Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Hoàn thiện quy trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC do Công ty TNHH Deloitte VN thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.69 KB, 129 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 21 đang diễn ra những
chuyển biến hết sức mau lẹ, những ngành nghề kinh doanh mới ra đời, sự xâm nhập
ngày càng nhiều của những doanh nghiệp nước ngoài. Kiểm toán là một lĩnh vực tiêu
biểu, tuổi đời chưa tròn 20 năm nhưng đây được coi là ngành có sức bật mạnh mẽ.
Cơ hội lớn để phát triển đang rộng mở với tất cả công ty kiểm toán ở VN, nhưng cơ
hội cũng chia đều cho tất cả không phân biệt là doanh nghiệp trong nước hay nước
ngoài, cạnh tranh là một điều tất yếu.
Người Việt Nam vẫn có thói quen dùng “hàng hiệu”, vậy để chiếm lĩnh được
thị trường, sản phẩm mà các công ty kiểm toán đưa ra phải thật sự có thương hiệu, và
lẽ dĩ nhiên thương hiệu được làm nên từ chất lượng của sản phẩm đó. Vấn đề đặt ra ở
đây là mặc dù đã xây dựng được tiêu chuẩn chất lượng mà dịch vụ kiểm toán của
mình phải đạt được nhưng liệu khi dịch vụ đó đến tay KH nó có thật sự có đáp ứng
được tiêu chuẩn đó hay không? KSCL hoạt động kiểm toán đó chính là chìa khóa dể
giải quyết vấn đề này.
Sự sụp đổ của Athur Andersen không còn là một điều xa vời nữa khi mà năm
2008 sự kiện BCKT về BCTC của Công ty CP Bông Bạch Tuyết mà trước đó nữa là
vụ bê bối xung quanh BCKT về BCTC của Công ty CP Đồ hộp Hạ Long, đã gióng
lên một tiếng chuông cảnh tỉnh tình trạng KSCL hoạt động kiểm toán lỏng lẻo ở Việt
Nam hiện nay, đặc biệt là đối với các Công ty kiểm toán Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, qua thời gian thực tập tại Công ty TNHH
Deloitte VN, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện quy trình kiểm soát chất lượng hoạt
động kiểm toán BCTC do Công ty TNHH Deloitte VN thực hiện” nhằm giới thiệu
về quy trình KSCL HĐKT BCTC đang được áp dụng tại Công ty. Đồng thời, mạnh
dạn đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KSCL kiểm toán
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, về yêu cầu thực tiễn đối với công tác


KSCL hoạt động kiểm toán BCTC, khóa luận này đặt ra các mục tiêu cần đạt được
như sau:
Thứ nhất, Nghiên cứu những vấn đề lý luận về kiểm soát chất lượng HĐKT
BCTC, các phương pháp và kỹ thuật cần áp dụng để nâng cao hiệu quả của công tác
kiểm soát chất lượng HĐKT.
Thứ hai, nghiên cứu, khảo sát và đánh giá tình hình thực hiện quy trình KSCL
hoạt động kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Deloitte Việt Nam.
Thứ ba, nêu ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm
soát chất lượng HĐKT tại Công ty kiểm toán Deloitte Việt Nam.
III. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu các vấn đề về chất lượng và
kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán BCTC do các công ty kiểm toán độc lập thực
hiện.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận chỉ nghiên cứu vấn đề KSCL hoạt động kiểm
toán BCTC trong nội bộ Công ty TNHH Deloitte Việt Nam. Các vấn đề kiểm soát
chất lượng dịch vụ kiểm toán một cách độc lập từ bên ngoài không thuộc đối tượng
nghiên cứu của khóa luận này.
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp quan sát, tổng
hợp, phân tích, so sánh… Thông qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo để tìm hiểu
về thực tiễn công tác KSCL hoạt động kiểm toán, và thông qua quá trình thực tế tại
Công ty kiểm toán Deloitte Việt Nam kết hợp với kiến thức đã học để tổng hợp, đánh
giá thực trạng và phân tích đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác KSCL
hoạt động kiểm toán một cách hiệu quả, có hệ thống và có tính khả thi.
