Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận thu hút trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.37 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO

MÔN: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
BÀI NGHIÊN CỨU SỐ 4

Đề bài:
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CỦA CÁC NỀN KINH TẾ MỚI NỔI

GVHD : TS. NGUYỄN HỮU TUẤN
Lớp

: VB2 – K19 – FN01

Nhóm thực hiện :
1. NGUYỄN ĐỨC DŨNG
2. VŨ ANH DŨNG
3. TẠ QUANG HƯNG

TP.HỒ CHÍ MINH – 09/2017


Tác giả
a, Alexander Peter Groh,trường kinh doanh Emlyon, số 23 đại lộ ..., 69134 Ecully, Pháp
b, Matthias Wich, Đại học Công nghệ Darmstadt, Darmstadt, Đức
Thông tin bài nghiên cứu
-

Lịch sử bài nghiên cứu
Đã nhận ngày 23-6-2011


Đã nhận hiệu chỉnh ngày 07-03-2012
Được chấp nhận ngày 13-03-2012
Cập nhật trực tuyến ngày 21-03-2012

Từ khóa
-

FDI
So sánh kinh tế
Thị trường mới nổi
Phương pháp tổng hợp

Tóm tắt:
Bài nghiên cứu này sử dụng một phương pháp nghiên cứu tổng hợp để kiểm tra tại
sao một quốc gia lại thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn các nước khác. Phương pháp
tổng hợp xem xét tất cả các khía cạnh kinh tế xã hội được xác định, có thể đo lường và có
thể so sánh ảnh hưởng đến các quyết định vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến một quốc gia.
Kết quả là, chúng ta có thể xếp hạng 127 quốc gia về thu hút FDI của họ. Biện pháp cho
phép phân tích chi tiết những điểm mạnh, điểm yếu và tăng cường thảo luận về lý do tại sao
dòng FDI tập trung ở các nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, những phát hiện này cho thấy các
lĩnh vực mà các nước mới nổi nên cải thiện để thu hẹp khoảng cách hiện tại. Sự kiểm tra
chặt chẽ của chúng tôi chỉ ra rằng các biện pháp tổng hợp chính xác theo dõi các hoạt động
FDI thực.

1. Giới thiệu
Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển(UNCTAD, 2008) xác định rằng
mặc dù dòng chảy đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đã tăng đều đặn trong những thập
niên gần đây và đã có sự sụt giảm nhẹ vào đầu những năm 1980, 1990, 2000. Xu hướng này
phần nào được thúc đẩy bởi sự gia tăng lợi nhuận của các công ty trên toàn thế giới. Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế(OEDC) cho rằng FDI là một yếu tố quan trọng thúc đẩy nhanh

chóng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại
và phát triển (UNCTAD) trong năm 2007, FDI toàn cầu đạt mức cao kỷ lục với số tiền 1.833
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

1


tỷ USD và đã vượt qua rất nhiều so với kỷ lục trước đó là 400 tỷ USD. OEDC nhấn mạnh
rằng sự tăng trưởng của dòng FDI phản ảnh cả sự gia tăng về quy mô và số lượng các giao
dịch riêng lẻ thông qua các thương vụ mua bán sáp nhập xuyên biên giới hoặc đầu tư xây
dựng mới. Mặc dù dòng vốn FDI cho các nền kinh tế mới nổi ngày càng tăng lên nhưng
dòng vốn đổ vào các nền kinh tế phát triển vẫn chiếm 75% lượng FDI toàn cầu.
FDI đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thương mại quốc tế, và nó giúp
thiết lập các mối quan hệ trực tiếp,ổn định và lâu dài giữa các nền kinh tế. OECD (2008) cho
rằng FDI có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển doanh nghiệp địa phương, tăng
cường khả năng cạnh tranh của cả nơi nhận đầu tư và nhà đầu tư.
Quá trình ra quyết định của một nhà đầu tư nước ngoài rất phức tạp và đã được xem xét
ở cả mức độ vĩ mô và vi mô. Có rất nhiều yếu tố đã được xác định ảnh hưởng đến dòng chảy
FDI. Khu vực địa lý và các yếu tố quyết định đến hoạt động FDI là rất phức tạp, rất nhiều
yếu tố và riêng cho từng khu vực. Một bộ các thông số đầy đủ xác định dòng FDI áp dụng
cho tất cả các quốc gia trên phạm vi toàn cầu là không thể. Trong khi có một số yếu tố chắc
chắn giải thích dòng FDI xuất phát hoặc đến từ một số quốc gia nhất định, thì các yếu tố
tương tự lại không phù hợp với quy mô lớn. Báo cáo này góp phần giải thích các dòng FDI
chảy vào phần lớn các nước. Chúng tôi cung cấp một bộ chỉ số của các quốc gia về khả năng
thu hút FDI thể hiện những điểm mạnh và điểm yếu của từng nước. Biện pháp này, từ giờ sẽ
được gọi chung là chỉ số FDI, xem xét tất cả các khía cạnh xác định, có thể đo lường, so
sánh mức ảnh hưởng tới FDI. Từ đó chúng tôi có thể đưa ra bảng xếp hạng của 127 quốc gia
về mức độ hấp dẫn thu hút dòng vốn FDI. Từ đó để thấy được tại sao một số nước lại hấp
dẫn hơn các quốc gia khác. Chỉ số này cũng cho phép hiểu rõ hơn về hoạt động FDI trên quy
mô toàn cầu, có thể giúp cho các nhà hoạch định chính sách nâng cao sức hút của đất nước

của họ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng tôi cũng so sánh để thấy được tại sao dòng
vốn FDI lại tập trung nhiều vào các nước phát triển hơn là các quốc gia mới nổi. Những yếu
tố này chủ yếu liên quan đến hệ thống pháp lý, chính trị và cơ sở hạ tầng của các nền kinh tế
mới nổi. Chúng tôi tiến hành một số kiểm tra mạnh mẽ để xác định chất lượng của chỉ số
FDI. Chúng tôi đánh giá chỉ số FDI với các chỉ số tương tự (chỉ số thu hút FDI tiềm năng
bên trong, Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia, chỉ số thuận lợi cho thương mại) tập trung
vào các khía cạnh khác nhau của sức hút FDI. Các phân tích chứng minh rằng những chỉ
tiêu tổng hợp của chúng tôi chính xác hơn khi đo lường khả năng thu hút FDI của một quốc
gia so với những chỉ tiêu khác. Điều này là do việc chỉ đưa ra các tiêu chí xác định có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu từ cấu trúc chỉ số và lựa chọn hàng loạt dữ liệu có chất lượng.
Cuối cùng, chúng tôi xác nhận rằng không có chuỗi dữ liệu cá nhân nào hoặc sự kết hợp của

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

2


chúng có quyền giải thích cao hơn cho hoạt động FDI thực tế và cho thấy chỉ số của chúng
tôi cũng cho phép phân loại các nền kinh tế đang nổi và phát triển thông qua điểm cắt.
Phần 2 là tổng quan tài liệu về các yếu tố ảnh hướng đến các quyết định đầu tư FDI.
Phần 3 trình bày dữ liệu và phương pháp luận cho chỉ số của chúng tôi đối với một số quốc
gia, tiếp theo là mô tả kỹ thuật xây dựng phương pháp đánh giá tổng hợp. Trong phần 4,
chúng ta thảo luận về các kết quả và một số yếu tố ảnh hưởng tới dòng FDI một cách mạnh
mẽ. Các nhận xét xét và kết luận được đưa ra trong phần 5.

2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây.
Bài báo này đóng góp thêm các tiêu chí xác định FDI một cách đầy đủ, phần mở rộng nằm
ngoài phạm vi của bài báo này. Nhiều bài báo tập trung vào mức vi mô của FDI và kiểm tra
xem bên ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của công ty. Một phần khác của tài liệu
thảo luận về khía cạnh vĩ mô; vì thế các yếu tố cụ thể của quốc gia và cách thức chúng ảnh

hưởng đến tổng thể FDI ở cấp quốc gia. Đây là những điểm quan trọng nhất đối với quan
điểm của chúng ta khi xác định tiêu chí đánh giá khả năng thu hút vốn FDI của một quốc gia
cần hướng đến. Tuy nhiên, ngay cả một phần của tài liệu FDI này đã là quá rộng lớn và
chúng ta không thể hoàn toàn bao quát hết. Thông thường, nghiên cứu về FDI là một trong
hai vấn đề hoặc tập trung vào một quốc gia, một vùng là nơi xuất phát hoặc nhận dòng vốn.
Cách tiếp cận của chúng tôi rất rộng, chúng tôi kiểm tra chỉ số FDI của 127 quốc gia và bất
kỳ quốc gia nào cũng có thể xuất phát hoặc nhận nguồn vốn FDI. Do đó, chúng tôi không
xem xét một số khía cạnh đã được coi là có liên quan cho hoạt động FDI quốc gia hoặc khu
vực cụ thể. Điều này đáng chú ý với trường hợp các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú. Giải thích hợp lý cho FDI ở một số nước mới nổi, nhưng không đủ điều kiện
làm động lực cho đầu tư ở nhiều nền kinh tế phát triển mà không có tài nguyên thiên nhiên
hạn hẹp. Tương tự, điều này có giá trị đối với thay đổi tỷ giá chéo, lạm phát, hoặc sự phát
triển của thị trường vốn. Ví dụ, Froot và Stein (1991) cho thấy rằng thay đổi tỷ giá có thể
gây ảnh hưởng tới FDI. Trong khi đó theo tạp chí kinh tế quốc tế 2004 thị trường vốn địa
phương cũng có tầm quan trọng đối với FDI của một nước. Theo nghiên cứu của
Diyarbakirlioglu (2011), Mishra và Ratti (2011) ảnh hưởng tới FDI vốn hóa thị trường và sự
tự do dịch chuyển của các công ty đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, nhiều nước chúng tôi nghiên
cứu có tiền tệ gắn liền hoặc gần như gắn liền với tỷ lệ lạm phát. Do đó, họ có thể là điểm
đến của FDI từ "các quốc gia láng giếng" của họ mà không gây ra bất kỳ sự trao đổi ngoại
hối hoặc lạm phát. Trong khi đó một số nước mới nổi, đặc biệt là ở những nước có lạm phát
cao, đồng tiền sử dụng thực tế lại là USD. Hơn nữa, nhiều nước trong số đó không có bất kỳ
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

