MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................................1
4.1. Ý nghĩa chiến lược về kỉnh tế:......................................................................................31
4.2 Ý nghĩa chiến lược về quân sự.......................................................................................36
1.2.2.Đối với nhà trường và các cơ quan hữu quan..............................................................44
CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU..................................................................................................................53
A. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề:
1. Lý do chọn đê tài:
Vùng biển và hải đảo của nước ta là bộ phận lãnh thổ không thể tách rời
của Việt Nam, là không gian sinh tồn và phát triển từ hàng nghìn năm nay của
dân tộc ta. Trong vùng biển và hải đảo của Việt Nam, mỗi hòn đảo không chỉ
là địa bàn, nơi làm ăn sinh sống của nhân dân, mà còn là “cột mốc chủ quyền”
tự nhiên, thiêng liêng của quốc gia. Vì thế, bảo vệ và phát triển tiềm năng biển
và hải đảo luôn là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp, ngành, địa phương, lực
lượng vũ trang và cả dân tộc.Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, bên
canh những thuận lợi, Việt Nam đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách
thức. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ,
gây mất ổn định chính trị -xã hội, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới
quốc gia nước ta. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ
Trang 1
chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện nay mà chủ quyên lãnh thổ, biên
giới quốc gia là một nội dung đặc biệt quan trong. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng đã xác định rõ: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, văn hóa tư
tưởng và an ninh xã hội; duy trì trật tự kỉ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn
định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”.
Giáo dục quốc phòng - an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc
dân, nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa có sự phát triển toàn diện. Việc giáo dục quốc
phòng - an ninh cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong hệ thống
giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản
về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn
sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh
là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo con người mới xã
hội chủ nghĩa, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng
lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể,
tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà
trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục Quốc phòng -An ninh là môn học nằm trong chương trình đào
tạo của trường THPT và là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục
quốc phòng toàn dân. Tầm quan trọng của môn học này là góp phần giáo dục
thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cuờng
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Trong thời gian gần đây, vấn đề biển đảo
và đặc biệt là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển, đảo đã trở thành
chủ đề được quan tâm ở trong nước, nhất là khi tình hình Biển Đông đang
Trang 2
"nóng lên" trước các hoạt động ngày càng mạnh bạo của Trung Quốc. Vì vậy,
việc thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức quốc
phòng - an ninh, chủ quyền lãnh thổ cho toàn dân, nhất là vấn đề bảo vệ chủ
quyền biển - đảo cho thế hệ thanh niên là nhiệm vụ rất quan trọng trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, xem đó là một nhiệm vụ thiêng liêng của thế hệ trẻ
đối với vận mệnh của đất nước. Giúp học sinh hiểu rõ hơn về biển, đảo là
phần trách nhiệm không thể thiếu ở các cơ sở giáo dục, đó cũng là ưu thế và
nhiệm vụ quan trọng của môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh trong
chương trình đào tạo của các nhà trường. Do vậy, tôi chọn đề tài: “Nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục và tuyên truyền về biển, đảo cho học sinh THPT”
để nghiên cứu. Thông qua cơ sở lý luận về biên giới quốc gia trên biển và
biển, đảo Việt Nam và phân tích thực trạng công tác giáo dục về biển, đảo tại
nhà trường hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức
cho học sinh về vấn đề này, góp phần đào tạo người học toàn diện về mọi mặt.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Ý nghĩa: Trên cơ sở đánh giá thực tiễn về công tác giáo dục quốc phòng
và an ninh về vấn đề biển, đảo hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao nhận thức cho học sinh về chủ quyền biển, đảo; góp phần giác ngộ
bản lĩnh chính trị, lòng yêu nước và trách nhiệm của công dân đối với việc
bào vệ chủ quyền quốc gia.
Tác dụng:
Làm rõ lý luận về biên giới quốc gia trên biển,về biển, đảo và tầm quan
trọng của biển, đảo đối với chủ quyền quốc gia;
Phân tích thực trạng công tác giáo dục an ninh - quốc phòng và giáo dục
chủ quyền biển, đảo cho học sinh tại Trường THPT;
Định hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục
quốc phòng- an ninh về chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới cho học sinh
Trường THPT.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Trang 3
Đối tượng là học sinh các lớp: của khối lớp 11 học môn GDQP-AN trong
những năm qua của trường THPT Krông Nô.
Đề tài tập trung nghiên cứu những hình ảnh, xây dựng các cổng thông tin
về những vấn đề:
Một là: Khái quát về biên giới quốc gia trên biển và biển, đảo trong cấu
thành chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Hai là: Vị trí Biển Đông.
Ba là: Tầm quan trọng của biển, đảo đối với các quốc gia.
Bốn là: Biển, Đảo Việt Nam với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là: Về chính sách pháp luật biển, đảo.
Sáu là: Cơ sở lịch sử - thực tiễn để khẳng định chủ quyền của Việt Nam
đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Để giáo viên GDQP - AN đưa vào các tiết dạy sao cho sinh động hợp lý,
phát huy tính tích cực, tự học, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt
động học tập, khắc phục thói quen học tập thụ động, lối truyền thụ kiến thức
một chiều phổ biến ở các trường phổ thông hiện nay.
Thực trạng việc giảng dạy GDQP – AN tại các trường THPT cũng như
việc giảng dạy nội dung về biên giới quốc gia trên biển và biển, đảo của đất
nước ta trong tình hình mới.