Kết quả nghiên cứu: Khóa luận làm rõ những vấn đề cơ bản nhất trong lý luận
về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Từ đó, làm cơ sở cho việc tiếp cận thực
tiễn quy trình này tại Công ty TNHH Deloitte Việt Nam. Qua đó, khóa luận cũng rút
ra những thành công và những hạn chế trong quy trình KSCL hoạt động kiểm toán do
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
Công ty TNHH Deloitte Việt Nam thực hiện, trên cơ sở đó. khóa luận cũng mạnh dạn

đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa quy trình KSCL hoạt
động kiểm toán do Công ty TNHH Deloitte Việt Nam thực hiện.
IV. Nội dung của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của khóa luận bao gồm ba phần:
Phần 1: Lý luận chung về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán Báo
cáo tài chính.
Phần 2: Thực trạng công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
BCTC do Công ty TNHH Deloitte Việt Nam.
Phần 3: Hoàn thiện quy trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
BCTC do Công ty TNHH Deloitte Việt Nam thực hiện.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Kế toán – kiểm toán trường
Đại học Kinh tế quốc dân, đặc biệt là TS Tô Văn Nhật, cùng các anh chị trong công
ty TNHH Deloitte Việt Nam đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ để em hoàn thành tốt khóa
luận tốt nghiệp này.
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Khái quát về kiểm toán độc lập
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán độc lập
“Kiểm toán” là thuật ngữ nghề nghiệp và là hoạt động nghiệp vụ đã xuất hiện
từ lâu trên thế giới và đuợc chấp nhận ở Việt Nam từ những năm đầu đổi mới. Nói về
kiểm toán sẽ là sự đề cập đến một lĩnh vực khá rộng, bởi nó song song tồn tại đối với
tất cả mọi loại hình kinh doanh, nghành nghề và lĩnh vực kinh doanh đặc biệt là trong
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn này tôi chỉ đề cập đến
loại hình kiểm toán độc lập, bởi đây là loại hình kiểm toán tuy ra đời sau nhưng lại có
vai trò qua trọng đối vói sự phát triển kinh tế, nó cũng mang đầy đủ nhất các sắc thía
của “kiểm toán”. Đặc biệt , đối với kiểm toán độc lập vấn đề kiểm soát chất lượng
luôn là một bài toán khó nhưng bắt buộc các công ty kiểm toán, các nhà hoạch định
chính sách phải tìm ra lời giải.

Thực tế, có rất nhiều tiêu thức khách nhau để phân loại kiểm toán tuy nhiên
cách thức thông dụng nhất là phân loại theo tổ chức bộ máy, bao gồm: kiểm toán nhà
nước, kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập. Trong đó, kiểm toán độc lập được xem
là hoạt động đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Theo Liên đoàn kế toán quốc tế
( Internation Federation of Acountants) thì: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và
trình bày ý kiến của mình về các bảng khai tài chính” Nghị định số 105/2004/NĐ-CP
của Chính phủ ban hành ngày 30/03/2004 ghi rõ: “ Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra
và xác nhận của KTV và các doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực. hợp lý của
các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức ( gọi
chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của đơn vị này”. Như vậy, kiểm toán
độc laapjlaf loại kiểm toán được tiến hành bởi các KTV thuộc các công ty, văn phòng
kiểm toán chuyên nghiệp, là hoạt động dịch vụ tư vấn được pháp luật thừa nhận và
quản lý chặt chẽ. Như vậy có thể thấy rõ, các công ty kiểm toán độc lập cũng là
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
những doanhh nghiệp cung cấp dịch vụ cho khách hàng, sản phẩm chính mà họ đưa
ra trên thị trường đó chính là dịch vụ kiểm toán BCTC.
Kiểm toán độc lập ra đời không phải là hoạt động tự thân, vị thân mà là một
nhu cầu tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, khi nền kinh tế thị
trường ngày càng phát triển thì yêu cầu hoàn thiện hơn nữa kiểm toán độc lập, nâng
cao chất lượng kiểm toán đó chính là một tất yếu khách quan.