3


hoạt động thị trường vốn chính thức (được đo lường). Do đó, các yếu tố quyết định không
đủ điều kiện cho chỉ số toàn cầu của chúng tôi, và do đó, không được xét đến. Chúng tôi tập
trung vào những yếu tố quyết định được coi là có liên quan, đo lường được và có thể áp
dụng mạnh mẽ cho tất cả các quốc gia. Chúng tôi tập trung nhiều vào bốn loại động lực

chính thúc đẩy FDI bao gồm: hoạt động kinh tế, môi trường pháp lý và chính trị, môi trường
kinh doanh và cơ sở hạ tầng. Những yếu tố này là khuôn khổ để xây dựng chỉ số FDI.

2.1 Hoạt động kinh tế
Theo trực giác, tình trạng nền kinh tế của một nước ảnh hưởng đến hoạt động FDI.
Shatz và Venables (2000) nhận thấy rằng quy mô thị trường sẽ xác định thị trường mà các
công ty nước ngoài sẽ đầu tư. Fung và cộng sự (2002) kiểm tra các yếu tố quyết định của
FDI từ Hoa Kỳ và Nhật Bản ở Trung Quốc bằng cách sử dụng bộ dữ liệu khu vực. Họ nhận
thấy rằng mức GDP có tác động tích cực đáng kể đến thu hút dòng FDI. Zhang và Daly
(2011) chứng minh kết quả tương tự theo ngược lại. Billington (1999) nhấn mạnh rằng ngoài
GDP cao, tăng trưởng kinh tế tích cực sẽ ảnh hưởng đến dòng vốn FDI. Wheeler và Mody
(1992) lập luận rằng tăng trưởng công nghiệp nhanh và mở rộng thị trường nội địa đặc biệt
quan trọng đối với các nước đang phát triển. Hryckiewicz và Kowalewski (2010) lưu ý rằng
quy mô và tăng trưởng không chỉ quan trọng đối với FDI của các công ty công nghiệp. Khu
vực tài chính doanh nghiệp đi cùng với cơ sở đầu tư giống nhau. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố
khác ngoài quy mô hoặc tăng trưởng ảnh hưởng đến tình trạng của nền kinh tế của một quốc
gia và FDI. Addison và Heshmati (2003) thấy rằng sự mở cửa thương mại là một tham số
quan trọng ảnh hưởng tới FDI, đặc biệt là đối với Mỹ Latinh. Asiedu (2002) cho thấy ở các
nước đang phát triển, sự mở cửa của FDI phụ thuộc vào loại hình đầu tư. Bà cũng thấy rằng
sự mở cửa thương mại có tác động tích cực đến dòng chảy FDI. Pantulu và Poon (2003) và
Janicki và Wunnava (2004) lập luận rằng sự mở cửa thương mại là một yếu tố quyết định
quan trọng và giải thích rằng thương mại và đầu tư bổ sung cho nhau. Nonnenberg và
Cardoso de Mendonça (2004) nhấn mạnh rằng sự cởi mở của nền kinh tế là một sự thay thế
cho "sự sẵn lòng của một quốc gia" chấp nhận FDI và rằng nó là một yếu tố quan trọng
trong việc thu hút vốn. Akhter (1993), Al Nasser (2007), và Torrisi và các cộng sự (2008)
tìm kết quả tương tự và kết luận rằng sự cởi mở của một nền kinh tế tăng cường thu hút FDI.
Zhang và Daly (2011) cho thấy FDI đang chảy vào Trung Quốc nơi có chế độ kinh tế mở và
các nước có khối lượng xuất khẩu lớn từ Trung Quốc. Baniak và công sự (2005) tìm hiểu
các yếu tố quan trọng quyết định dòng chảy của FDI vào các nước chuyển đổi và cho thấy
sự bất ổn về kinh tế vĩ mô làm giảm FDI. Al Nasser (2007) tập trung vào 19 nước Mỹ Latinh

và Châu Á và nhấn mạnh rằng ngoài những yếu tố kinh tế cơ bản như quy mô thị trường và
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

4


tăng trưởng GDP, sự ổn định kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến dòng vốn FDI. Schneider và Frey
(1985) nhận thấy rằng các nước có thu nhập bình quân đầu người cao hơn và thâm hụt thanh
toán thấp hơn sẽ thu hút thêm FDI.

2.2 Môi trường pháp luật và chính trị
Hệ thống pháp lý và chính trị của một quốc gia cũng ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của nó đối
với các nhà đầu tư nước ngoài. Ramcharran (2000) cho thấy các yếu tố điều tiết và giảm rủi
ro đã đóng góp tích cực cho FDI và rằng một môi trường pháp lý không hợp lý và rủi ro của
quốc gia là những rào cản chính của FDI. Baniak và các cộng sự (2005) thấy rằng sự ổn
định của luật pháp là rất quan trọng để kích thích luồng vốn FDI, và sự minh bạch về khung
pháp lý của một quốc gia ảnh hưởng đến các quyết định của FDI. Naudé và Krugell (2007)
khẳng định điều này và nhấn mạnh rằng gánh nặng pháp lý và quy định của pháp luật là
những yếu tố quyết định mạnh mẽ của FDI.Ngoài ra, UNCTAD (2008b) nhận thấy rằng các
hệ thống quản trị có sự tham gia, minh bạch và có trách nhiệm để thúc đẩy và thực thi các
quy định của pháp luật là rất quan trọng.Naudé và Krugell (2007) cho rằng, ngoài chất
lượng của hệ thống pháp luật, chính trị, sự ổn định đóng một vai trò quan trọng trong việc
thu hút FDI. Theo Ramcharran (1999), bất ổn chính trị về các cuộc nội chiến, sự thoái vốn
bất hợp pháp, sự bất ổn về thị trường tài chính, và tham nhũng chính trị có ảnh hưởng đáng
kể đến FDI. Akhter (1993) đề cập rằng sự mất ổn định chính trị ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động kinh doanh và do đó là một yếu tố quan trọng đối với FDI. Nigh (1985) phân tích tác
động của các sự kiện chính trị đối với các quyết định FDI trong ngành công nghiệp sản xuất
của Hoa Kỳ và chỉ ra rằng chúng ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư.
Nigh (1986) kết luận rằng xung đột nội bộ và liên quốc gia ở Mỹ Latinh ảnh hưởng đến
luồng vốn FDI. Schneider và Frey (1985) cho thấy sự bất ổn chính trị làm giảm đáng kể

dòng FDI. Root và Ahmed (1979) xác định sự bất ổn chính trị là một trong những trở ngại
chính đối với các nước đang phát triển để thực hiện bất kỳ sự gia tăng đáng kể nào trong
FDI.

2.3 Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh của một quốc gia ảnh hưởng đến FDI. Janicki và Wunnava (2004)
cho rằng chi phí lao động là yếu tố quyết định cho dòng FDI chảy vào các nước CEE.
Barrell and Pain (1996) cũng thấy rằng chi phí lao động ảnh hưởng tới quyết định đầu tư.
Rodriguez và Pallas (2008) cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài được thúc đẩy bởi chi phí
nhân công, nhưng vốn con người, một yếu tố cơ bản làm tăng năng suất lao động của mỗi
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

5


lao động, cũng là một yếu tố quyết định các dòng FDI. Hartman (1984) thảo luận về những
tác động tiềm ẩn của chính sách thuế của một quốc gia về FDI rất phức tạp, và các quyết
định FDI bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những thay đổi trong đó. Cassou (1997) xác nhận rằng
các chính sách thuế có ảnh hưởng đến dòng chảy FDI giữa Hoa Kỳ và các nước khác, trong
khi Wei (2000) kết luận rằng việc tăng thuế suất đối với các công ty đa quốc gia sẽ làm giảm
FDI. Baniak và cộng sự (2005) nhận thấy rằng các yêu cầu thời gian và sự phức tạp của các
thủ tục quan liêu ảnh hưởng đến lợi ích dự kiến từ lợi nhuận, do đó ảnh hưởng đến kết quả
của các quyết định FDI. Bénassy-Quéré và cộng sự (2007) khẳng định rằng hệ thống hành
chính quan liêu là một yếu tố ảnh hưởng quyết định quan trọng tới dòng FDI. Họ thấy rằng
những quốc gia có tỷ lệ tham nhũng cao có xu hướng làm giảm dòng vốn FDI. Wei (2000)
nhấn mạnh rằng tham nhũng ảnh hưởng đến cả khối lượng và thành phần của dòng FDI
chảy vào.