II. Phương pháp tiến hành:
1. Cơ sở lý luận:
Tuổi trẻ học đường là lực lượng tương lai trong bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc, cho nên làm tốt công tác giảng dạy, tuyên truyền cho các đối
tượng này là nhiệm vụ mang tầm chiến lược, phải thực hiện sớm, thường
xuyên và lâu dài. Tuy nhiên, đây cũng là đối tượng khá “nhạy cảm” đối với
vấn đề chủ quyền biển, đảo của đất nước, nên cần phải chuẩn bị tốt nội dung
và phương pháp giảng dạy, tuyên truyền phải chọn lọc và phù hợp với từng
đối tượng cụ thể. Đây là cơ sở cho việc chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất công
tác giảng dạy, tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo cho học sinh, sinh viên
trong thời gian tới.
Trang 4
Căn cứ Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2007 của
Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Hội nghị lần thứ
IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020. Đặc biệt, hoạt động giảng dạy, tuyên truyền biển, đảo trong
môi trường học đường cho học sinh, sinh viên trên cả nước cũng đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) quan tâm trong những năm gần đây. Bộ GD
& ĐT đã tập trung chỉ đạo các trường, đơn vị chức năng tổ chức triển khai Đề
án Số: 373/QĐ-TTg ngày 23 tháng 03 năm 2010 với đối tượng tuyên truyền
khá đa dạng, từ học sinh các bậc học đến sinh viên trong các trường trung cấp,
cao đẳng và đại học.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Văn kiện Đại hội XI
Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo Việt
Nam có vai trò quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước ra hướng
biển. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có hình chữ S, trải dài ven biển từ
Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600km, nơi hẹp nhất
khoảng 50km), nên chiều sâu đất nước bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm
chính trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm trong phạm vi cách bờ biển không lớn,
nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu chiến tranh xảy ra thì mọi mục
tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt động, bắn phá của vũ khí trang bị
công nghệ cao xuất phát từ hướng biển. Nếu các quần đảo xa bờ, gần bờ được
củng cố xây dựng căn cứ vị trí trú đậu, triển khai của lực lượng Hải quân Việt
Nam và sự tham gia của các lực lượng khác thì biển đảo có vai trò quan trọng
làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu quả cho đất nước.
Từ nhiều năm nay, trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển,
đảo rất quyết liệt và phức tạp, nhất là những năm đầu của thập kỷ 70 của thế
kỷ XX đến nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển đảo tiềm
ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động đến quốc phòng và an ninh nước ta.
Trên Biển Đông vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển 7 nước trong khu
Trang 5
vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (Tây Nam),
Philippin, Malaixia, Inđônêxia, Brunây(phía Đông, Đông Nam và Nam). Nơi
đây đang diễn ra những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền giữa
các quốc gia, đẩy tới xu hướng tăng cường lực lượng quân sự đặc biệt là hải
quân của các nước trong khu vực, nhất là những nước cỏ tiềm lực lớn về kinh
tế, quân sự. Họ tận dụng ưu thế của mình trên biển để đe dọa chủ quyền vùng
biển đảo, thềm lục địa của nước ta, gây ra những nhân tố khó lường về chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh đất nước. Biển, đảo là một nội dung quan
trọng trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ củaTrung Quốc, luôn xác định Biển
Đông là “lối thoát chiến lược” để mở rộng “không gian sinh tồn”. Làm chủ
Biển Đông nhằm mục đích bóp chết yết hầu của các nước Đông Dương, kiểm
soát cửa ngõ vào Biển Đông, mở rộng khả năng hoạt động để có thể thay thế
Mỹ ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trung Quốc luôn duy trì yêu sách
vùng biển của họ theo “đường lưỡi bò” do họ tự vẽ và hoạch định. Cuối
những năm 50 của thế kỷ trước, Trung Quốc công bố đường “lưỡi bò chín
khúc”, theo đó biển Trung Quốc chiếm 3/4 diện tích Biển Đông, bao gồm cả
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hành
động ngang ngược này không được quốc tế thừa nhận và luôn gây nỗi ám
ảnh, phản cảm, bức xúc cho các nước trong khu vực. Năm 2014, Trung Quốc
ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng
biển của Việt Nam, đưa hàng ngàn lượt tàu cá xuống Biển Đông đánh bắt cá
trái phép trong vùng biển của nước ta, xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường
Sa, các căn cứ hậu cần ở đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Gạc
Ma, Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đây là hành động
phi pháp, trái với đạo lý, trái với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên
Biển Đông mà Trung Quốc là một bên tham gia ký kết, đe dọa hòa bình, ổn
định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trong khu vực, gây ra
những tác động lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh
của Việt Nam.
Trang 6
Làm chủ Biển Đông, vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng
đắn phù hợp trong điều kiện hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có biển, một
nhân tố mà thế giới luôn xem như một yêu tố đặc lợi. Chúng ta cần tăng
cường hơn nữa những khả năng quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực
thúc đẩy các vùng khác trong đất liền phát triển. Chúng ta phải có quyết tâm
cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh trên biển để tạo ra
môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam và ngư dân các địa phương yên tâm làm ăn trên các vùng biển
đảo, nhất là ở vùng biển xa.
Quan điểm nhất quán của Việt Nam về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở
Biển Đông là: Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với
vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Việt Nam có đầy đủ chứng cứ và cơ sở pháp lý về vấn đề
này. Tuy nhiên, vì lợi ích chung của các bên hữu quan, Việt Nam sẵn sàng
đàm phán hòa bình để giải quyết. Cụ thể hơn, chúng ta cần có những hoạch
định mang tính tổng thể, hệ thống về chiến lược đối với vấn đề Biển Đông:
Tuyên truyền giáo dục cho mọi công dân tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc,
trách nhiệm cao trong bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Cả nước toàn
tâm, toàn ý phát huy sức mạnh tiềm tàng của dân tộc; tăng cường sức mạnh
Trang 7
theo hướng tự vệ, đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của đất nuớc; đầu tư cho
lực lượng chấp pháp, thực thi pháp luật trên các vùng biển thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Khẳng định phương châm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng phát biểu: “Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhưng khi đứng
trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ
nó”, “Chúng ta không nói suông không thụ động ngồi im, nhưng cũng không
bảo vệ chủ quyền một cách thiếu khôn ngoan mà phải dựa vào sức mạnh thời
đại, đó là niềm tin, sự ủng hộ chân lý và khát vọng hòa bình của tất cả các
nước, tất cả các dân tộc trong thế giới ngày nay”.