1.1.2. Vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thi trường
Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao lại khẳng định kiểm toán độc lập là nhu cầu tất
yếu khách quan của nền kinh tế thị trường, và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm
toán cũng là một tất yếu khách quan? Lý giải điều này cần phải tìm hiểu đến vai trò
của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường.
Chỉ qua hơn 15 năm hình thành và tham gia vào thị trường, hoạt động kiểm
toán độc lập đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, khẳng định vai trò thiết yếu
của mình trong dời song kinh tế - xã hội của đất nước.
Trước hết, kiểm toán độc lập làm tăng mức độ tin cậy của các thông tin tài

chính đồng thời làm lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế. Bằng các nghiệp vụ chuyên
môn, bằng các hoạt động khách quan và độc lập, kiểm toán đánh giá, xác nhận một
cách trung thực có căn cứ về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, qua đó nâng cao độ tin cậy của thông tin kinh tế tài chính do kế toán xử lý và
cung cấp, giảm bớt hoạt động thanh tra, kiểm tra mang nặng tính hành chính. Đồng
thời, kiểm toán sẽ đảm bảo sự trung thực, khách quan, tin cậy của các thông tin kinh
tế -tài chính khi cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin. Cũng thông qua quá
trình kiểm toán, KTV còn đưa ra những ý kiến kiến nghị giúp doanh nghiệp hoàn
thiện hệ thống kiểm soát, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính cũng như hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Thứ hai, hoạt động kiểm toán giúp doanh nghiệp tìm được tiếng nói chung, sự
tin cậy lẫn nhau, thẳng thắn trung thực trình bày về thực trạng tài chính của mình để
có thể đánh giá lựa chọn đối tác kinh doanh phù hợp. Hơn thế nữa, chi phí và thời
gian cho một cuộc kiểm toán cũng ít hơn chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra nếu phải
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
đàm phán để đánh giá, chứng minh tình hình tài chính của mỗi bên trước khi có
những thỏa thuận hợp tác kinh doanh.
Thứ ba, kiểm toán độc lập đóng vai trò quan trọng trong mở rộng quan hệ đối
ngoại, góp phần tạo lập và duy trì môi trường đầu tư thuận lợi minh bạch tin cậy, thúc
đẩy hoạt động đầu tư. Kiểm toán độc lập giúp các nhà đầu tư trong và ngoài nước có
điều kiện tiếp cận, tăng cường hiểu biết về luật pháp Việt Nam nói chung, luật pháp
kinh tế tài chính nói riêng, nguyên tắc và các quy định về kế toán, kiểm toán Việt
Nam. Ngoài ra, kiểm toán độc lập cũng giúp các nhà đầu tư trong nước hiểu được các
thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đó là quá trình rút ngắn tiến trình mở cửa, hội nhập
kinh tế của Việt Nam.
Cuối cùng, với tư cách là một ngành dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực tài
chính, kiêm toán độc lập góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế phát triển thị
trường dịch vụ tài chính tiền tệ vốn rất mới mẻ và nhiều tiềm năng ở Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập sâu với kinh tế thế giới.

1.2. Chất lượng hoạt động kiểm toán
Với vị trí và vai trò thiết yếu trong nền kinh tế thị trường, vấn đề kiểm soát
chất lượng hoạt động kiểm toán cũng được đặt ở một mức độ cấp thiết tương xứng.
Đây là vấn đề nóng hổi, rất được quan tâm của giớ đầu tư nói riêng, những người sử
dụng thông tin nói chung cũng là vấn đề sống còn mà mỗi công ty kiểm toán trên con
đường phát triển của mình phải đặt ra.
1.2.1 Khái niệm chất lượng hoạt động kiểm toán
Đối với bất kỳ một nghành nghề, lĩnh vực. hoạt động nào thì yếu tố chất lượng
luôn là cái đích cần phải nhắm tới trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay. Chất
lượng sẽ phản ánh những giá trị, lợi ích mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó đem lại
cho người tiêu dùng. Đây là một phạm trù khá phức tạp được nhìn nhận theo nhiều
góc độ và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của nền kinh tế.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị
của con người, một sự vật, sự việc”.Theo Từ điển Kinh tế: “Chất lượng là tất cả các
đặc tính của hàng hóa hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu của người mua hoặc khách
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
hàng. Vật liệu tạo thành sản phẩm, thiết kế và kỹ thuật của sản phẩm, hoàn chỉnh
sản phẩm và uy tín là những đặc tính quan trọng của chất lượng”.Theo định nghĩa
của Tiêu chuẩn Việt Nam 5200-ISO9000 thì: “Chất lượng là mức độ phù hợp của
sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của người mua”.