2.4 Cơ sở hạ tầng (Infrastructure)
Cơ sở hạ tầng của một quốc gia cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định của

các nhà đầu tư vốn FDI. Loree và Guisinger (1995) nhận thấy rằng cơ sở hạ tầng giao thông
vận tải và thông tin liên lạc phát triển có ảnh hưởng tích cực thu hút dòng vốn FDI. Wheeler
và Mody (1992) kết luận rằng, đối với các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng là một trong
những yếu tố quyết định tới dòng vốn FDI. Root và Ahmed (1979) nói thêm rằng các nhà
đầu tư bị thu hút bởi các nước đang phát triển mà các chính phủ của họ đang tích cực tham
gia vào các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Al Nasser (2007) ủng hộ những phát hiện
này đối với các quyết định FDI ở Mỹ Latinh. Addison và Heshmati (2003) nhấn mạnh rằng
mức độ hiện đại của công nghệ thông tin và truyền thông ảnh hưởng mạnh đến dòng FDI
hướng vào một quốc gia.

2.5 Tổng kết và đánh giá
Tài liệu không cung cấp sự đồng thuận về các yếu tố quyết định quan trọng nhất
cho hoạt động FDI cũng như bất kỳ xếp hạng nào. Mặc dù một số thông số được thảo luận
rộng rãi hơn nhưng vẫn chưa rõ ràng về cách chúng tương tác. Ví dụ, có thể tranh luận liệu
hoạt động FDI ở một nước có hệ thống pháp luật chất lượng cao bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi
chi phí lao động hoặc cơ sở hạ tầng của nước này. Ngoài ra, nhiều tiêu chí có liên quan, mặc
dù mối quan hệ nhân quả của họ không phải lúc nào cũng rõ ràng. Đối với việc tính chỉ số,
sẽ là lý tưởng để bao gồm tất cả các tham số được xác định. Tuy nhiên, một số tài liệu được
trích dẫn tập trung vào các nền kinh tế hoặc khu vực cụ thể, và các bộ dữ liệu của họ không
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

6


có sẵn và cũng không thể so sánh với dữ liệu của các quốc gia chúng tôi kiểm tra. Do đó,
chúng tôi cố gắng tìm ra các thay thế tốt nhất có thể cho các tiến trình của chỉ số FDI. Chúng
tôi đã xác định bốn tiêu chí chính xác định hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm
vi toàn cầu: hoạt động kinh tế, môi trường pháp lý và chính trị, môi trường kinh doanh, và
cơ sở hạ tầng như là một đóng góp chính của bài báo của chúng tôi và nêu rõ các tiêu đề phụ
của tổng quan tài liệu. Đối với phương pháp tổng hợp của chúng tôi, chúng tôi thu hẹp thông

tin về một số lượng lớn các thông số và đặt chỉ số FDI vào các "động lực chính" này của
FDI.

3. Dữ liệu và phương pháp luận
Các chỉ số tổng hợp được sử dụng để tóm tắt một số chỉ số cơ bản hoặc các biến số.
Đó là các biện pháp định lượng hoặc định tính bắt nguồn từ một loạt các sự kiện quan sát
thấy có thể tiết lộ hoặc các đặc tính có thể thay đổi. Một mô tả tốt được đưa ra bởi Nardo và
cộng sự (2005). Mục tiêu của chúng tôi là thu thập dữ liệu cho một số lượng lớn các quốc
gia từ khắp nơi trên thế giới để đánh giá các động lực chính cho FDI. Khả năng thu hút FDI
của các quốc gia là một chức năng của nhiều tiêu chí: trong đó

là một vector của đặc điểm

quốc gia về kinh tế xã hội và f (...) là hàm chức năng:
→f( )

tập hợp kết quả từ cấu trúc chỉ số, như đề xuất trong Bảng 1, và từ trọng số và kỹ thuật tổng
hợp. Khả năng thu hút FDI không thể đo lường trực tiếp. Chỉ số FDI nên được hiểu là một
chỉ số cơ bản của các tiêu chí ảnh hưởng đến hoạt động FDI

3.1 Chuỗi dữ liệu (Data series)
Thật không may, sự sẵn có của dữ liệu là trở ngại lớn nhất của nghiên cứu của chúng tôi. Vì
chúng ta muốn bao gồm càng nhiều quốc gia càng tốt, chúng ta cần phải tìm ra một sự thỏa
hiệp giữa dữ liệu đầy đủ, chất lượng và phạm vi nghiên cứu. Mặc dù không có hướng đi
chính nào có thể quan sát trực tiếp, nhưng chúng tôi xác định được 20 chuỗi dữ liệu riêng
biệt cho chỉ mục của chúng tôi. Những dữ liệu này, mẫu số bổ sung, đơn vị và nguồn, và cấu
trúc chỉ mục được trình bày trong bảng 1. Lưu ý rằng chất lượng dữ liệu có thể bị ảnh hưởng
bởi các phương pháp thu thập dữ liệu không đồng nhất ở các quốc gia riêng lẻ. Ngoài ra,
chúng tôi có thể bao gồm quá nhiều hoặc thậm chí quá ít các mục riêng lẻ để tính toán, và do
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.


7


đó, có thể làm tăng lên hoặc giảm xuống khi xác định chỉ mục. Để giải quyết những vấn đề
này, chúng tôi đã thực hiện nhiều phân tích độ nhạy cảm thay đổi phương pháp tổng hợp và
loại bỏ các chuỗi dữ liệu nếu phù hợp. Qua đó chúng tôi tối ưu hóa cấu trúc chỉ số và số
lượng các chuỗi dữ liệu và các trình điều khiển chính để tối đa hoá khả năng theo dõi của
FDI trong thực tế. Những phân tích độ nhạy không được báo cáo do không gian hạn chế
nhưng tương tự như những điều được trình bày dưới đây. Kết quả của các phân tích độ nhạy,
Bảng 1 trình bày chỉ mục của chúng tôi sau khi nỗ lực tối ưu hóa đáng kể. Chúng tôi xem
xét dữ liệu nhiều năm trong hầu hết các trường hợp, chúng tôi xem bản ghi dữ liệu cuối
cùng (xem phụ lục để biết chi tiết). Tuy nhiên, sự biến động kinh tế, quy mô kinh tế bình
quân đầu người, tăng trưởng GDP thực, thặng dư / thâm hụt thương mại, và biến số kiểm
soát FDI / GDP được tính trung bình trong ba năm gần đây. Chúng tôi hạ thấp một số chuỗi
dữ liệu theo GDP hoặc theo dân số để đảm bảo tính so sánh. Không phải tất cả các chuỗi dữ
liệu đều là dữ liệu thô, nhưng đều là những số liệu sẵn có, chẳng hạn như các Chỉ số Quản
trị Toàn cầu của Ngân hàng Thế giới. Cấu trúc chỉ số dựa trên ba cấp độ. Thứ nhất là mức độ
của bốn động lực chính. Ở trên chúng tôi đã cố gắng đưa ra bốn yếu tố chính và cố gắng xác
định các cấu trúc phụ và nhóm dữ liệu từ cấp độ 3 nếu chúng chia sẻ một đặc tính chung (ví
dụ: giao thông 4.1 – bảng 1). Ưu điểm chính của cấu trúc hình chóp này là nó cho phép truy
tìm các giá trị của hướng đi chính để tăng mức độ chi tiết. Điều này rất quan trọng cho các
phân tích tiếp theo về điểm mạnh và điểm yếu của các quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Ngoài
ra, chuỗi dữ liệu ở mức chỉ mục thấp hơn không nhận được quá nhiều tỷ trọng trong quy
trình tổng hợp.
Bảng 1: Cấu trúc chỉ mục, chuỗi dữ liệu, đơn vị của chúng và nguồn.
Định
danh

Từ khóa hướng dẫn,

xây dựng, chuỗi dữ liệu

Đơn vị

Mẫu số 1

Dân số

Triệu

Mẫu số 2

Tổng GDP

Triệu
USD

1. Hoạt động kinh tế
Quy mô thị trường và
1.1
tiềm năng
Quy mô kinh tế trên đầu
1.1.1
người (GDP/người;
PPP/người)
1.1.2
Tăng trưởng thực GDP
cùng kỳ

%/người

Tỷ lệ %

Nguồn tham khảo
IMF, UNFPA Tình hình Dân số Thế giới
năm 2008 cho các giá trị trong năm
2008,UNFPA Tình hình Dân số Thế giới
năm 2007 cho các giá trị trong năm 2007
Công ty nghiên cứu thị trường
Euromonitor International từ Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF).Thống kê Tài chính Quốc
tế

IMF, Cơ sở dữ liệu về Triển vọng Kinh tế
Thế giới (Tháng 10 năm 2008)
Công ty Euromonitor International từ
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Thống kê Tài

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

8


1.2

Sự cởi mở về kinh tế (tỷ
lệrào cản thương mại)

[#]