Có thể thấy rằng biển, đảo ngày càng quan trọng hơn đối với loài người,
với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Do đó, quan điểm của Đảng ta về
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã chỉ rõ: “Xây dựng quốc gia
Việt Nam mạnh về biển và phát triển kinh tế biển trở thành bộ phận mũi nhọn
của nền kinh tế quốc dân là mục tiêu chiến lược, đồng thời là nhiệm vụ bức
bách đang đặt dân tộc ta trước thách thức lớn trên Biển Đông.Vượt qua thách
thức,làm chủ Biển Đông là trách nhiệm lịch sử của thế hệ người Việt Nam
trong đó có trách nhiệm ngành giáo dục nói chung và của những người dạy và
học Giáo dục Quốc phòng - An ninh trong giai đoạn hiện nay.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1.Đặc điểm của môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh tại trường
THPT Krông Nô:
GDQP-AN là một môn học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
nhà trường THPT. Trong tình hình ngày nay, việc giáo dục nhận thức
về ý thức, về kĩ năng quốc phòng an ninh trong toàn dân và trong thế
hệ học sinh THPT là một khâu cực kì cần thiết, là một nội dung
mang tầm chiến lược lớn, có ý nghĩa lâu dài của Đảng và nhà nước
ta.
Trong chương trình dạy học cấp THPT, môn GDQP đã được đưa
vào giảng dạy với tư cách là một môn học bắt buộc. Trên tinh thần
Trang 8
đó trường THPT Krông Nô mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, song trong
những năm qua nhà trường đã tranh thủ mọi điều kiện để đảm bảo
môn học này được thực hiện một cách nghiêm túc.
Việc áp dụng và thực hiện môn GDQP tại trường đã có những
thuận lợi và khó khăn nhất định như sau:
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm sâu sát của Sở GD và ĐT Đăk Nông về mọi
mặt công tác chuyên môn ở mọi bộ môn – trong đó có môn GDQPAN;
BGH nhà trường luôn nghiêm túc chú trọng công tác giảng dạy
GDQP – AN tại đơn vị:
Triển khai, quán triệt đầy đủ các văn bản chỉ đạo của cấp trên.
Phân công giáo viên giảng dạy GDQP-AN một cách nghiêm túc,
có kiểm tra, đôn đốc và tạo điều kiện để giá o viên học tậ p, phá t triể n
chuyên môn, nghiệ p vụ . Các văn bản chỉ đạo của cấp trên về GDQP
đều triển khai đầy đủ.
Luôn quan tâm đến thiết bị dạy học, điều kiện dạy học tại nhà
trường.
Đội ngũ GV tuy còn trẻ rất hăng say giảng dạy, luôn nhiệt tình
và ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của môn học cũng như rất tự hào
về vai trò dạy học môn GDQP- AN trong nhà trường THPT;
Phương tiện, thiết bị giảng dạy được cấp trên phân bổ tương đối
đầy đủ để phục vụ công tác dạy và học môn GDQP – AN;
HS hăng hái, nhiệt tình trong học tập và có tình cảm, nhận thức
tích cực về môn học cũng như ý thức được vai trò, nhiệm vụ của mỗi
cá nhân trong công tác QP-AN;
Giờ buổi dạy học được BGH sắp xếp hợp lí theo hướng trái buổi,
đảm bảo đủ thời gian nghỉ ngơi và cho các em tích cực hơn trong
những giờ thực hành.
Trang 9
* Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu, việc thực hiện công tác
GDQP-AN của nhà trường còn gặp những khó khăn không nhỏ:
Về đội ngũ giá o viên còn trẻ, kinh nghiệm còn ít nhiều hạn chế.
Trướ c đây chủ yếu là phân công GV Thể dục đảm trách.
Trường thuộc vùng nông thôn miền núi và phân bố rộ ng nên gặp
khó khăn trong việc phát động học sinh thi đua thiết kế dụng cụ học
tập.
Điều kiện sân bãi không đảm bảo cho hoạt động học tập ngoài
trời.
Các máy móc, thiết bị hỗ trợ minh họa về kiến thức QP rất hạn
chế, cụ thể là các máy bị hỏng, không liên hệ được cơ sở sửa chữa,
gây khó khăn trong việc trực quan các phim ảnh trong bài học.
Dạy học thự c hà nh chung vớ i lý thuyế t vớ i mộ t tiế t 45 phú t nên
việ c chuẩ n bị dụ ng cụ học tậ p cũ ng như má y tậ p luyệ n khó khăn.
* Đánh giá chung:
GDQP- AN là một môn cung cấp nhiều tri thức trong đời sống,
nó tổng hợp kiến thức liên môn, liên ngành và có mối quan hệ chặt
chẽ nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị XH, khoa học và cả yếu tố
tư tưởng, tình cảm, thái độ nhận thức, bản lĩnh chính trị, văn hóa, ý
thức dân tộc...
Nhận thức được tầm quan trọng của môn học, BGH và đội ngũ
GV đảm trách luôn chú trọng công tác dạy học đối với môn học này
và luôn theo sát mọi sự chỉ đạo, mọi định hướng của lãnh đạo cấp
trên đề ra.