Quan điểm chất lương rất đa dạng nhưng tựu chung lại có thể hiểu đó là sự
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng với những điều kiện nhất định, mà ở đây chính là chi phí
hợp lý.
Kiểm toán, về bản chất cũng là một ngành cung cấp dịch vụ do vậy việc theo
đuổi chất lượng là một điều cần thiết. Tuy nhiên, để có được sự nhìn nhận đúng đắn
nhất về khía niệm chất lượng hoạt động kiểm toán, cần phải đứng trên nhiều góc độ
khác nhau.Theo cách thức và quan điểm chung về chất lượng như các định nghĩa đã
nêu, tác giả Ngô Đức Long đã tiến hành điều tra tại các công ty kiểm toán đang hoạt
động ở Việt nam với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ và các khách hàng với tư cách

là đối tượng sử dụng dịch vụ, cho thấy các quan điểm về chất lượng kiểm toán hiện
nay như sau :
- Các quan điểm về chất lượng kiểm toán từ phía các đối tượng sử dụng dịch
vụ kiểm toán.
Theo kết quả điều tra 54 đối tượng khách hàng, cho thấy các quan điểm về
chất lượng của họ đều tập trung vào các vấn đề như sau: 98% trong số các khách
hàng được phỏng vấn đều cho rằng chất lượng kiểm toán thể hiện việc tuân thủ theo
đúng chuẩn mực kiểm toán, 85% khách hàng cho rằng chất lượng kiểm toán thể hiện
ở việc các KTV có nhiều ý kiến tư vấn, góp ý cho khách hàng trong quá trình kiểm
toán, 44% khách hàng cho rằng chất lượng kiểm toán là việc tính phí kiểm toán ở
mức thấp và hợp lý, 63% khách hàng cho rằng chất lượng kiểm toán là việc KTV đáp
ứng được sự mong đợi của khách hàng, 85% khách hàng cho rằng chất lượng kiểm
toán thể hiện ở tính chuyên nghiệp của KTV.
Cũng theo kết quả điều tra trên thì đa số các khách hàng đều cho rằng mong
muốn của họ đối với KTV là có được ý kiến chính xác, trung thực, khách quan về các
thông tin tài chính đã được kiểm toán, đồng thời trong những trường hợp cần thiết,
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
đưa ra các hướng dẫn giúp khách hàng lập được báo cáo tài chính phù hợp với các
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý
của họ. Các khách hàng cho rằng giá phí kiểm toán không thể hiện chất lượng kiểm
toán, tuy nhiên cũng không muốn việc để có được ý kiến kiểm toán mà phải bỏ ra
khoản chi phí với bất cứ giá nào.
Một số khách hàng mà chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước và các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh mong muốn rằng, kiểm toán sẽ là sự đảm bảo chắc chắn
rằng mọi sai sót, gian lận hoặc bất cứ điểm bất hợp lý nào trong công tác kế toán đều
được phát hiện và báo cáo lại Ban giám đốc, đồng thời đưa ra phương án sửa đổi
chỉnh lý hoặc tiến hành các bước kiểm tra bổ sung nhằm đưa ra ý kiến chấp nhận
toàn bộ đối với báo cáo tài chính.
Do vậy có thể khái quát quan niệm về chất lượng kiểm toán theo góc độ của

khách hàng gồm các nội dung là: (1) Chất lượng kiểm toán thể hiện ở sự tuân thủ
theo đúng chuẩn mực kiểm toán; (2) là sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng về dịch
vụ mà họ được cung cấp trong đó rõ nét nhất là những ý kiến giúp khách hàng thực
hiện hiệu quả công tác quản lý; (3) Chi phí cho dịch vụ kiểm toán thấp một cách hợp
lý và (4) thể hiện ở tính chuyên nghiệp của KTV.
