của Chính phủ về tín dụng vay vốn ưu đãi để
trồng rừng sản xuất.
- Nghi định 02/CP, ngày 15 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ về việc giao đất
lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích
lâm nghiệp.
- Quyết định số 202/TTg, ngày 2 tháng 5 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành văn bản quy định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và
trồng rừng.
- Nghi định 01/CP, năm 1995 của Chính phủ về việc giao khoán đất sử dụng
vào mục đích sản xuất Nông Lâm Ngư nghiệp trong các doanh nghiệp Nhà nước.


19

- Quyết định 245/1998/QĐ-TTg, ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ
về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và đất rừng [5].
- Quyết định 661/QĐ-TTg, ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục

tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng [5].
- Nghị định 163/1999/NĐ, ngày 16/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về
giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp, cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [5].
- Quyết định số 08, năm 2001 về quy chế quản lý 3 loại rừng [18].
- Ngày 5 tháng 2 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
18/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt nam giai đoạn
2006 - 2020, đây thực sự là cơ sở quan trọng để khẳng định tầm quan trọng của
ngành lâm nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời cũng cho thấy sự cấp thiết
cần phải quản lý bền vững nguồn tài nguyên rừng của Quốc gia. Mục tiêu cơ bản
của Chiến lược là: Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24
triệu ha rừng và đất quy hoạch cho lâm nghiệp, nâng độ che phủ của rừng lên 43%
vào năm 2010 và 47% vào năm 2020. Chiến lược cũng đã đưa ra một Chương trình
quản lý và phát triển rừng bền vững, với mục tiêu: Quản lý, phát triển và sử dụng
bền vững, có hiệu quả nhằm đáp ứng về cơ bản nhu cầu lâm sản cho tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quốc dân, ổn định xã hội, đặc
biệt tại khu vực các dân tộc ít người và miền núi, đồng thời bảo đảm vai trò phòng
hộ, bảo tồn đa dạng sinh học và cung cấp các dịch vụ môi trường, góp phần phát
triển bền vững quốc gia [1].
1.4. Một số nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài
Hiện nay, ở Việt Nam vấn đề QLRBV và Chứng chỉ rừng vẫn còn là những
nội dung mới mẻ, chưa được nhiều người quan tâm cũng như chưa được nghiên cứu
chuyên sâu trên phạm vi toàn lãnh thổ, chưa có một giải pháp hiệu quả nào cho vấn
đề quản lý, phát triển rừng bền vững. Một số đề tài, công trình khoa học liên quan
đến quản lý rừng bền vững đã được triển khai, đó là:


20

- Công trình Sử dụng đất tổng hợp bền vững của Nguyễn Xuân Quát năm

1996, công trình đã đưa ra các mô hình về sử dụng đất bền vững, mô hình về khoanh
nuôi, phục hồi rừng hiệu quả ở Việt Nam.
- Công trình Đánh giá hiện trạng quản lý rừng và đất rừng làm cơ sở đề xuất
sử dụng tài nguyên rừng bền vững ở Đăk Lăk của T.S Bảo Huy, trên cơ sở phân tích
hiện trạng, đánh giá tiềm năng, giá trị tài nguyên rừng, tác giả đã đề xuất giải pháp
quản lý, sử dụng tài nguyên rừng, đất rừng theo hướng bền vững.
- Một số đề tài nghiên cứu đã bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng
cho một số vùng như quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê
San của Phạm Đức Lân và Lê huy Cường [15]; quản lý bền vững rừng khộp ở Ea Súp
- Đăc Lắc của Hồ Viết Sắc [19]; du canh với vấn đề quản lý rừng bền vững ở Việt
Nam của Đỗ Đình Sâm [20].
- Đề tài Nghiên cứu các giải pháp phục hồi rừng bằng khoanh nuôi ở một số
tỉnh trung du, miền núi phía bắc Việt nam của GS.TS. Vũ Tiến Hinh và cộng sự đã
đưa ra các giải pháp phục hồi, phát triển tài nguyên rừng một cách hiệu quả, bền
vững bằng con đường tự nhiên [14].
- Theo Nguyễn Xuân Quát, Phạm Ngọc Thường, Đặng Văn Thuyết (2004),
quản lý rừng cộng đồng là một trong những phương pháp quản lý rừng mang tính
chất tổng hợp và toàn diện trên cả phương diện bảo vệ gây trồng và chế biến, tiêu
thụ các sản phẩm của rừng. Quan điểm này cũng chính là một giải pháp để quản lý
rừng bền vững.
- Một số công trình khác của các tác giả: Phạm Xuân Hoàn (2002), Trần Hữu
Viên (2004), Phùng Ngọc Lan (2004), Lê Thị Diên (2002, 2003)cũng đã đưa ra
rất nhiều các giải pháp phục hồi rừng và quản lý rừng dựa trên quan điểm quản lý
rừng bền vững.
- Một số đề tài Thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp của Trường Đại học Lâm
nghiệp trong những năm qua cũng dựa trên việc phân tích, đánh giá thực trạng công
tác quản lý rừng, các điều kiện, nguồn lực sẵn có của địa phương để từ đó đề xuất


