Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích cơ sở khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.91 KB, 10 trang )

Câu 19:
Phân tích cơ sở khách quan của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam.


Yêu cầu 1: (ASM 1)

I/ Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trong toàn bộ
các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để
hình thành xã hội mà trong đó, những nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
được thực hiện.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
(Nga) năm 1917 mở ra với nội dung căn bản là xóa bỏ giai cấp tư sản và chế độ tư bản
chủ nghĩa, thiết lập những cơ sở cho xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Thời
kỳ quá độ này có thể phân thành bốn giai đoạn phát triển là
1) Giai đoạn từ năm 1917-1945- giai đoạn thắng lợi của giai cấp vô sản Nga, mở đầu thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2) Giai đoạn từ năm 1945-1970- giai đoạn hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống
xã hội chủ nghĩa
3) Giai đoạn từ năm 1970-1990- giai đoạn hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng, dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực mô hình xôviết ở các nước đông
Âu và Liênxô
4) Giai đoạn hiện nay là giai đoạn thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để chuyển từ xã hội lên xã hội xã
hội chủ nghĩa, cần trải qua thời kỳ quá độ. Tính tất yếu của thời kỳ này được cắt nghĩa
bởi những lý do
1) Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về chất; thể hiện ở hình thức sở hữu
tư liệu sản xuất. Muốn có xã hội công hữu tư liệu sản xuất cần có thời gian
2) Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao;
chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị những tiền đề vật chất cần thiết cho chủ nghĩa xã hội, nhưng


cần có thời gian để tổ chức, sắp xếp lại
3) Cần có thời gian để xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
4) Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp; giai
cấp công nhân có thời gian để hoàn thành.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đặc
điểm nổi bật của thời kỳ này là tồn tại những yếu tố của xã hội tư bản với những yếu tố
mới của xã hội xã hội chủ nghĩa; chúng tồn tại và đấu tranh với nhau trọng mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đối với những nước tư bản có trình độ kinh tế phát triển cao, thời kỳ
quá độ có thể tương đối ngắn; đối với những nước có trình độ kinh tế phát triển trung


bình hoặc thấp, thời kỳ quá độ có thể dài hơn.
Trong lĩnh vực kinh tế, là sự duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa còn có các thành phần kinh tế khác như
kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản nhà nước. Chúng đan xen, bổ
sung hỗ trợ và đấu tranh với nhau. Nền kinh tế nhiều thành phần này làm nảy sinh cơ cấu
xã hội-giai cấp đa dạng, phức tạp thậm chí đối lập, luôn đấu tranh với nhau.
Trong lĩnh vực chính trị. Nhà nước chuyên chính vô sản mới ra đời và ngày càng hoàn
thiện là công cụ để giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại những âm mưu
chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; bảo vệ thành quả cách mạng,
đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực xã hội còn có sự khác biệt khá lớn giữa lao động trí óc với lao động chân
tay, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và miền xuôi. Nhiều vấn đề xã hội khác
chưa giải quyết triệt để như vấn đề môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng, vấn đề giải
quyết công ăn, việc làm, vấn đề chăm sóc sức khoẻ cộng đồng v.v đang diễn biến phức
tạp mà chưa có cách quản lý hiệu quả.
Trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá, có sự tồn tại đan xen và đấu tranh lẫn nhau giữa tư
tưởng của giai cấp công nhân với tư tưởng cũ rất phức tạp phá hoại đời sống văn hoá tinh
thần của nhân dân
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giữa giai cấp công

nhân liên minh với các tầng lớp lao động khác đã giành được chính quyền nhà nước đang
thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, với một bên là các giai cấp bóc
lột đã bị đánh đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Cuộc đấu tranh giai cấp với những
điều kiện, nội dung mới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng tuyên truyền, vận
động và cả bằng hành chính, pháp luật diễn ra lâu dài, gian khổ.
Nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1) Trong lĩnh vực kinh tế, sắp xếp lại lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản để lại nhằm
tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây
dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
2) Trong lĩnh vực chính trị, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh để thực hiện
vai trò chuyên chính và xây dựng xã hội mới
3) Trong lĩnh vực xã hội, khắc phục những tệ nạn do xã hội cũ để lại, ngăn ngừa và đề
phòng những tệ nạn xã hội mới phát sinh; khắc phục chênh lệch giàu-nghèo, giữa nông
thôn với thành thị, giữa miền núi với đồng bằng; thực hiện an sinh xã hội để từng bước
thực hiện bình đẳng xã hội
4) Trong lĩn
II/ Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Ở nước ta, quá độ lên thơi kì chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm
1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộcdân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước cùng tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kì quá độ la thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng
đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các
nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần
xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Dĩ nhiên đối với những nước
thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kì quá độ có thể diễn ra ngắn
hơn, Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế

độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua thời kì quá độ lâu dài
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kì
lịch sử mà “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,...tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt lâu dài”
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử đối với
chúng ta vì:
 Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã

hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt
lịch sử, sớm hay muộn cũng phải thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Cho dù hiện nay với những
cố gắng để thích nghi với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có
những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt qua khỏi những mâu thuẫn cơ
bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và
sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của
thời thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Qúa trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới-xã
hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách
mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật
lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và
loài người tiến bộ đang vươn tới đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại,
đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế-xã hội cao hơn chủ nghĩa
tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự
phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi
theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch
sử.



 Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ

nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỉ XX.
Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã
tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngày nay, chỉ có đi lên xã hội chủ nghĩa mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân
tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc à chủ nghĩa xã hội của
nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với
xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử
Khả năng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam: mặc dù kinh
tế còn lạc hậu, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nước ta vẫn có
những khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
Về khả năng khách quan, trước hết phải kể đến nhân tố thời đại, tức xu thế quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia không
những làm cho quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trở thành một tất yếu mà còn đem
lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hóa sản
xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đạ tạo ra những khả năng để
các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực
lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực
hiện “con đường phát triển rút ngắn”. Xu thế toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách
thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và
kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát triển, nếu như có đường lối và chính sách đúng
đắn. Trong điều kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng,

khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Về những tiền đề chủ quan:
 Việt Nam là nước có dân số tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng.

Nhân dân ta đã lâp nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, đã xây dựng
những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo – một đảng gaiu2 tinh thần cách mạng,
sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối đúng đắn và gắn bó với quần chúng –


đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bảo đảm cho thắng lợi của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
 Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng chiến đấu, hi

sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn vì cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng
được. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trờ thành lực lượng vật chất đủ sức vượt
qua mọi khó khăn và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
 Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại

hội Đảng lần thứ VI đến nay đã thu được những kết quả bước đầu khả quan, giữ
vững ổn định chính trị; tạo môi trường hợp tác đầu tư; phát triển kinh tế; đời sống
nhân dân được cải thiện...điều đó đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn
lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn.
Nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Đây chính là con đường phát triển “rút ngắn” lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về chính
trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc

thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự
thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó
chính là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa
bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút ngắn một cách
đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ nghĩa tư bản đã có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội
hóa lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Quá trình này đã diễn ra
một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỉ cùng với những đau khổ đối với con người.
Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút
ngắn, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tránh cho nhân dân ta những đau khổ
của con đường tư bản chủ nghĩa. Sự rút ngắn này được thực hiện thông qua việc sử dụng
biện pháp kế hoạch đồng thời với việc sử dụng biện pháp thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế nhà
nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn
này chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn
ở đây không phải là công việc có thể làm nhanh chón như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ
chức và giáo dục”, “Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần”


Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ bỏ qua hay rút nagn81 này có ý nghĩa thực tiễn
quan trọng, giúp ta khắc phục được quan niệm đơn giản, duy ý chí về thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội từ một nước mà chủ nghĩa tư bản chưa phát triển.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là: trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn việc làm, được no ấm và sống một đời hạnh phúc. Quán triệt tư tưởng
cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội:









Do nhân dân lao động làm chủ
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ cộng
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển cá nhân
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội

Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
NHIỆM VỤ KINH TẾ CƠ BẢN TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan
trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội; phải xây dựng một nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa với côn nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên

tiến. Muốn vậy, trong thời kì quá độ chúng ta cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế
cơ bản sau:
Phát triể lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản qoàn diện các hoạt động
kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách
phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao
động cao.