- Quan điểm của các công ty kiểm toán về chất lượng kiểm toán
Kết quả điều tra tại 5 công ty kiểm toán quốc tế và các công ty kiểm toán lớn
là doanh nghiệp nhà nước cùng một số đại diện các công ty kiểm toán tư nhân cho
thấy các quan điểm về chất lượng kiểm toán đều thống nhất và tập trung vào các nội
dung sau:
- Chất lượng kiểm toán là việc thoả mãn mong muốn của khách hàng và không trái
pháp luật
- Chất lượng kiểm toán là việc hoạt động kiểm toán tuân theo đúng chuẩn mực kiểm
toán.
- Cuộc kiểm toán phải đem lại lợi nhuận cho công ty
- Chất lượng kiểm toán là việc đồng thời đảm bảo mục tiêu là đưa ra ý kiến về báo
cáo tài chính và mang lại các lợi ích bổ sung cho khách hàng.
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
Cũng giống như các quan điểm của các khách hàng, tất cả các công ty kiểm
toán được hỏi đều khẳng định rằng chất lượng kiểm toán phải là sự tuân thủ các
chuẩn mực kiểm toán, thoả mãn các mong muốn của khách hàng. Tuy nhiên lợi
nhuận là bản chất của hoạt động kinh doanh, do vậy các công ty kiểm toán lại cho
rằng cuộc kiểm toán có chất lượng thì phải là mang lại lợi nhuận cho công ty. Ngược
lại về phía người tiêu dùng thì chất lượng phải thể hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí
bỏ ra để thoả mãn nhu cầu đó, theo đó giá phí kiểm toán phải thấp một cách hợp lý.
Về hình thức thì dường như 2 quan điểm này mâu thuẫn nhau, nhưng trong thực tiễn
thì các yêu cầu đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, là tiền đề cho sự phát triển. Các
công ty kiểm toán lấy lợi ích, sự phát triển của khách hàng làm mục tiêu phục vụ theo
đó quan niệm chất lượng kiểm toán cần phải mang lại lợi nhuận cho công ty là vấn đề

đặt ra cho mục tiêu quản lý của bản thân các công ty kiểm toán nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh.
- Dưới góc độ của người làm công tác quản lý hoạt động kiểm toán
Chất lượng kiểm toán được thể hiện tại Chuẩn mực kiểm toán số 220- Kiểm
soát chất lượng hoạt động kiểm toán “Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ
thoả mãn của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin
cậy vào ý kiến kiểm toán của KTV; đồng thời thoả mãn mong muốn của đơn vị được
kiểm toán về những ý kiến đóng góp của KTV, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý”. Theo tôi, khái niệm này
chỉ giới hạn trong phạm vi ý kiến kiểm toán, là kết quả của hoạt động kiểm toán mà
không tính đến quá trình thực hiện kiểm toán. Thực tế, kiểm toán là một ngành khoa
học độc lập, một nghề nghiệp được thừa nhận trong xã hội đồng thời cũng là một
ngành cung cấp dịch vụ trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động kiểm toán và kết quả
hoạt động kiểm toán có những ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế. Do vậy, cần
phải thừa nhận rằng, chất lượng hoạt động kiểm toán vừa là cái làm nên phẩm chất,
giá trị của hoạt động kiểm toán vừa là chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Kết hợp giữa mục đích, ý nghĩa của kiểm toán trên cơ sở nhìn nhận trên mọi
góc độ, có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về chất lượng kiểm toán như sau:
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
“Chất lượng kiểm toán là mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy
vào ý kiến kiểm toán của những đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán, đồng
thời thoả mãn về mong muốn có được những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị được kiểm toán với thời
gian định trước và giá phí thích hợp”.( Theo tác giả Ngô Đức long)
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán:
Trên cơ sở thống nhất định nghĩa chất lượng kiểm toán như đã nêu ở mục trên,
các chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán như sau:
- Mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của
những người sử dụng kết quả kiểm toán

Tính khách quan, độc lập của KTV là điều kiện trước hết để đảm bảo ý nghĩa
và giá trị sử dụng của dịch vụ kiểm toán độc lập. Những người sử dụng kết quả kiểm
toán chỉ thật sự hài lòng và thoả mãn khi họ tin tưởng rằng ý kiến kiểm toán đưa ra
dựa trên các cơ sở đó: (i) ý kiến kiểm toán được đưa ra bởi chuyên gia kiểm toán có
đủ năng lực, trình độ chuyên môn; (ii) tính độc lập, khách quan của ý kiến kiểm toán.