2.2. Thực trạng
2.2.1 Thực trạng môn GDQP – AN
Thực trạng chung của nhiều trường, nhiều địa phương là Giáo viên dạy
môn GDQP-AN (kiêm nhiệm, gốc từ môn giáo dục thể chất hay môn sử, chỉ
được tập huấn, đào tạo ngắn hạn) chỉ dạy được phần thực hành, các động tác,
tư thế, kỹ thuật đối với giáo viên thể dục, còn phần lý thuyết về truyền thống
Trang 10
yêu nước, luật công an, luật nghĩa vụ quân sự, nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ
chủ quyền… đối với giáo viên thể dục còn nhiều lúng túng, chưa thuyết phục.
2.2.2 Mạch nội dung môn GDQP – AN
Chủ đề
Nội dung
1. Một số
1. Truyền thống đánh giặc giữ nước của
hiểu biết
dân tộc Việt Nam
2. Lịch sử, truyền thống của Quân đội
chung về
quốc phòng và Công an nhân dân Việt Nam
3. Một số hiểu biết về nền quốc phòng
- an ninh
toàn dân, an ninh nhân dân
4. Luật Nghĩa vụ quân sự và trách
Lớp Lớp
10
11
*
*
*
*
nhân dân Việt Nam và Luật Công an
6. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên
*
giới quốc gia
7. Tổ chức Quân đội và Công an nhân
*
dân Việt Nam
8. Nhà trường quân đội, công an và
*
tuyển sinh đào tạo
9. Trách nhiệm của học sinh với
2. Điều
lệnh
của học sinh trong phòng chống ma tuý
1. Đội ngũ từng người không có sung
2. Đội ngũ đơn vị
1. Giới thiệu súng tiểu liên AK và súng
3. Kỹ thuật trường CKC
2. Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK và
4. Chiến
thuật
súng trường CKC
3. Kỹ thuật sử dụng lựu đạn
1. Các tư thế, động tác cơ bản vận động
trên chiến trường
2. Lợi dụng địa hình, địa vật
12
*
nhiệm của học sinh
5. Giới thiệu Luật Sĩ quan Quân đội
nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc
10. Tác hại của ma tuý và trách nhiệm
Lớp
*
*
*
*
*
*
*
*
*
*
*
Trang 11
1. Thường thức phòng tránh một số loại
5. Một số
hiểu biết về
phòng thủ
dân sự
bom, đạn và thiên tai
2. Cấp cứu ban đầu các tai nạn thông
thường và băng bó vết thương
3. Kỹ thuật cấp cứu và chuyển thương
4. Kiến thức cơ bản về phòng không
nhân dân
*
*
*
*
• Kế hoạch dạy học:
Lớp 10: 1 tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết: lý thuyết 21 tiết, thực hành 14.
Lớp 11: 1 tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết: lý thuyết 15 tiết, thực hành 20.
Lớp 12: 1 tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết: lý thuyết 24 tiết, thực hành 11.
Về nội dung, chương trình môn GDQP-AN ở 3 khối lớp 10,11,12, có
những trùng lặp, bất cập:” Các bài: Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc
Việt, Truyền thống vẻ vang của dân tộc ta trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước
và Lịch sử- truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam, từ tiết 1 đến 7 ở lớp
10, về mặt kiến thức có sự trùng lặp với môn Lịch sử mà các em đã và đang
được học. Bài: Tác hại của ma túy và trách nhiệm của học sinh trong phòng
chống ma túy” (từ tiết 31 đến tiết 34) của lớp 10 lại chưa phù hợp với đặc
trưng của môn học. Bài: Trách nhiệm của học sinh trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân ( tiết thứ 7) và bài:” Trách nhiệm của học
sinh với nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc ( từ tiết 32 đến 34) trong chương
trình lớp 12 cũng không khác gì mấy so với chủ đề:” Thanh niên vì sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” ở tháng 12 của Hoạt động Ngoài giờ lên lớp cả
ba khối lớp.”
Nhiều nội dung trong sách không còn phù hợp với sự phát triển của xã
hội như: có những thay đổi về luật mới trong đó đáng chú ý là Luật biển Việt
Nam năm 2012, Luật Giáo Dục Quốc Phòng và An Ninh năm 2013 và những
văn bảng dưới luật có liên quang về biển, đảo.
2.2.3 Thực trạng giáo dục quốc phòng - an ninh về vấn đề chủ quyền
biển, đảo tại Trường THPT
Trang 12
Giáo dục vấn đề chủ quyển biển, đảo trong chương trình môn học Giáo
dục Quốc phòng - An ninh
Giáo dục quốc phòng cho thế hệ trẻ học sinh giúp họ nhận thức được giá
trị độc lập, tự do, sự hy sinh lớn lao của các thế hệ ông cha để bảo vệ đất
nước. Trong đổi mới giáo dục - đào tạo, chương trình môn học Giáo dục quốc
phòng cũng cần phải được đổi mới, đáp ứng những vấn đề cơ bản về đường
lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng và Nhà nước ta. Yêu cầu đặt
ra là giáo dục cho học sinh lòng tự hào, tình yêu quê hương đất nuớc, niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng; qua đó xây
dựng ý thức trách nhiệm công dân trong việc góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, bảo về chủ quyền quốc gia.
Giáo dục Quốc phòng-An ninh là môn học chính khoá; nội dung, chương
trình và giáo trình, giáo khoa, tài liệu cũng như các điều kiện đảm bảo cho
môn học đã được quan tâm đầu tư, từng bước đáp ứng yêu cầu. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Đội ngũ giáo viên
còn thiếu về số lượng, chưa có nhiều kinh nghiệm về công tác giảng dạy Quốc
phòng-An ninh. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cũng còn chưa
đáp ứng yêu cầu đặc thù của môn học...