21


các giải pháp QLRBV. Các công trình này có tính thiết thực cao và đã mang lại
những thành công đáng kể cho công tác quản lý rừng bền vững ở nhiều địa phương.
Cơ sở lý luận chung về quản lý rừng bền vững cho đến hiện nay đã tương đối
đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, về mặt thực tiễn, để áp dụng các giải pháp vào
từng địa phương, khu vực cụ thể cần phải có những điều chỉnh cũng như cần có
những nghiên cứu chuyên sâu để các giải pháp quản lý rừng bền vững thực sự đem
lại hiệu quả góp phần tích cực trong việc phát triển nguồn tài nguyên rừng cũng như
ổn định, phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương.
Hiện nay, trên khu vực quản lý rừng của Trường TCN Đông Bắc chưa có một
công trình nghiên cứu nào liên quan đến vấn đề QLRBV. Chức năng, nhiệm vụ quản
lý rừng của Trại thực nghiệm cũng có những nét đặc thù, khác biệt so với một số
công trình nghiên cứu về quản lý rừng trước đây. Bên cạnh đó là các hoạt động sản
xuất Nông lâm nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây của cộng
đồng dân cư trong khu vực đã ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tài nguyên rừng. Do
vậy, cần có một nghiên cứu chuyên sâu để đưa ra các giải pháp thiết thực, có tính
khả thi cao để áp dụng cho công tác quản lý sử dụng rừng theo hướng tổng hợp bền
vững tại Trại thực nghiệm Trường TCN Đông Bắc cũng như các khu vực có đặc
điểm, chức năng quản lý sử dụng rừng tương tự.


22

Chương 2
Mục tiêu, nội dung, phương pháp và
Phạm vi nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung:
Xây dựng được cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp quản lý, phát

triển và sử dụng bền vững tài nguyên rừng khu vực Trại thực nghiệm nhằm đáp ứng
các nhu cầu về đào tạo, kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái góp phần phát
triển bền vững HSTR ở Việt Nam.
* Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích, đánh giá được thực trạng tài nguyên rừng và ảnh hưởng của:
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và một số chính sách của Nhà nước đến việc quản
lý rừng bền vững tại Trại thực nghiệm.
- Đề xuất được một số giải pháp về mặt tổ chức, khoa học công nghệ và kinh
tế xã hội chủ yếu phục vụ cho công tác quản lý tài nguyên rừng theo hướng tổng hợp
và bền vững tại Trại thực nghiệm Trường TCN Đông Bắc.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, đề tài tiến hành nghiên cứu một
số nội dung cơ bản sau:
2.2.1. Nghiên cứu thực trạng tài nguyên rừng và ảnh hưởng của điều kiện tự
nhiên đến QLRBV
- Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu: Ví trí địa lý, ranh giới, địa hình,
địa chất, thổ nhưỡng, khí hậu, đất đai liên quan đến quản lý rừng. Trong khuôn
khổ giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích, đánh giá ảnh hưởng của điều
kiện tự nhiên đến nguồn tài nguyên thực vật rừng để thấy được những thuận lợi và
khó khăn trong thực tế sản xuất. Trên cơ sở đó đề xuất được các giải pháp QLRBV.
- Đặc điểm và hiện trạng tài nguyên rừng và đất rừng: Diện tích, đăc điểm,
trữ lượng theo trạng thái các loại rừng.


23

- Hiện trạng về môi trường: Độ che phủ, tài nguyên đất, nước (nước bề mặt và
nước ngầm) và những ảnh hưởng của xói mòn, lũ lụt
2.2.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý, sử dụng tài nguyên rừng và đất
rừng của Trại thực nghiệm

- Lịch sử phát triển của Trại thực nghiệm và những vấn đề có liên quan đến
quản lý sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng.
- Cơ cấu tổ chức, kết quả đạt được và những thuận lợi, khó khăn trong công
tác quản lý.
- Tình trạng khai thác, sử dụng rừng và đất rừng tại khu vực nghiên cứu: diễn
biến nguồn tài nguyên rừng và đất rừng, khai thác những giá trị kinh tế của rừng (gỗ,
củi và các lâm sản ngoài gỗ).
- Hiệu quả quản lý, tổ chức sản xuất, thực nghiệm nghiên cứu khoa học và
các chương trình, dự án của Trại thực nghiệm trên khu vực nghiên cứu.
2.2.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của cộng đồng dân cư trên khu vực đến QLRBV
- ảnh hưởng của việc gia tăng dân số đến quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên
rừng và đất rừng.
- ảnh hưởng của phong tục, tập quán đến sử dụng bền vững tài nguyên
thực vật rừng.
- ảnh hưởng của tập đoàn cây trồng, vật nuôi và phương thức canh tác trong
canh tác NLKH đến sử dụng bền vững tài nguyên thực vật rừng.
- ảnh hưởng của các yếu tố thị trường, thu nhập đến quản lý, sử dụng bền
vững tài nguyên thực vật rừng của Trại thực nghiệm.
- ảnh hưởng của hệ thống tổ chức cộng đồng dân cư, chính quyền địa
phương đến quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên thực vật rừng.
Cộng đồng dân cư trên khu vực nghiên cứu là một trong những yếu tố có ảnh
hưởng quan trọng đến công tác quản lý, sử dụng rừng bền vững. Do vậy, trong
nghiên cứu cần đánh giá đúng thực trạng về điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng
dân cư cũng như những nhu cầu trong qúa trình phát triển để từ đó đưa ra được các


×