Để đánh giá được chỉ tiêu này, người ta xem xét tính tuân thủ các chuẩn mực nghề
nghiệp của KTV và của công ty kiểm toán, điều này thể hiện khá rõ qua tính chuyên
nghiệp của KTV trong quá trình thực hiện công việc kiểm toán.bao gồm các khía
cạnh sau: đảm bảo tính độc lập, khách quan và chính trực; kiến thức, kỹ năng kinh
nhiệm của KTV; các phương pháp thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán; công
tác giám sát, quản lý cuộc kiểm toán; các thủ tục soát xét, phát hành báo cáo kiểm
toán; các khía cạnh khác
- Mức độ thoả mãn về sự đóng góp của KTV nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
tài chính của đơn vị được kiểm toán theo đúng chế độ chính sách của nhà nước cũng
như các qui định riêng của đơn vị.
Đối với các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán, việc phát hiện và ngăn ngừa
các sai sót trong quản lý tài chính, kế toán không phải lúc nào cũng hoàn hoản và
kiểm soát được toàn bộ. Trách nhiệm của các KTV ngoài việc đảm bảo BCTC đó
không có sai sót trọng yếu thì phải chỉ ra những hạn chế yếu kém của hệ thống
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
KSNB, ảnh hưởng của những hạn chế đó cũng như các giải pháp hoàn thiện nâng cao
hiệu quả hoạt động SXKD của đơn vị được kiểm toán. Đây chính là giá trị gia tăng
mà dịch vụ kiểm toán độc lập đưa lại cho những khách hàng của mình.
Mức độ thoả mãn của các nhà quản lý đơn vị đối với những đóng góp của
kiểm toán không cụ thể hoá được bằng số lượng bởi có thể có hoặc không có các phát
hiện và kiến nghị góp ý hoàn thiện hệ thống kiểm soát của đơn vị mà chỉ có thể đánh
giá ở sự hài lòng và đánh giá cao của các nhà quản lý doanh nghiệp về tính chuyên
nghiệp và trách nhiệm của KTV trong quá trình kiểm toán.
- Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong

thư hẹn kiểm toán và chí phí cho dịch vụ kiểm toán ở mức độ phù hợp.
Một trong các yêu cầu của thông tin tài chính là tính kịp thời, các thông tin
không được cung cấp đúng lúc sẽ trở nên không có giá trị sử dụng, đồng thời có thể
gây nhiều khó khăn trong việc đưa ra các quyết định quản lý hoặc bỏ lỡ các cơ hội
kinh doanh. Mặc dù kiểm toán không phải là kênh cung cấp thông riêng biệt, nhưng
nó là một khâu thẩm định trong hệ thống cung cấp thông tin. Do vậy mọi chậm trễ
trong quá trình kiểm toán do nguyên nhân của việc tổ chức, giám sát quản lý cuộc
kiểm toán thiếu hiệu quả hoặc bất cứ lý do gì khác từ phía công ty kiểm toán dẫn đến
sự chậm trễ không theo đúng kế hoạch đặt ra trong hợp đồng kiểm toán/ hay Thư hẹn
kiểm toán đều làm ảnh hưởng đến uy tín và giá trị của dịch vụ của công ty kiểm toán.
Về giá phí kiểm toán, đây cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng
kiểm toán. Phí dịch vụ kiểm toán xác định trên cơ sở thời gian cần thiết để các KTV
thực hiện công việc kiểm toán và đơn giá giờ công làm việc của KTV. Việc xác định
và giảm thiểu thời gian kiểm toán mà vẫn đảm bảo thu thập được đầy đủ các bằng
chứng kiểm toán thích hợp sẽ là điều kiện để giảm thiểu giá dịch vụ cho khách hàng.