Trong chương trình Giáo dục Quốc phòng - An ninh cho bậc THPT, có
nội dung: Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, với
mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về chủ quyền lãnh thổ,
biên giới quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam; những nội dung chủ yếu về
xây dựng và bào vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia trong tình hình
hiện nay.Tuy nhiên, nội dung của bài chỉ mang tính kinh nghiệm với những
nội dung cơ bản, khái quát nhất. Trong thời lượng 5 tiết học rất khó để chuyển
tải đến người học nhữngvấn đề mang tính thời sự chính trị - xã hội như đã nói
ở phần trên, đặc biệt là vấn đề biển, đảo. Giáo trình Giáo dục Quốc phòng An ninh không có nội dung về chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông và hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, chỉ có sơ đồ lãnh thổ và vùng biển Việt Nam
và Sơ đồ khu vực biên giới biển và các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền
Trang 13
tài phán của Việt Nam, nhưng lại không đề cập đến chủ quyền biển đảo nói
chung và vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa nói riêng. Việc giảng dạy các nội
dung này còn rất hạn chế so với yêu cầu chính trị đặt ra. Sự tích hợp chưa đầy
đủ đó đã hạn chế khả năng tiếp cận và tìm hiểu của học sinh.
Cũng trong thực trạng chung giảng dạy môn học Giáo dục Quôc phòng An ninh của các trường THPT, phân phối chương trinh Giáo dục quốc phòng An ninh tại Trường THPT có yêu cầu về việc trình bày vấn đề biển, đảo trong
quá trình giảng dạy. Nếu giáo viên không quan tâm đến vân đề thời sự đó thì
sẽ rất dễ bỏ qua nội dung này. Nếu có đề cập thì cũng không đủ dung lượng
đáp ứng việc cung cấp tri thức về chủ quyền biển, đảo và Hoàng Sa, Trường
Sa cho học sinh. Thời lượng chính khóa bị hạn chế, chương trình ngoại khóa
cũng chưa được triển khai thực hiện trong nhà trường.
Các nội dung liên quan đến biển, đảo và tài nguyên biển, đảo cần thiết
phải cung cấp cho học sinh như: Khái quát về vùng biển, hải đảo nước ta; Tài
nguyên và môi trường biển, hải đảo; Chủ quyền biển, hải đảo Việt Nam; Vai
trò của biển, hải đảo đối với an ninh - quốc phòng, đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội và đời sống nhân dân; Tình hình khai thác, sử dụng bền vững tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo, các biện pháp khai thác, sử dụng
bền vững tài nguyên môi trường biển, hải đảo; Giáo dục ý thức về vấn đề bảo
vệ chủ quyền biển, hải đảo của Tổ quốc; ý thức bào vệ tài nguyên môi trường
biển, hải đảo... Tuy nhiên, những nội dung đó lại không có trong chương trình
môn học Giáo dục Quốc phòng-An ninh. Do không được bố trí thời lượng để
giảng dạy trong chương trình nên các nội dung liên quan đến biển, đảo Việt
Nam chủ yếu được giáo viên đặt vấn đề và yêu cầu học sinh tự tìm tòi, nghiên
cứu. Sự tích hợp chưa đầy đủ về việc giáo dục chủ quyền biển, đảo cho học
sinh đã một phần hạn chế khả năng nhận thức và hiểu biết của học sinh về
những vấn đề này. Đa phần học sinh của nhà trường rất ít quan tâm đến vấn
đề chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, vấn đề tranh chấp Biển Đông hiện nay.
Khi được hỏi, hấu hết học sinh của nhà trường không hình dung được vị trí cụ
thể của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên bản đồ Tổ quốc. Cá biệt,
nhiều em học sinh còn khẳng định chúng ta đang khai thác thuỷ sản, làm
Trang 14
muối, phát triển du lịch ... trên quần đảo Hoàng Sa, tức là không hề biết quần
đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm đóng. Điều này phản
ánh những hạn chế trong hiểu biết về của quyền biển đảo của Tổ quốc ở một
bộ phận học sinh hiện nay.
Trong khi đó, chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
đã lợi dụng đối tượng học sinh, sinh viên làm trọng điểm chống phá trên lĩnh
vực chính trị, tư tưởng. Bởi chúng hiểu được rằng, xâm lấn trên lĩnh vực
chính trị, tư tưởng là hình thức xâm lăng có văn hóa, là biện pháp xâm lăng có
hiệu quả và trong thời gian ngắn nhất. Việc làm cho thế hệ thanh niên bị
nhiễm “vi rút lạ”, mất sức đề kháng, bị tha hóa, dễ làm phá vỡ nền tảng tinh
thần của thế hệ trẻ, dẫn đến nhạt phai lý tưởng, mất phương hướng về chính
trị và đi theo con đường lệ thuộc vào tư bản nước ngoài.
Hiện tượng học sinh không ham thích học tập các môn lý luận nói chung,
trong đó có môn học Giáo dục Quốc phòng-An ninh, đã trở thành phổ biến.
Hiện trạng đó do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bản chất của các môn học
này nặng về phân tích lý luận chung chung, đòi hỏi học sinh phải có tư duy
phân tích, tổng hợp và hiểu biết xã hội. Trong khi năng lực nhận thức của học
sinh vẫn còn hạn chế. Do đó, những đòi hỏi về sự tìm tòi, khám phá và khả
năng tự nghiên cứu của học sinh là rất khó thực hiện.
Thực tế cho thấy, đa số học sinh đều còn thiếu kiến thức về biển đảo và
chủ quyền vùng biển Việt Nam. Với số lượng bài học về biển đảo còn hạn chế
trong chuơng trình phổ thông và sự phân bổ thời lượng quá khiêm tốn trong
chương trình Giáo dục Quốc phòng - An ninh của bậc THPT chưa thể giúp
học sinh có cái nhìn toàn diện và hiểu biết cụ thể về các vấn đề biển đảo Việt
Nam. Thiếu nội dung về chủ quyền biển, đảo trong sách giáo khoa của các
cấp học là một bằng chứng chứng minh rằng chương trình giáo dục của chúng
ta “quá tải” nhưng vẫn thiếu những tri thức cần thiết.