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển. Tuy
nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bươc đi, tốc độ, biện pháp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải được xuất phát từ điều kiện lịch
sử - cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kì.
Chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuoc1 mới có thể xây
dựng được cơ sở vật chất – kĩ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức
chưa từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở thành phổ biến, nhờ đó mới thực
hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không
thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách
quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan
điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả
tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản
xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước nh7 nước ta, chế độ sở hữu tất
yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần: kinh tế nhà nước, kinh

tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,
trong đó kinh tế nha nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nươc cùng vớ kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển
một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong
việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây
dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay
một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức
đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh
chóng.
Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và nhiều hình
thức tổ chức quản lí hợp lí, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của người lao động
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức và đi từ
thấp đến cao
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế kép kín, mà phải tích cực mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất
quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa


phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực kinh tế phát triển từ bên
ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu
ngành và sản phẩm...mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên
kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nuoc1 phát triển, vươn
lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau.
Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tích cực khai thác thị
trường thị trường thế giới; tối ưu hóa cơ cấu xuất – nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác
kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lí đúng đắn mối quan hệ

giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an
ninh kinh tế quốc gia
Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh
hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn
cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”



Yêu cầu 2: (ASM 2)
1.
a. Nhóm em chọn nội dung cơ sở khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam. Vì thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam đã làm xóa bỏ giai cấp tư sản và chế
độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập những cơ sở cho xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa và giúp CNXH ở Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới.

2.
b. Xuất phát từ một nước nông nghiệp có nền kinh tế lạc hậu, Đảng đã xác định
con đường phát triển đất nước lên CNXH không qua chế độ TBCN. Mặc dù
CNXh trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào, chúng ta không còn có sự giúp
đỡ của các nước XHCN tiên tiến nhưng chúng ta vẫn có thể đứng vững và tin
tưởng rằng con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta vẫn
là con đường tất yếu và có khả năng thực hiện là vì những điều kiện khách quan
và chủ quan sau đây:
_ Về khách quan: thời đại ngày nay cũng là thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới, do đó Việt Nam lựa chọn con đường đi lên
CNXH là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Mặt khác thế kỷ 21 là thế kỷ
khoa học và công nghệ có những bước nhảy vọt, kinh tế trí thức ngày càng có
vai trò nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá trình lực lượng sản xuất của các
quốc gia. Bên cạnh đó toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan lôi
cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, trong đó có nước ta. Chính những yếu



tố khách quan này đã tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình công nghiệp hóahiện đại hóa ở nước ta.
_ Về chủ quan: chúng ta quá độ lên CNXH với sự lãnh đạo của Đảng cầm
quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng gắn bó
với quần chúng và là nhân tố vô cùng quan trọng. Trong nhữngthời điểm phong
trào XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế
độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân
dân ta thực hiện đường lối đổi mới vượt qua những hiểm nghèo đưa công cuộc
xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước của nhân dân ta tiến lên một cách vững
chắc. Kế thừa truyền thống và những kinh nghiệm cách mạng đã tích lũy, trai3
qua thể nghiệm tìm tòi, qua việc phát huy trí tuệ của toàn Đảng toàn dân, Đảng
ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng đắn hình thành những nét chủ yếu
quan niệm về XH- XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công cuộc đổi mới của Đảng chủ trương và tổ chức
thực hiện mấy năm qua đã thu được thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng.
Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn đất nước đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng
KT-XH để từng bước vượt qua nước nghèo tiến lên giàu mạnh nhân dân có
cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng đại đa số đều
là những người trung thành với sự nghiệp cách mạng, nhất trí với đường lối của
Đảng, có ý chí biến đường lối đó thành hiện thực. Nhân dân ta cần cù, thông
minh, sáng tạo rất cách mạng, có lòng yêu nước gắn bó với chế độ, với Đảng.
Bên cạnh đó, Việt Nam là một nước có nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng,
chúng ta cũng đã xây dựng CNXH được mấy chục năm và bước đầu đã xây
dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.
Những giải pháp cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta:
Để tiếp tục đưa cách mạng nước ta tiến lên, chúng ta phải tiếp tục thực hiện có
hiệu quả những phương pháp cơ bản sau:
 Một là, “xây dựng Nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do dân, vì
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp

tri thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính
với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc của nhân dân”.
 Hai là, “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa chuyển hóa đất
nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển của một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở
vật chất-kĩ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng xuất lao động
xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”.












Ba là, “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình
thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiểu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, “ tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa
làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ
vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những

truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức,
đạo đức, thể lực, thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng văn hóa phản
tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị
cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”
Năm là “thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc cũng cố và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác
hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của công
nhân, đoàn kết với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”
Sáu là, “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm
vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố
quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách mạng”.
Bảy là, “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, đảm bảo cho Đảng là tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Đó là những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại, những quan điểm về hệ thống chính trị và vai trò lãnh
đạo của Đảng và cũng là định hướng cho quá trình quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện có hiệu quả những phương hướng đó là
nhiệm vụ cơ bản của Đảng, Nhà nước của nhân dân ta.



×