1.3


Sự ổn định kinh tế (thặng
dư/thâm hụt chi tiêu
chính phủ)

[% của
GDP]

chính Quốc tế
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo Cạnh
tranh toàn cầu 2008-2009 từ Khảo sát ý
kiến Chuyên gia năm 2007, 2008
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo Cạnh
tranh toàn cầu 2008-2009 từ IMF,
Cơ quan Dữ liệu Kinh tế Thế giới
(Tháng 4 năm 2008); Báo cáo của IMF;
Ngân hàng Trung ương châu Âu;
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu
Âu;
Ngân hàng Phát triển Châu Phi;
Economist Intelligence Unit,
Cơ sở dữ liệu quốc gia (tháng 6 năm
2008); Nguồn quốc gia

2. Hệ thống pháp luật và chính trị
2.1
Hệ thống pháp luật
Ngân hàng Thế giới, WGI (Chỉ số Quản
trị Toàn cầu)
Ngân hàng Thế giới, WGI (Chỉ số Quản

trị Toàn cầu)

2.1.1

Quy tắc pháp luật

[#]

2.1.2

Chất lượng quy định

[#]

2.1.3

Hợp đồng thực thi pháp
luật

[#]

Học viện Fraser

2.1.4

Tác động kinh doanh đối
với FDI

[#]


Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo Cạnh
tranh toàn cầu 2008 -2009 từ Khảo sát ý
kiến Điều hành năm 2007, 2008

[#]

Ngân hàng Thế giới, WGI (Chỉ số Quản
trị Toàn cầu)

[#]

Ngân hàng Thế giới, WGI (Chỉ số Quản
trị Toàn cầu)

[#]

Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo
Năng lực cạnh tranh Toàn cầu 2008
-2009 từ Điều tra ý kiến Chuyên gia năm
2007, 2008

2.2
2.2.1
2.2.2

Hệ thống chính trị
Sự ổn định chính trị và
sự vắng mặt của
bạo lực / khủng bố
Hiệu quả của chính phủ


3. Môi trường kinh doanh
3.1

Chi phí lao động (chi trả
và năng suất lao động)

Thuế(thuế lợi tức và thuế
thu nhập doanh nghiệp)
Quan liêu (yêu cầu hành
3.3
chính)
Tham nhũng (kiểm soát
3.4
tham nhũng)
4. Cơ sở hạ tầng
4.1
Vận chuyển
3.2

Tỉ lệ %

Làm kinh doanh

[#]

Học viện Fraser

[#]


Ngân hàng Thế giới, WGI (Chỉ số Quản
trị Toàn cầu)

4.1.1

Chất lượng đường xá

[#]

4.1.2

Chất lượng cơ sở hạ tầng
đường sắt

[#]

Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo
Năng lực cạnh tranh Toàn cầu 2008
-2009 từ Điều tra ý kiến Chuyên gia năm
2007, 2008
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo
Năng lực cạnh tranh Toàn cầu 2008
-2009 từ Điều tra ý kiến Chuyên gia năm

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

9


4.1.3


Chất lượng của cơ sở hạ
tầng cảng

[#]

4.1.4

Chất lượng cơ sở hạ tầng
vận chuyển hàng không

[#]

4.2

Năng lượng (chất lượng
cung cấp điện)

[#]

4.3

Cơ sở hạ tầng ICT
(đường dây cố định và
thuê bao điện thoại di
động)

Phần
trăm
trên đầu

người

2007, 2008
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo
Năng lực cạnh tranh Toàn cầu 2008
-2009 từ Điều tra ý kiến Chuyên gia năm
2007, 2008
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo
Năng lực cạnh tranh Toàn cầu 2008
-2009 từ Điều tra ý kiến Chuyên gia năm
2007, 2008
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo
Năng lực cạnh tranh Toàn cầu 2008
-2009 từ Điều tra ý kiến Chuyên gia năm
2007, 2008
Ngân hàng Thế giới, Chỉ số Phát triển
Thế giới

3.2 Ví dụ áp dụng đối với một quốc gia
Câu hỏi về việc liệu có phải một quốc gia được xét đến trong chỉ mục của chúng tôi là do sự
sẵn có của loạt dữ liệu. Mục tiêu là tìm ra một bộ dữ liệu thích hợp và cũng như một số
lượng lớn các quốc gia ở tất cả các khu vực trên thế giới, cũng như trong các giai đoạn phát
triển khác nhau. Bảng 2 trình bày 127 quốc gia, nhóm vào tám khu vực địa lý theo phân
nhóm của IMF.

3.3 Tính chỉ số
Chúng tôi làm theo hướng dẫn của Nardo và cộng sự (2005) và phân chia nhiệm vụ theo bốn
bước: phân tích tính nhất quán, bình thường hoá và chuẩn hóa, trọng số và tập hợp (Hình 1)
Bảng 2: Độ bao phủ các đất nước.
Khu vực


Quốc gia

Châu Phi

Algeria, Benin, Botswana, Burkina Faso, Burundi, Cameroon,
Chad, Côte d'Ivoire, Ai Cập,Ethiopia, Ghana, Kenya, Lesotho,
Libya, Madagascar, Malawi, Mali, Mauritania, Mauritius,
Morocco, Mozambique, Namibia, Nigeria, Senegal, Nam Phi,
Suriname, Tanzania, Trinidad và Tobago, Tunisia, Uganda,
Zambia, Zimba bwe

Châu Á

Azerbaijan, Bangladesh, Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Nhật
Bản, Cộng hòa Kyrgyz, Nepal, Pakistan, Hàn Quốc, Liên bang
Nga, Tajikistan

Châu Á và châu

Úc, Brunei, Campuchia, Indonesia, Malaysia, New Zealand,

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

10


Đại Dương

Philipin, Singapore, Đài Loan,Thái Lan, Timor-Leste, Việt Nam


Đông Âu

Albania, Armenia, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Croatia, Síp,
Séc, Estonia, Gruzia, Hungary, Latvia, Lithuania, Macedonia,
Malta, Moldova, Montenegro, Ba Lan, Rumani, Serbia, Slova kia,
Sloveni a, Ukraine

Mỹ La-tinh

Argentina, Barbados, Bolivia, Braxin, Chilê, Colombia, Costa
Rica, Cộng hòa Dominica, Ecuador, El Salvador, Guatemala,
Guyana, Honduras, Jamaica, Mexico, Paraguay, Peru, Puerto Rico,
Uruguay, Venezuela

Trung Đông

Bahrain, Israel, Kuwait, Oman, Qatar, Ả-rập Xê-út, Syria, Thổ Nhĩ
Kỳ, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất

Bắc Mỹ

Canada, Hoa Kỳ

Tây Âu

Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần đất đai, Pháp, Đức, Hy Lạp, Iceland, Ailen, It aly, Luxembourg,Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh

Chúng tôi mô tả các kỹ thuật được sử dụng để phân tích sự thống nhất của chỉ mục, để bình

thường hoá và chuẩn hóa dữ liệu, để xác định trọng lượng, và cuối cùng là cho việc tập hợp
dữ liệu. Kết quả rất nhạy cảm với các kỹ thuật khác nhau. Vì vậy, chúng tôi áp dụng một số
kết hợp của các phương pháp đề xuất và giới thiệu bốn các phiên bản của chỉ số (Bảng 3).
Sức mạnh giải thích của các chỉ số này sẽ được so sánh trong phần tiếp theo của bài báo này
để phát hiện sự kết hợp nào đem lại kết quả tốt nhất và do đó đạt được nhiều nhất biện pháp
thích hợp để xác định thu hút FDI của nước chủ nhà. Trong phiên bản 1 của Chỉ số FDI,
chúng tôi tính các điểm z của chuỗi dữ liệu, cân bằng chúng bằng với cấu trúc được đề xuất
trong Bảng 1 và sử dụng tập hợp tuyến tính. Phiên bản 2 giống hệt nhau, nhưng sử dụng
phương pháp định lại để chuẩn hóa dữ liệu. Phiên bản 3 giống hệt với phiên bản 2, nhưng
chúng tôi áp dụng tập hợp hình học. Chỉ số 4 cũng tương tự như 3, nhưng sử dụng phân tích
nhân tố để xác định trọng lượng của bốn hướng đi chính
3.3.1 Phân tích sự nhất quán của chỉ số (Analysis of index consistency)
Nardo và các cộng sự (2005) đã đề xuất các phân tích nhất quán của chuỗi dữ liệu đã chọn
trước khi xây dựng một biện pháp tổng hợp. Với việc kiểm tra tính nhất quán, chúng tôi
chứng minh rằng các dữ liệu thô và các chỉ số sẵn sàng là không định hướng, và do đó, phù
hợp với sự tổng hợp của chúng. Kiểm tra tính nhất quán cũng nên được tiến hành trước khi
phân tích nhân tố để xác định liệu các yếu tố phân tích kết quả là hợp lý. Green và các cộng
sự(1977), Hattie (1985), Feldt và các cộng sự (1987), Cortina (1993), Miller (1995) và
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

11


Raykov (1998), bao gồm việc sử dụng alpha của Cronbach và các biện pháp khác như
Kaiser-Meyer-Olkin đo lường mức độ mẫu (MSA) và bài kiểm tra của Bartlett của
Sphericity để kiểm tra tính nhất quán. Alpha của Cronbach bằng 0 nếu không có tương quan
và các chỉ số phụ độc lập. Nếu các mục cơ bản có mối tương quan hoàn toàn, nó tương
đương với một. Do đó, alpha của Cronbach cao là dấu hiệu cho biết cơ bản
Hình 1. Phương pháp tính chỉ số.