2.3. Những hạn chế lớn trong công tác giáo dục chủ quyền biển, đảo
cho học sinh:
Trang 15
Hiện nay, công tác giáo dục chủ quyền biển, đảo còn có nhiều hạn chế.
Những hạn chế này khiến hiệu quả tuyên truyền chưa tạo ra hiệu ứng xã hội
cao.
Thứ nhất, các nội dung cần tuyên truyền, giáo dục về biển, đảo chưa
được cập nhật trong sách giáo khoa, giáo trình giảng dạy. Chương trình môn
Lịch sử Việt Nam trong trường phổ thông chưa có nội dung nói về chủ quyền
của Việt Nam ở Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. vấn đề này
chỉ được trình bày gián tiếp thông qua hệ thống bản đồ, lược đồ. Chương trình
Giáo dục Quốc phòng-An ninh dành cho bậc THPT thì chỉ có 5 tiết liên quan
đên các nội dung bảo vệ chủ quyền, biên giới quốc gia một cách chung chung,
không có thời lượng dành cho biển, đảo. Một trong những nhà khoa học đi
đầu trong nghiên cứu và giảng dạy về chủ quyền biển, đảo Việt Nam - GS. TS
Nguyễn Quang Ngọc - tại một cuộc Hội thảo chuyên đề, đã phát biểu: “Thế
mà có cả một thời gian dài vấn đề hiển nhiên và trọng đại này lại bị coi
là“nhạy cảm” để rồi lịch sử của một đất nước, một cộng đồng dân cư sinh ra
trên bờ biển,sống cùng biển, chết không rời biển lại không có lấy một dòng
nào về chủ quyền biển đảo thiêng liêng. Ai là người phải chịu trách nhiệm
trước cả tiền nhân và hậu thế về sự lệch lạc này của lịch sử đất nước?”. Câu
hỏi đó vẫn chưa có lời giải đáp.
Thứ hai, nhiều nguồn thông tin, tài liệu tuyên truyền giáo dục biển, đảo
đôi khi chưa thật chính xác, điều này rất nguy hiểm vì biển, đảo là vấn đề có
tính quốc tế. Việc hiểu biết, nhận thức sai lệch về luật pháp quốc tế, tân pháp
quốc tế và biển đảo sẽ khiến hành động không đúng. Nguyên nhân của việc
này là ở chỗ tuy biển là lĩnh vực không mới nhưng gần đây mới được quan
tâm đúng mức về mặt nhận thức, cho nên công tác tuyên truyền chưa thật sự
kịp thời và khoa học. Tài liệu nghiên cứu và tham khảo lại quá nhiều nguồn,
học sinh sẽ khó xác định được nguồn chính thống.
Thứ ba, đội ngũ làm công tác giáo dục, tuyên truyền biển, đảo chưa thật
sự có chuyên môn sâu. Giáo viên giảng dạy Giáo dục Quốc phòng-An ninh
còn thiếu về số luợng và cả kinh nghiệm. Nghiệp vụ về công tác tuyên truyền
Trang 16
biển, đảo còn yếu. Các lớp bồi dưỡng tập huấn về công tác này chưa thường
xuyên và có hiệu quả.
Thứ tư, công tác tuyên truyền biển, đảo chưa có kế hoạch và chiến lược.
Có những lúc rộ lên theo từng đợt, các ban ngành, các tổ chức đều quan tâm
và triển khai tuyên truyền, nhưng sau đó lại lãng quên. Công tác đánh giá,
tổng kết, rút kinh nghiệm về quá trình tổ chức thực hiện chưa được quan tâm
đúng mức. Nội dung chủ quyền biển, đảo chưa trở thành một nội dung giáo
dục có tính xã hội hóa.
Từ thực trạng chung về công tác giáo dục chủ quyền biển đảo ở nước ta
và việc giáo dục chủ quyền biển đảo trong chương trình giáo dục Quốc phòng An ninh của Trường THPT, nhất thiết phải có những giải pháp để khắc phục
hạn chế nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức chủ quyền biển đảo cho học sinh.
2.4. Vai trò của công tác giáo dục quốc phòng - an ninh về biên giới
quốc gia trên biển và biển, đảo của đất nước ta trong tình hình mới cho
học sinh THPT:
Giáo dục Quốc phòng - An ninh cho học sinh là chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước, vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con
nguời mới XHCN. Mục tiêu của công tác này là giáo dục cho học sinh lòng
yêu nước, yêu CNXH, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống của
dân tộc; trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về Quốc phòng - An ninh và
những kỹ năng quân sự cần thiết, để học sinh nhận thức đây đủ hơn quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, GDQP-AN là một môn học rất cần thiết đối với học sinh bậc
THPT để các em được rèn luyện, vừa có thêm sức khỏe vừa có những kiến
thức, hiểu biết, kỹ năng, kỹ thuật cơ bản về quốc phòng, an ninh góp phần vào
công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Nội dung công tác giáo dục quốc phòng - an ninh
về biên giới quốc gia trên biển và biển, đảo của đất nước ta trong tình hình
mới cho học sinh THPT đặc biệt càng có mục tiêu, ý nghĩa sâu sắc trong bối
cảnh, tình hình mới của đất nước, khi vấn đề chủ quyền biển đảo nóng lên.
Trang 17
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các chỉ thị, Nghị định của Đảng và Chính
phủ về công tác giáo dục Quốc phòng - An ninh, thực hiện theo chương trình
khung của Sở Giáo dục và Đào tạo Đăk Nông, Trường THPT Krông Nô đã
triển khai việc giảng dạy môn học giáo dục Quốc phòng - An ninh từ nhiều
năm nay. Đồng thời, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh, ngày càng đi vào nề
nếp, chất lượng từng bước được nâng cao.