Đó chính là sự thể hiện và là một trong các chỉ tiêu đánh giá chất lượng kiểm toán.
Chất lượng là khái niệm tương đối, biến đổi theo thời gian, không gian, theo
sự phát triển của nhu cầu xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ở nước ta, kiểm
toán độc lập hình thành và phát triển chưa lâu, hành lang pháp lý đang từng bước
hoàn thiện (các chuẩn mực kiểm toán đã và đang tiếp tục được nghiên cứu và công
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
bố), và sự hiểu biết về kiểm toán của các đơn vị được kiểm toán còn hạn chế. Do vậy
sự đánh giá về chất lượng kiểm toán vẫn còn nhiều bất cập và thiếu cơ sở theo đó lý
luận về chất lượng kiểm toán cần tiếp tục nâng cao và hoàn thiện.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán:
Hoạt động kiểm toán độc lập thực chất là hoạt động cung cấp dịch vụ do vậy
nó cũng chịu những ảnh hưởng từ các nhân tố bên trong doanh nghiệp và nhân tố bên
ngoài của nền kinh tế, có thể khái quất lại như sau:
Nhóm các yếu tố bên trong: Là các yếu tố trong phạm vi của công ty kiểm

toán. Đây là các yếu tố cơ bản quyết định đến chất lượng kiểm toán bao gồm:
- Yếu tố con người:
Đối với hoạt động kiểm toán, yếu tố con người (bao gồm cả các cấp quản lý)
là yếu tố chính, cơ bản nhất tạo nên giá trị của dịch vụ. Kiểm toán là quá trình các
KTV thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến của mình. Trong
quá trình này cần đến sự nhạy cảm và những đánh giá mang tính chủ quan của KTV.
Do vậy có thể thấy, chất lượng kiểm toán phụ thuộc lớn vào chất lượng của đội ngũ
KTV (nhân viên kiểm toán và các cấp quản lý của công ty kiểm toán).
- Yếu tố kỹ thuật:
Để cụ thể hoá các chuẩn mực chuyên môn, các công ty kiểm toán thiết kế
riêng cho mình hệ thống các qui trình kỹ thuật, các bước và phương pháp thu thập
bằng chứng kiểm toán, để dựa vào đó KTV tiến hành thực hiện công việc được giao.
Hệ thống các yếu tố kỹ thuật này sẽ đảm bảo cho các KTV thực hiện công việc một
cách khoa học, thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp với chi phí
và thời gian hợp lý, hạn chế thấp nhất rủi ro kiểm toán. Trong hệ thống các yếu tố kỹ
thuật có thể kể đến sự hỗ trợ của các phần mềm máy tính được các chuyên gia thiết
lập áp dụng cho một số các thủ tục kiểm toán như giúp các KTV có được số liệu phân
tích, đánh giá hoặc đưa ra kết quả lựa chọn phương pháp chọn mẫu, .... và các ứng
dụng khác. Với phương pháp khoa học trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm
toán, KTV thể hiện cho đơn vị được kiểm toán thấy được tính chuyên nghiệp, mặt
khác hạn chế thấp nhất sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị trong quá
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
trình kiểm toán, tạo lòng tin nơi khách hàng. Có thể nói yếu tố kỹ thuật như là công
nghệ của quá trình kiểm toán.
- Yếu tố quản lý:
Quản lý là yếu tố không thể thiếu và là quan trọng nhất trong mọi hoạt động
kinh tế xã hội. Đối với hoạt động kiểm toán độc lập, yếu tố quản lý cuộc kiểm toán
có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành tuân theo
đúng chuẩn mực nghề nghiệp, các yêu cầu kỹ thuật của công ty cũng như chuẩn mực

phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán.
- Các yếu tố về điều kiện phương tiện làm việc: Đây là những yếu tố quan
trọng giúp các KTV thực hiện tốt công việc của mình một cách hiệu quả. Các yếu tố
này có thể kể như: máy tính, fax, mạng máy tính nội bộ, phương tiện liên lạc… Mặc
dù không tham gia trực tiếp tạo nên chất lượng kiểm toán nhưng những yếu tố này có
tác động tích cực trong chính sách thu hút nhân viên của công ty, mặt khác yếu tố này
cũng làm tăng thêm hình ảnh chuyên nghiệp của công ty kiểm toán trước khách hàng,
tạo niềm tin nơi khách hàng về tính chuyên nghiệp của kiểm toán.