Bảng 3: Các phiên bản của chỉ số FDI
Chuẩn hóa và tiêu
chuẩn hóa

Đề án trọng số

Tập hợp

1

z-score

Công bằng

Tuyến tính

2

Thay đổi tỷ lệ

Công bằng

Tuyến tính

3

Thay đổi tỷ lệ

Công bằng


Hình học

4

Thay đổi tỷ lệ

Phân tích nhân tố cho các trình điều
khiển chính, bằng trọng số cho các
chỉ số phụ 2 và 3 và chuỗi dữ liệu

Hình học

Phiên bản

Lưu ý: Bốn phiên bản này mang lại sức mạnh giải thích cao nhất của tám kết hợp có thể. Chúng tôi không đề xuất và phân
tích các kết hợp thấp kém khác.

đánh giá biến mong muốn một các tốt. Theo Nunnally (1978), giá trị 0,7 là ngưỡng chấp
nhận được. Đo lường Kaiser-Meyer-Olkin về độ an toàn lấy mẫu (MSA) dựa trên sự tương
quan một phần giữa các biến đầu vào, và nên có ≥ 0.5 để tiến hành phân tích các yếu tố, như
Kaiser và Rice đã mô tả (1974). Bài kiểm tra Sphericity của Bartlett cho thấy liệu ma trận
tương quan không phải là ma trận nhận dạng và do đó có thể được một thừa số. Giá trị kiểm
tra của nó phải dưới mức 0,05 mức độ quan trọng.
Bảng 4 cho thấy rằng tất cả các số liệu thống kê thử nghiệm cho các trình điều khiển chính
đều có thể chấp nhận được, nhưng các số liệu alpha của Cronbach cho dữ liệu sử dụng để
lắp ráp các hoạt động kinh tế và các trình điều khiển môi trường kinh doanh thấp hơn giá trị
giới hạn của Nunally là 0,7. Các phân tích chi tiết hơn cho thấy, đối với hoạt động kinh tế,
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

12



chúng ta có thể loại bỏ tốc độ tăng trưởng GDP từ việc lựa chọn để tăng cường alpha của
Cronbach. Điều này là do sự tương quan nhỏ của tăng trưởng GDP với các tiêu chí khác
được sử dụng để đánh giá trình điều khiển chính này. Đối với môi trường kinh doanh, chỉ số
về thuế của chúng tôi tương quan kém với các chỉ số khác, và có thể bị loại bỏ để cải thiện
kết quả theo thống kê. Tuy nhiên, chúng ta tuân theo lý do kinh tế dựa trên các tài liệu trước
đây về chủ đề này, coi hai vấn đề này quan trọng đối với việc thu hút FDI của một quốc gia
và do đó giữ chúng trong suốt quá trình nghiên cứu của chúng tôi.
3.3.2. Chuẩn hóa

Để tổng hợp chỉ mục, tất cả các điểm dữ liệu cần phải được chuẩn hóa thành tỷ lệ chung.
Tổng quan về các phương pháp khác nhau và thảo luận về những ưu và nhược điểm cụ thể
có thể tìm thấy ở Freudenberg (2003), Jacobs và các cộng sự (2004), và Nardo và các cộng
sự (2005). Ebert và Welsch (2004) lập luận rằng điểm z và phương pháp thay đổi tỷ lệ là các
phương pháp được sử dụng phổ biến nhất vì các đặc tính mong muốn của chúng khi dữ liệu
được tổng hợp. Do đó, bài viết này sử dụng cả hai phương pháp để chuẩn hóa điểm-Z
chuyển đổi dữ liệu cơ bản sang một tỷ lệ phân phối trung bình, với một trung bình bằng
không và độ lệch chuẩn của một. Điều này hàm ý rằng các biến có cực trị sẽ ảnh hưởng lớn
đến chỉ mục. Phương pháp thay đổi tỷ lệ được sử dụng để chuẩn hóa các chỉ mục cho một
dãy đồng nhất bằng phương pháp chuyển đổi tuyến tính. Phương pháp thay đổi tỷ lệ biến đổi
tất cả các biến số của chỉ số phụ thành một tỷ lệ từ 1 đến 100 điểm, trong đó 100 đại diện
cho điểm tốt nhất và 1 đại diện cho điểm xấu nhất. Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ lại dễ bị sai
lệch bởi các điểm cực trị hoặc những điểm sai lệch có thể bóp méo quá trình chuyển đổi.
Phương pháp mở rộng phạm vi của các chỉ số nằm trong khoảng nhỏ hơn so với việc sử
dụng phép biến đổi điểm z, cho phép giải thích dễ dàng hơn.
3.3.3. Trọng số của các chỉ mục
Chúng tôi sử dụng hai hệ số để xác định các chỉ số cho các chỉ mục. Chúng tôi sử dụng cân
bằng cho tất cả các chuỗi dữ liệu và các trình điều khiển chính theo cấu trúc được trình bày
trong Bảng 1 cho các phiên bản từ 1 đến 3, chúng tôi sử dụng các phân tích nhân tố cho bốn

trình điều khiển chính cho phiên bản 4. Theo Nardo và cộng sự (2005), hầu hết các chỉ số
tổng hợp
Bảng 4: Phân tích tính nhất quán.
Trình điều khiển chính

Hệ số Cronbach alpha

Giá trị MSA

Thử Bartlett

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

13


1. Hoạt động kinh tế

0.617

0.610

0.000

2. Hệ thống pháp luật và
chính trị

0.908

0.862


0.000

3. Môi trường kinh doanh 0.522

0.546

0.000

4. Cơ sở hạ tầng

0.705

0.000

0.894

đều dựa vào trọng số như nhau. Mặc dù đây là cách tiếp cận đơn giản, sơ đồ trọng số bình
đẳng, như được trình bày dưới đây, không khác biệt nhiều so với kết quả từ các phân tích
nhân tố. Khi sử dụng phân tích nhân tố, mỗi thành phần được gán trọng số theo sự đóng góp
của nó vào tổng sai số trong dữ liệu. Điều này đảm bảo rằng các chỉ số tóm lược kết quả
chiếm một phần lớn sự khác biệt giữa các quốc gia. Nicoletti và các cộng sự (2000) nhấn
mạnh rằng tính chất của các phân tích nhân tố là đặc biệt mong muốn đối với việc so sánh
giữa các nước. Một cuộc thảo luận chi tiết hơn về các phân tích nhân tố có thể được tìm thấy
trong Hair và các cộng sự (2006). Nardo và cộng sự (2005) nhấn mạnh rằng, kỹ thuật thích
hợp nhất để phát triển các chỉ số tổng hợp là thực hiện phân tích thành phần chính.
Tuy nhiên, trước khi tiến hành phân tích thành phần chính, chúng tôi xác minh tính không
quan trọng của các trình điều khiển chính với các biện pháp được mô tả ở trên. Alpha của
Cronbach cho bốn trình điều khiển chính là 0.874 và, do đó, nhấn mạnh sự phù hợp của việc
lựa chọn dữ liệu. Giá trị MSA là 0.837 và Bartlett's Test có ý nghĩa ở mức 0.000. Bảng 5

minh họa kết quả phân tích thành phần chính. Một thành phần giải thích 82% tổng phương
sai của dữ liệu cơ bản
Giá trị alpha và MSA của Cronbach cao, và chỉ trích ra một yếu tố giải thích phần lớn sự
khác biệt về dữ liệu, chứng minh rằng các trình điều khiển chính là các proxy chính xác cho
một yếu tố tiềm ẩn duy nhất. Chúng là những chiều hướng đơn giản và do đó thể hiện một
đặc tính. Do đó, các động lực chính của chúng tôi là những người ủy nhiệm thích hợp để
đánh giá khả năng thu hút FDI của các nước.
Bước cuối cùng đề cập đến tính toán trọng lượng cho bốn trình điều khiển chính. Tải trọng
yếu tố đại diện cho tỷ lệ của phương sai của chỉ số được giải thích bởi yếu tố. Trọng lượng
của một chỉ số phụ được xác định bởi tỉ lệ của tải thành phần bình phương và phương sai
của mô hình. Bảng 6 trình bày các tải trọng hợp phần và trọng lượng kết quả cho các trình
điều khiển chính.
Bảng 6 cho thấy hệ thống chính trị và cơ sở hạ tầng có trọng lượng cao nhất trong khi môi
trường kinh doanh nhận được mức thấp nhất. Điều này có nghĩa là "nếu chúng ta để dữ liệu
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

14


nói" môi trường pháp lý và chính trị ở một quốc gia cụ thể là yếu tố quyết định mạnh nhất
cho hoạt động FDI. Tuy nhiên, sự khác biệt về trọng lượng chỉ là nhỏ đối với một chương
trình trọng số như nhau. Vì vậy, như chúng tôi đã xác nhận sau đó, việc sử dụng phân tích
nhân tố để xác định trọng lượng của trình điều khiển chính không làm thay đổi kết quả của
chỉ số đến bất kỳ mức độ có ý nghĩa nào.