Chủ trương đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học
được nhà trường triển khai đồng bộ, thực hiện nhiều khâu, nhiều công đoạn,
áp dụng với tất cả các môn học. Việc giảng dạy môn học Giáo dục Quốc
phòng - An ninh cũng góp phần tác động tích cực vào quá trình nâng cao nhận
thức về chính trị, tư tưởng, sự giác ngộ cách mạng và rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức của học sinh. Từ việc quan tâm đầu tư cơ sở vật chất của nhà trường,
trang thiết bị dạy học, đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ, kết hợp với đổi
mới phương pháp dạy học đã tác động tích cực đến tâm lý nguời học. Đa phần
học sinh Trường THPT Krông Nô đều tỏ ra hứng thú, hăng say trong học tập.
Nhiều em còn chủ động nghiên cứu, sưu tầm thêm tư liệu bổ sung vào bài học
làm sinh động thêm các buổi học. Từ đó hình thành ý thức trách nhiệm công
dân trong việc tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Qua công tác giáo dục quốc phòng - an ninh nói chung và “Nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng - an ninh về biển và biển, đảo của đất
nước ta trong tình hình mới” nói riên. Từ dó, góp phần rèn luyện người học
tính tổ chức kỷ luật, nề nếp trong sinh hoạt và trách nhiệm đối với tập thể;
Xác định được động cơ phấn đấu trong học tập và rèn luyện, xây dựng ý thức
trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Học sinh có
cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các vấn đề biển đảo.Giúp các em thấy được
giá trị vô giá của tài nguyên biển đảo và vấn đề quan trọng nhất là sử dụng tài
nguyên đó như thế nào để nâng cao hiệu quả kinh tế, đồng thời phải đảm bảo
tính bền vững về môi trường.Các chuyên đề giáo dục về nội dung biển đảo
còn giúp cho học sinh hình thành ý thức sẵn sàng tham gia bảo vệ tài nguyên,
môi trường biển, đảo và bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước ta.
Trang 18
3. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Ngoài những phương pháp chung, phổ biến trong nghiên cứu lý
luận về vấn đề địa lý tự nhiên biển Đông, đại dương thế giới, Luật điều ước
quốc tế... làm cơ sở lý luận, đề tài còn sử dụng phương pháp lịch sử, lô gic và
các phương pháp phân tích, tổng hợp.
Trao đổi thảo luận với đồng nghiệp và học sinh để tìm hiểu đặc tính tâm
sinh lý trong quá trình giảng dạy.
Nghiên cứu sách Lịch sử, sách Địa lý và trao đổi, thảo luận với giáo viên
giảng dạy của trường THPT Krông Nô.
Nghiên cứu nội dung, mục tiêu các bài học trong sách giáo khoa, sưu
tầm thêm tài liệu, thông tin, bản đồ biển, đảo để từ đó xây dựng sơ đồ tư duy
phù hợp với chương trình và giảng dạy.
Nghiên cứu những trang thông tin điện tử chính thống của Việt Nam.
B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu
Công tác giáo dục tuyên truyền chủ quyền biên giới quốc gia trên biển và
biển, đảo cho học sinh ở nước ta trong tình hình mới phải tập trung vào các
nhóm nội dung cơ bản sau:
1. Khái quát về biên giới quốc gia trên biển và biển, đảo trong cấu
thành chủ quyền lãnh thổ quốc gia:
I.1 . Khái quát về biên giới quốc gia trên biển:
Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất
liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng các toạ
độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo,
lãnh hải của quần đảo của Việt Nam được xác định theo Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
Trang 19
Các đường ranh giới phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
về kinh tế và thềm lục địa xác định quyền chủ quyền, quyền tài phán của
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra
phía biển.
Đường cơ sở là đường gẫy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại
ngấn nước thuỷ triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố.
Nước ta có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định
đường cơ sở thẳng. Năm 1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố xác định đường
cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm.Trừ điểm A8
nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại đều nằm trên các đảo.Điểm 0 nằm
trên ranh giới phía Tây Nam của vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia.
Điểm A1: Hòn Nhạn (Kiên Giang); A2: Hòn Đá Lẻ (Cà Mau); A3: Hòn Tài
Lớn; A4: Hòn Bông Lan; A5: Hòn Bảy Cạnh (Bà Rịa - Vũng Tàu); A6: Hòn
Hải (nhóm đảo Phú Quý - Bình Thuận); A7: Hòn Đôi (Khánh Hòa); A8: Mũi
Đại Lãnh (Khánh Hòa); A9: Hòn Ông Căn (Bình Định); A10: Đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi); A11: Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị).
Khu vực biên giới trên biển tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết
địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo.
I.2 Khái quát về biển, đảo
Biển và đại dương được các nhà khoa học gọi là “Lục địa xanh”, phủ kín
70,8% bề mặt trái đất và đang “cất giấu” những kho nguyên liệu, khoáng vật
khổng lồ dưới dạng hòa tan trong nước, lắng đọng dưới đáy và vùi kín dưới
lòng đại dương. Do có đặc thù như vậy nên nhiều vùng biển, đại dương đang
là nơi tranh chấp trên thế giới, nhất là đối với những nước lớn ở gần biển và
đại dương có sức mạnh về kinh tế và quân sự.
Trang 20
Biển Đông là một biển nửa kín, nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, với
điện tích khoảng 3,5 triệu km2 trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260 Bắc và từ
kinh độ 1000 đến 1210 Đông. Biển Đông tiếp giáp với 9 nước là Việt Nam,
Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Bruney, Malayxia, Singapore, Thái Lan,
Camphuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đông có vị trí chiến
lược đối với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và
các quốc gia khác trên thế giới.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có
diện tích biển khoảng trên 1 triệu km 2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần
30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km2). Theo Luật Biển
Việt Nam năm 2012, Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định
theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước
của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và
là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra
phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của
Việt Nam.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt
Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải
Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính
từ đường cơ sở.
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và
nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ
đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ
Trang 21
200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường
cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý
tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý
tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500
mét (m).
Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng
đất này vẫn ở trên mặt nước.
Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng
nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách
rời của lãnh thổ Việt Nam. Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho
một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đảo đá không thích hợp cho đời sống
con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa.
1.3. Một số kiến thức về biển, đảo Việt Nam theo pháp luật quốc tế
và Luật biển Việt Nam:
- Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.
+ Vùng nội thủy.
+ Vùng nước lãnh hải.
- Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia.
Trang 22
+ Vùng tiếp giáp lãnh hải.
+ Vùng đặc quyền kinh tế.
+ Thềm lục địa.
1.4. Khái lược về các khu vực biển và hải đảo của Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nằm ven bờ Tây của Biển Đông; có hơn 3.260
km bờ biển, trên 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, vùng biển
nước ta bao gồm: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa. Như vậy, về mặt địa lý, vùng biển và hải đảo nước ta
Trang 23
rất đa dạng, bao gồm nhiều khu vực khác nhau; trong đó có thể chia thành các
vùng chủ yếu: Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa và một số đảo, quần đảo khác.
Vịnh Bắc Bộ nằm về phía Tây Bắc Biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển
miền Bắc Việt Nam, lục địa Trung Hoa, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam
(Trung Quốc). Với diện tích khoảng 126.250 km2, Vịnh Bắc Bộ trải rộng từ
khoảng 17010’ đến 21055’ độ vĩ Bắc, 105036’ đến 109055’ độ kinh Đông; chiều
ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km và nơi hẹp nhất khoảng 220 km; có hai
cửa thông ra Biển Đông: cửa phía Nam rộng khoảng 240 km và cửa phía
Đông (qua eo biển Quỳnh Châu) rộng khoảng 18 km. Năm 2000, Việt Nam và
Trung Quốc đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ theo phương thức “đại
thể chia đôi” và lấy đường trung tuyến từ Bắc xuống Nam làm ranh giới.
Theo đó, phần Vịnh phía Việt Nam có hàng nghìn hòn đảo lớn, nhỏ; trong đó,
đảo Bạch Long Vĩ (diện tích 2,5 km 2) cách đất liền Việt Nam 110 km, cách
đảo Hải Nam (Trung Quốc) 130 km.
Vịnh Thái Lan nằm ở phía Tây Nam Biển Đông, có diện tích khoảng
293.000 km2, chu vi khoảng 2.300 km và được bao bọc bởi bờ biển các nước:
Việt Nam, Cam-pu-chia, Thái Lan và Ma-lai-xi-a. Đây là một vịnh tương đối
nông, nơi sâu nhất khoảng 80m; trong Vịnh, vùng biển của Việt Nam bao gồm
nhiều hòn đảo lớn, nhỏ; trong đó, đảo Phú Quốc có diện tích lớn nhất (khoảng
567 km2).
Các đảo và quần đảo của Việt Nam phân bố không đồng đều. Vùng biển
ven bờ có gần 3.000 hòn đảo, tập trung chủ yếu ở Vịnh Bắc Bộ, số còn lại
phân bố ở khu vực biển Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và Tây Nam. Ngoài
ra, còn có một số đảo xa bờ; hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở
trung tâm Biển Đông. Căn cứ vào điều kiện địa lý, vị trí chiến lược về kinh tế,
quốc phòng - an ninh và dân cư, có thể chia các đảo và quần đảo nước ta
thành các nhóm: hệ thống đảo tiền tiêu, các đảo lớn có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và các đảo ven bờ có điều kiện phát triển
nghề cá, du lịch và là căn cứ để bảo vệ an ninh, trật tự vùng ven biển nước ta.
Trang 24
Quần đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong khoảng 15 độ 45 phút đến 17 độ, 15 phút
Vĩ độ bắc; 111 độ đến 113 độ Kinh đông.
Nó án ngữ ngang cửa vịnh Bắc Bộ, cách đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi 120
hải lý, cách đảo Hải Nam, Trung Quốc 140 hải lý,.
Hoàng Sa có 30 hòn đảo, cồn đá, bãi san hô, bãi cát nằm trên vùng biển
từ Tây sang Đông khoảng 100 hải lý; từ Bắc xuống Nam khoảng 85 hải lý,
chiếm diện tích vùng biển khoảng 15.000 km2, chia thành hai nhóm.
Nhóm đảo phía Đông có 8 đảo và một số bãi san hô nhô lên mặt nước. Đảo
lớn nhất là đảo Phú Lâm và đảo Linh Côn, mỗi đảo rộng 1,5 km2, trên đảo có
nhiều cây cối, xung quanh có bãi san hô và cát ngầm. Ngoài ra còn một số
đảo khác như: đảo Cây, đảo Bắc, đảo Trung, đảo Nam, mỗi đảo có diện tích
0,4 km2 trở xuống.
Nhóm đảo phía Tây có 15 đảo như: Hoàng Sa, Hữu Nhật, Quang ảnh, Quang
Hoà, Duy Mộng, Chim Én, Tri Tôn, diện tích mỗi đảo từ 0,5 km2 trở xuống.
Trong quần đảo Hoàng Sa, đảo Linh Côn nằm ở ngoài cùng của phía
Đông xa Việt Nam nhất và đảo Tri Tôn nằm ngoài cùng về phía Tây gần Việt
Nam nhất.
Trang 25