3.3.4. Tổng hợp
Theo Nardo và các cộng sự (2005), các phương pháp tổng hợp có thể được phân biệt bằng
các phương pháp cộng, tổng hợp hình học và phân tích đa tiêu chuẩn không bồi hoàn.
Chúng tôi sử dụng các phương pháp tập hợp tuyến tính và hình học. Nardo và cộng sự
(2005a) lập luận rằng tập hợp tuyến tính chỉ định các chỉ số cơ bản tương ứng với trọng

lượng nhưng cũng lưu ý rằng tập hợp hình học đánh giá các quốc gia đó hoặc các chỉ số phụ
có điểm số cao hơn. Ebert và Welsch (2004) nhấn mạnh rằng sự kết hợp tuyến tính hữu ích
khi tất cả các chỉ thị phụ có cùng một đơn vị đo lường và cho rằng sự kết hợp hình học phù
hợp hơn nếu các chỉ số phụ không tương xứng và tương đối tích cực được thể hiện theo các
tỷ lệ khác nhau. Chúng tôi sử dụng cả hai phương pháp tổng hợp để tính các phiên bản chỉ
mục khác nhau để xác định phiên bản nào mang lại kết quả theo dõi FDI tốt nhất.

3.4. Giải thích các phiên bản khác nhau chỉ số
Chúng tôi kiểm tra sức mạnh giải thích của mỗi phiên bản chỉ số (Bảng 3) bằng cách so sánh
điểm số với hoạt động FDI thực tế ở mỗi quốc gia. Về mặt tự nhiên, các luồng FDI hướng
tới phải đại diện cho một chỉ số đầy đủ về sự hấp dẫn của một quốc gia đối với các nhà đầu
tư nước ngoài.
Bảng 5:Kết quả phân tích nhân tố.
Hợp
phần
1

Giá trị riêng
Toàn bộ
3.281

Lượng chiết xuất của tải trọng

% phương sai

% tích lũy

Toàn bộ

% phương sai


% tích lũy

82.014

82.014

3.281

82.014

82.014

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

15


2

0.371

9.279

91.293

3

0.207


5.174

96.467

4

0.141

3.533

100.000

Bảng 6: Trọng lượng cho bốn trình điều khiển chính.
Hợp phần

Cân nặng

Hoạt động kinh tế

0.919

0.257

Hệ thống pháp luật và chính trị

0.938

0.268

Môi trường kinh doanh


0.849

0.220

Cơ sở hạ tầng

0.914

0.255

Do đó, chúng tôi chính thức kiểm tra chỉ số FDI như sau:
FDIActivity-f(©)
Để đảm bảo tính so sánh giữa các quốc gia khác nhau, chúng tôi giảm bớt sự ảnh hưởng tới
FDI theo quy mô kinh tế. Hơn nữa, để tính đến sự biến động lớn về thời gian của dòng FDI
chảy vào trong nhiều nước, chúng tôi sử dụng trung bình trong ba năm để tính toán. Hơn
nữa, chúng ta bỏ các ngoại lệ với FDI có tỷ suất rất cao, rất thấp và dao động mạnh (ví dụ từ
phủ định sang tích cực) từ mẫu. Để đưa ra một giá trị rõ ràng, chúng tôi quyết định loại bỏ
một nước khỏi mẫu khi tỷ lệ độ lệch chuẩn của FDI (trên ba năm) và trung bình ba năm của
FDI / GDP lớn hơn 0,5, do đó còn lại 67 khả năng. Chúng ta liên kết trung bình ba năm của
FDI / GDP với điểm số của bốn phiên bản chỉ số khác nhau trên khắp các quốc gia này và
trình bày kết quả trong Bảng 7.
Bảng 7 cho thấy những điều sau:
a) Theo các phân tích tương quan, phương pháp thích hợp nhất để đo sự hấp dẫn của một
quốc gia cho các nhà đầu tư FDI là phương pháp 1 (ρ = 0.543).
b) Các nỗ lực bổ sung để thực hiện phân tích các yếu tố thực sự dẫn đến kết quả tồi tệ hơn.
c) Kết hợp hình học thực hiện tốt hơn so với kết hợp tuyến tính.
Đánh giá các kết quả cho thấy rằng chỉ số thứ nhất phù hợp với tiêu chí của chúng tôi, vì vậy
đây được coi là "Chỉ số FDI" của chúng tôi.


Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

16


4. Các kết quả
Chúng tôi tính chỉ số FDI theo cách tiếp cận đã thảo luận ở trên. Hình. 2 và 3 trình bày một
bảng xếp hạng thu hút vốn FDI của 127 quốc gia. Chúng tôi xác định điểm số trung bình
trọng số GDP trên thế giới (được biểu diễn bởi 127 quốc gia), và sử dụng nó làm điểm
chuẩn được điều chỉnh về 100 để đơn giản hóa so sánh giữa các quốc gia và khu vực. Chúng
tôi trình bày tất cả các điểm điều khiển chính trong phần Phụ lục cho bài báo này để mở
rộng thảo luận về các kết quả của chúng tôi.
Singapore, Hồng Kông, Luxembourg, và các tiểu vương quốc Arập thống nhất là những
quốc gia dẫn đầu trong bảng xếp hạng. Tất cả bốn quốc gia đều thực hiện trên mức trung
bình trên tất cả các mục chỉ số. Singapore là quốc gia thực hiện tốt nhất trong hai trên bốn
nhân tố ảnh hưởng chính: môi trường kinh doanh và hệ thống pháp lý và chính trị; nó được
xếp hạng cao vì hoạt động kinh tế mạnh mẽ và vì cơ sở hạ tầng.
Business Monitor International (2006) xác nhận rằng Singapore rất hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài do môi trường chính trị ổn định, không tham nhũng, mức độ quan liêu thấp, có
cơ sở hạ tầng đã phát triển tốt và định hướng thị trường hấp dẫn, làm cho việc kinh doanh tại
Singapore dễ dàng và có lợi nhuận. Hồng Kông đứng thứ hai, và nhận được nhiều điểm nhất
cho cơ sở hạ tầng toàn thế giới. Cái cuối cùng cũng được Economist Intelligence Unit
(2008) mô tả rằng cơ sở hạ tầng viễn thông của Hồng Kông thực sự là rất tuyệt vời, tiêu biểu
như sân bay quốc tế, cơ sở hạ tầng đường sắt và cảng container.Họ cũng nhấn mạnh lợi thế
của Hồng Kông với vai trò là một trung tâm điều hành cho các công ty kinh doanh ở Trung
Quốc. Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, đứng thứ tư sau Luxemburg, nhận được xếp
hạng cao do bội thu ngân sách trung ương khổng lồ và lợi nhuận của nó cũng như chế độ
thuế đánh vào lợi nhuận từ tài sản vốn. Tổ chức Economist Intelligence Unit (2008b) xác
nhận rằng các Tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất đạt được mức thặng dư cao do sản xuất
dầu và khí đốt. Ngoài ra, họ cũng báo cáo rằng các khu vực tự do, có chính sách thuế thu hút

cao, cũng đóng một vai trò trung tâm trong sự phát triển của nền kinh tế phi dầu mỏ ở các
Tiểu vương quốc Arập thống nhất.
Venezuela, Đông Timor, Burundi, Zimbabwe, và Chad được xếp hạng thấp nhất. Các quốc
gia này cho thấy sự thâm hụt mạnh trong hầu hết tất cả các tiêu chí ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ, Economist Intelligence Unit (2009) báo
cáo rằng do các xung đột chính trị trong năm 2002-2004, dòng vốn FDI của Venezuela giảm
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

17


mạnh. Hơn nữa, một môi trường kinh doanh bất ổn ở Venezuela dẫn đến việc các nhà đầu tư
nước ngoài rút vốn khỏi quốc gia này. Mặc dù Venezuela có mức tăng trưởng GDP thực rất
mạnh, hoạt động kinh tế tổng thể chỉ nhận được 46 điểm do điểm số thấp về sự mở cửa của
nền kinh tế. Nền kinh tế thiếu sự mở cửa ở Venezuela được mô tả bởi UNCTAD (2008b) là
có liên quan đến ngành dầu mỏ và khí đốt. Venezuela đã áp dụng những thay đổi chính sách
trong năm 2007 để tiếp tục hạn chế hoặc thậm chí ngăn cấm đầu tư nước ngoài vào dầu mỏ
và khí đốt. Ngoài ra, như đã thảo luận trong UNCTAD (2006, 2007), các lý do khác cho
điểm số thấp là sự thay đổi mạnh mẽ trong chế độ thuế và những mối quan hệ hợp đồng với
các công ty tư nhân, cũng như vị trí thống lĩnh hay sự hiện diện độc quyền của các công ty
nhà nước trong ngành công nghiệp dầu mỏ khí đốt.

4.1. Các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển
UNCTAD (2008b) nhận thấy khoảng ba phần tư hoạt động FDI trên toàn thế giới nằm tại
các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Chỉ số FDI được sử dụng để làm những phân tích chi
tiết về điểm mạnh và điểm. Những phân tích này góp phần giải quyết câu hỏi tại sao các nền
kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển bị tụt lại phía sau những nền kinh tế phát
triển trong việc thu hút FDI. Thông tin này có thể được các nhà hoạch định chính sách sử
dụng nhằm cải thiện sự hấp dẫn của quốc gia họ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Sử dụng
định nghĩa của IMF (2008) về các nền kinh tế phát triển, mới nổi và đang phát triển, chúng

tôi biểu diễn các điểm trung bình số học theo trọng số GDP cho bốn lực tác động chính và
các yếu tố quyết định cấp độ 2 cho cả hai nhóm trong hình 4 và
hình 5 minh họa những điểm mạnh và điểm yếu của bốn lực tác động chính của những nền
kinh tế tiên tiến so với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Hình 5 biểu diễn sự so
sánh cho tất cả các chỉ số phụ. Các đồ thị xác nhận những khác biệt cơ bản giữa các thị
trường đã phát triển và mới nổi. Những kết quả chính cho mỗi biến điều khiển chính của chỉ
số FDI là:
1. Các hoạt động kinh tê: Khoảng cách giữa các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển liên quan đến biến điều khiển chính này không phải là tuyệt vời.
Với 97 điểm, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chỉ thấp hơn 3 điểm so với mức
trung bình của thế giới. Tuy nhiên, việc đánh giá chỉ số phụ cấp 2 và 3 cho thấy những khác
biệt lớn. Các điểm mạnh của các nền kinh tế phát triển có thể được xác định rõ ràng. Họ đi
trước các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển do quy mô thị trường và sự
mở cửa kinh tế của họ. Lưu ý rằng sự ổn định về kinh tế của các nước đang phát triển có xu
hướng nghiêng mạnh về phía trên do sự thặng dư quá lớn của chính phủ trung ương ở các
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

18


nước sản xuất dầu mỏ Trung Đông. Do đó, ổn định kinh tế là một trở ngại lớn hơn trong đa
số các nền kinh tế đang phát triển. Mặt khác, các nước mới nổi nhận được điểm số cao cho
sự tăng trưởng kinh tế của họ.
2. Hệ thống pháp luật và chính trị: Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chỉ nhận
được 63 điểm cho biến điều khiển chính này. Đặc biệt là do sự bất ổn chính trị hiện tại và
pháp quyền, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển ít hấp dẫn hơn rất nhiều đối với các
nhà đầu tư nước ngoài hơn khi so với các nền kinh tế tiên tiến. Al Nasser (2007) khẳng định
rằng một số nước châu Mỹ Latinh và các nền kinh tế mới nổi ở châu Á có thể khuyến khích
dòng vốn FDI bằng cách giảm sự bất ổn về chính trị và bằng cách phát triển một khuôn khổ
pháp lý hiệu quả hơn. Ladekarl và Zervos (2004) cho thấy kết quả tương tự từ việc phỏng

vấn trực tiếp các nhà đầu tư.

3. Môi trường kinh doanh: Liên quan đến thuế, khoảng cách giữa các nền kinh tế không quá
lớn. Tuy nhiên, tham nhũng cản trở khả năng dòng vốn FDI đi vào các thị trường mới nổi.
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

19


Điều này phù hợp với ý kiến của Wei (2000) và Bénassy-Quéré và các cộng sự (2007) và
được ủng hộ bởi Al Nasser (2007), những người cho rằng các nước mới nổi có thể cải thiện
mạnh mẽ việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài bằng cách giảm tham nhũng.

4. Cơ sở hạ tầng: Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tụt hậu phía sau các nền kinh tế
phát triển về chất lượng cơ sở hạ tầng. Cụ thể, UNCTAD (2008b) cho rằng những yêu cầu
của các nước đang phát triển về đầu tư vào cơ sở hạ tầng vượt quá số tiền hiện đã được lên
kế hoạch. Ngân hàng Thế giới (2009) ước tính rằng, để duy trì mức tăng trưởng kinh tế lớn
hơn và giảm đói nghèo, các nước đang phát triển nên đầu tư 7% -9% GDP mỗi năm cho cả

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

20


đầu tư mới và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, hiện tại họ chỉ đầu tư trung bình 3%
-4%.

4.2. Giá trị cắt phân loại những nền kinh tế phát triển, mới nổi và đang phát triển
Mặc dù việc giải thích về mặt kinh tế các kết quả của chúng tôi đã khẳng định cho các
nghiên cứu trước đây về dòng chảy FDI, thì chỉ số FDI cũng được coi là một thước đo cho

tình trạng phát triển của các quốc gia. Một kỹ thuật phân tích phân biệt cho thấy rằng các
điểm số chỉ số này tương quan với mức độ phát triển kinh tế của các nước. Phân tích phân
biệt là một phương pháp thống kê đa biến để phát hiện các đặc tính phân biệt giữa hai hay
nhiều nhóm nhỏ của một mẫu (ví dụ, Hair và cộng sự, 2006). Chúng tôi nhận thấy điểm số
chỉ số này rất hữu ích trong việc suy xét giữa các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế
mới nổi. Mô hình có độ tương quan phù hợp cao ở mức 0,712. Chỉ số Wilk lambda, là một
thước đo cho độ hiệu quả của hàm phân biệt trong việc lọc các trường hợp vào hai nhóm là
0,493. Đây là một kết quả vững vàng cho nghiên cứu thực nghiệm kinh tế xã hội học giữa
các quốc gia, kết quả này được xác nhận bằng việc bác bỏ giả thuyết rằng chỉ số điểm số
trung bình của hai nhóm là giống nhau ở mức ý nghĩa 0,000. Phân tích phân biệt cho ra giá
trị cắt là 81,4 có nghĩa là các nước có điểm số dưới ngưỡng này có thể sẽ được coi là "nền
kinh tế mới nổi". Giá trị cắt đã phân loại chính xác 110 quốc gia (86,6%) trong mẫu.
Chúng tôi lặp lại phân tích ở trên và chia nhóm các nước mới nổi thành hai mẫu nhỏ
tại điểm số chỉ số trung vị của tất cả các nước đang phát triển (65,0). Việc này sẽ phân tách
những nền kinh tế kém phát triển nhất với những nền kinh tế mới nổi tiên tiến hơn. Trong
phân tích phân biệt này, chúng tôi đưa vào bốn biến điều khiển chính và có được kết quả xác
nhận mạnh mẽ cho vấn đề vừa thảo luận ở trên. Tương quan phù hợp của mô hình là 0,822.
Giá trị cao này phù hợp với điểm Wilk lambda thấp (0.323) và việc bác bỏ giả thuyết về
những điểm số chỉ số trung bình nhóm bằng nhau tại mức ý nghĩa 0.000. Tất cả bốn biến
điều khiển chính thực sự là các biến phân biệt, mỗi biến tại mức ý nghĩa 0.000. Các hệ số
được chuẩn hoá của hàm phân biệt chứng minh thứ hạng quan trọng của bốn biến điều khiển
chính. Các hệ số tương đối thấp đối với môi trường kinh doanh (0,030) và hoạt động kinh tế
(0,102), nhưng lại cao đối với hệ thống pháp lý và chính trị (0,460) và cơ sở hạ tầng (0,709).
Do đó cả hệ thống chính trị và cơ sở hạ tầng phân biệt trước, giữa các nước mới nổi và các
nước đã phát triển và thứ hai, cũng phân biệt giữa các quốc gia kém phát triển nhất với các
quốc gia tiên tiến hơn. Phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết cho các quốc gia tăng cường hệ
thống pháp luật và chính trị, cũng như cải thiện cơ sở hạ tầng để thúc đẩy phát triển kinh tế.

Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.


21


4.3. Kiểm tra độ mạnh
Phương pháp chỉ số của chúng tôi có thể được xác minh. Ví dụ, Nardo và cộng sự (2005a)
nhấn mạnh rằng một số quyết định mang tính chủ quan phải được thực hiện. Bao gồm việc
lựa chọn các chỉ số phụ, lựa chọn mô hình tổng hợp, độ quan trọng của các chỉ số, v.v.
Những lựa chọn này, cùng với thông tin được cung cấp bởi dữ liệu sẽ hình thành thông điệp
được truyền đạt bởi chỉ số hỗn hợp. Nếu một chỉ số hỗn hợp được xây dựng kém, nó có thể
gửi các thông điệp chính sách yếu hoặc sai lệch. Hơn nữa, việc lựa chọn các chuỗi dữ liệu và
cấu trúc chỉ số chính nó cũng vẫn gây tranh cãi. Ngoài ra, chất lượng của một số dữ liệu có
thể là kém do phương pháp thu thập số liệu không đồng nhất ở các nền kinh tế khác nhau.
Cuối cùng, số lượng các chuỗi dữ liệu và các biến điều khiển chính để sử dụng cũng gây
tranh cãi. Ít hơn hoặc nhiều hơn các hạng mục có thể sẽ phù hợp hơn để dự đoán độ hấp dẫn
FDI của nước chủ nhà.
Chúng tôi đã thực hiện một số kiểm tra về độ mạnh đã được báo cáo và chưa được
báo cáo để cung cấp bằng chứng cho sự đúng đắn của phương pháp chúng tôi: Chúng tôi so
sánh sức mạnh theo dõi của chỉ số FDI với các chỉ số khác được xây dựng để đánh giá các
điều kiện đầu tư và kinh doanh nói chung hoặc hoạt động FDI, và chúng tôi phân tích sức
mạnh mô tả của các biến điều khiển chính của chúng tôi và của riêng chuỗi dữ liệu.
Chúng tôi phát hiện ra ba chỉ số thay thế với một phạm vi liên quan, và bao gồm một
mẫu quốc gia tương tự như của chúng tôi. Đầu tiên cũng đánh giá hành vi của FDI, nhưng
dựa trên rất ít hạng mục và lại không cung cấp được các tham chiếu đến tầm quan trọng thực
của chúng. Thứ hai, đo lường tính cạnh tranh chung của các nền kinh tế dựa trên 116 tiêu
chí. Chúng tôi sử dụng nó để phân tích liệu có cần thiết phải tập trung vào các yếu tố quyết
định cho FDI hay không, hay liệu hành vi đầu tư của các nhà đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
được mô tả tốt hơn bằng cách tập trung vào tính cạnh tranh chung của một nền kinh tế. Cuối
cùng, chúng tôi đánh giá chỉ số FDI với một chỉ số chuyên biệt hơn để xác định liệu một cái
nhìn nghiêm túc hơn về các tham số của dòng chảy FDI đi vào có làm tăng sức mạnh giải
thích của các kết quả hay không. Trong trường hợp này, chúng tôi phân tích liệu một chỉ số

tập trung chuyên biệt vào thương mại cũng đủ điều kiện để mô tả hoạt động FDI hay không.
Do đó, chúng tôi đánh giá chỉ số FDI với các chỉ số sau: (1) Chỉ số thu hút tiềm năng
dòng FDI vào 2004-2006; (2) Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2008-2009, tập trung
vào khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế; và (3) Chỉ số thúc đẩy thương mại năm 2008,
tập trung vào một yếu tố quyết định chính. Tuy nhiên, các chỉ số chuẩn và chỉ số FDI không
tính cho các quốc gia tương tự. Do đó, chúng tôi giảm danh sách các quốc gia được tính cho
tất cả các chỉ số xuống một mức chung là 106 để có một kết quả công bằng, và chúng tôi
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

22


loại bỏ các quốc gia có hoạt động FDI ngoài, như đã thảo luận ở trên. Sức mạnh theo dõi
của các chỉ số khác nhau được trình bày trong Bảng 8.
Phân tích điểm chuẩn cho thấy chỉ số FDI là chỉ số thích hợp nhất cho hoạt động FDI thực.
Lý do cho sự vượt trội này liên quan đến chất lượng của chuỗi dữ liệu của chúng tôi và mô
hình trọng số. Chúng tôi chỉ đánh giá các tiêu chí được xác định là có liên quan trong tài liệu
và sử dụng dữ liệu chọn lọc làm đại diện cho chúng. Chúng tôi xác nhận tính đơn hướng của
các dữ liệu đại diện được chọn lọc với các kết quả thống nhất, và tổng hợp các chỉ số thông
qua một số phương pháp có thể. Kết quả là một thước đo tổng hợp giải thích FDI tổng hợp
chính xác hơn các chỉ số khác, bao gồm chỉ số thu hút tiềm năng FDI vào.
Các chỉ số rộng hơn đo lường khả năng cạnh tranh của quốc gia không đủ điều kiện để đánh
giá hành vi đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Cần phải có một chỉ số tập trung hơn
giống như chỉ số FDI của chúng tôi để đánh giá vì nó chỉ nhằm vào các yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, chỉ số thúc đẩy thương
mại toàn cầu (Global Enabling Trade Index), nhằm vào các yếu tố quyết định cụ thể, cũng
mang lại một thước đo chưa đầy đủ cho dòng FDI vào. Ngay cả khi thương mại quốc tế và
sự mở cửa của nền kinh tế là những biến điều khiển quan trọng cho FDI (ví dụ Addison và
Heshmati, 2003, Asiedu, 2002, Janicki và Wunnava, 2004 và Pantulu and Poon, 2003), tập
trung vào các yếu tố quyết định đơn lẻ không đủ để đánh giá mức độ hấp dẫn của một quốc

gia đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các mô hình không gian của hoạt động FDI
quá phức tạp để được đặc trưng bởi một yếu tố duy nhất hoặc một tập hợp các tham số quan
sát.
Phát hiện này được xác nhận bởi các kiểm tra độ mạnh khác. Chúng tôi chạy nhiều
hàm hồi quy tuyến tính sử dụng thước đo cho các dòng FDI vào như mô tả ở trên là một
biến phụ thuộc, và tất cả các chuỗi dữ liệu riêng, các cấu trúc phụ xác định, bốn biến điều
khiển chính, và các kết hợp của chúng là các biến hồi quy. Chúng tôi tìm kiếm mô hình đa
biến thể hiện các hồi quy kinh tế và có ý nghĩa thống kê với mức độ giải thích cao và trình
bày chúng trong bảng 9.
Trong bảng 9, chúng tôi hồi quy tỷ lệ trung bình các dòng FDI vào trên GDP trong ba năm
trên nhiều biến độc lập ở các quốc gia mẫu của chúng tôi mà đã được cắt giảm bởi các biến
bất thường, để lại 67 quan sát như đã thảo luận trong phần 3.4. Trường hợp cơ bản trong
Bảng A trình bày các kết quả hồi quy của chỉ số FDI và một hằng số trên biến phụ thuộc.
Các đặc tả 1 đến 4 trong Bảng A bao gồm các hồi quy tuyến tính của bốn biến điều khiển
chính. Các đặc tả 5 đến 10 trong Bảng B bao gồm các kết hợp của bốn biến điều khiển
chính, trong khi đặc tả 11 bao gồm tất cả chúng. Sự thay đổi ý nghĩa thống kê và kinh tế của
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

23


các biến điều khiển chính cho thấy sự tương quan tuyến tính tồn tại giữa số các lực tác động
chính. Các kiểm tra độ mạnh cho thấy sự vượt trội của hồi quy trường hợp cơ bản với chỉ số
FDI là biến độc lập duy nhất. Chỉ số này tương quan mạnh với thước đo cho hoạt động FDI.
Chỉ số t là đáng kể và chỉ số R2 được điều chỉnh là có giá trị cao nhất trên tất cả các kiểm tra
độ mạnh. Chúng tôi chạy các thử nghiệm tương tự (không lập bảng) cho tất cả các chuỗi dữ
liệu riêng và các cấu trúc được định nghĩa trong Bảng 1. Không có chuỗi dữ liệu hay các kết
hợp của chuỗi dữ liệu, cấu trúc và các biến điều khiển chính nào có khả năng theo dõi hoạt
động FDI thực tốt hơn là chỉ số FDI.


5. Kết luận
Chúng tôi trình bày một chỉ số tổng hợp nhằm đo lường sự hấp dẫn của một quốc gia đối với
các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chúng tôi xác định bốn biến điều khiển chính ảnh
hưởng đến sự hấp dẫn FDI của một nước chủ nhà: hoạt động kinh tế, hệ thống pháp luật và
chính trị, môi trường kinh doanh và cơ sở hạ tầng.
Chúng tôi giới thiệu các phương pháp tính toán khác nhau để đo lường sự hấp dẫn của một
quốc gia đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, đó là chỉ số FDI, cụ thể là phương
pháp tiêu chuển hoá, trọng số và tổng hợp. Do các kết quả rất nhạy với các kỹ thuật này nên
chúng tôi đề xuất xây dựng bốn chỉ số khác và đo lường sức mạnh giải thích của các chỉ số
thay thế này bằng cách liên hệ các điểm số của quốc gia với dòng chảy FDI thực vào các
quốc gia. Phiên bản chỉ số ưa thích tương quan với FDI vào tại mức 0,543. Để có thêm bằng
chứng về chất lượng của phương pháp tiếp cận, chúng tôi đánh giá chỉ số FDI với ba chỉ số
thông dụng. Các phân tích cho thấy chỉ số FDI là thước đo phù hợp nhất về khả năng thu hút
FDI của một quốc gia. Lý do cho sự vượt trội này được đưa ra bởi các hạn chế chỉ bao gồm
các tiêu chí được xác định có liên quan trong bài viết, bởi cấu trúc chỉ số, và tập hợp các
chuỗi dữ liệu chất lượng để đánh giá các tiêu chí này. Với nhiều kiểm tra độ mạnh, chúng tôi
xác nhận rằng không có chuỗi dữ liệu nào khác có mức độ giải thích cao hơn cho hoạt động
FDI hơn là chỉ số FDI.
Chỉ số FDI củng cố các bằng chứng đã được công bố về lý do tại sao các dòng FDI
chảy vào được tập trung ở các nền kinh tế phát triển, hiện đang chiếm 75% khả năng thu hút
dòng vốn FDI. Các quốc gia đang phát triển và mới nổi ít hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài
hơn do hệ thống pháp lý và chính trị kém của họ cũng như cơ sở hạ tầng manh mún. Do đó,
những cải tiến trong các lĩnh vực này là cần thiết để thu hút dòng FDI trong tương lai.
Tính sẵn có của số liệu hạn chế mẫu của các quốc gia cho chỉ số FDI. Thật không
may, bộ dữ liệu đầy đủ không có sẵn cho nhiều nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là ở Châu Phi.
Bài nghiên cứu số 4: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi.

24



×