Nhóm các yếu tố bên ngoài: Là những yếu tố bên ngoài công ty kiểm toán có
ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán, bao gồm:
- Nhu cầu của nền kinh tế:
Không có sản phẩm dịch vụ nào cung cấp cho thị trường lại không nhằm đáp
ứng nhu cầu nào đó của nền kinh tế. Do vậy ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử
dụng gì chất lượng sản phẩm, dịch vụ bao giờ cũng bị chi phối, bị ràng buộc bởi hoàn
cảnh, điều kiện và nhu cầu nhất định của nền kinh tế. Ảnh hưởng của nhu cầu của
nền kinh tế đối với chất lượng kiểm toán thể hiện qua:
Đòi hỏi của thị trường: Ở những thị trường khác nhau có những đòi hỏi khác
nhau và đối tượng khác nhau thì yêu cầu khác nhau … . Mặc dù kiểm toán cho đối
tượng nào đi chăng nữa thì công việc kiểm toán cũng phải tuân theo pháp luật và các
chuẩn mực nghề nghiệp. Tuy nhiên các điều kiện riêng của từng đối tượng này là
không giống nhau, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác với doanh nghiệp
nhà nước và khác với công ty cổ phần, .. Luật pháp điều chỉnh đối với các đối tượng
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
này không giống nhau, hệ thống quản lý, kiểm soát nội bộ của họ cũng rất khác nhau
và mục đích sử dụng kiểm toán cũng không thống nhất. Điều này thực sự sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng kiểm toán.
Trình độ kinh tế, xã hội: Muốn có được sản phẩm có chất lượng phải dựa trên
cơ sở phát triển của nền kinh tế, xã hội. Thực tế không thể đánh giá hoặc so sánh chất
lượng kiểm toán ở Việt nam với chất lượng kiểm toán ở các nước phát triển như Anh,

Hoa Kỳ, Pháp,… . Bởi hệ thống lý luận về kiểm toán, hệ thống về qui trình kỹ thuật
nghiệp vụ của Việt nam vẫn khác nhiều so với các nước đó hay về đội ngũ chuyên
gia kiểm toán ở Việt nam vẫn chưa được đào tạo đầy đủ và cơ bản như các nước. Tất
cả những điều này đều ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Do vậy, vấn đề nâng
cao chất lượng kiểm toán cần phải xem xét trong quá trình phát triển chung của nền
kinh tế.
- Cơ chế quản lý kinh tế:
Bất cứ hoạt động kinh tế nào, dưới chế độ nào đều chịu tác động, chi phối bởi
cơ chế quản lý kinh tế nhất định. Cơ chế quản lý kinh tế tác động đối với chất lượng
kiểm toán thể hiện ở qua các nội dung sau:
Về mục tiêu kinh tế: Mục tiêu phát triển kinh tế có thể làm thay đổi lớn đến
nhu cầu về kiểm toán kéo theo những ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Ví dụ về
chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hoặc qui định khi công bố báo cáo tài
chính phải được kiểm toán xác nhận đã tạo ra thị trường lớn về nhu cầu kiểm toán.
Hoặc định hướng phát triển dịch vụ kiểm toán của Đảng cũng tạo ra nhiều cơ hội cho
sự phát triển của hoạt động này.
Các chính sách kinh tế: Chính sách kinh tế có tác động rõ nét đến chất lượng
kiểm toán. Trên cơ sơ xác định mục tiêu phát triển kiểm toán, Nhà nước đã có hàng
loạt các biện pháp đảm bảo cho sự phát triển như việc đầu tư nghiên cứu các chuẩn
mực kiểm toán, kế toán. Đây là những nỗ lực lớn nhằm phát triển hoạt động kiểm
toán và đảm bảo chất lượng kiểm toán. Ngược lại cũng có những chính sách làm hạn
chế khả năng nâng cao chất lượng. Cụ thể như việc qui định về khung giá phí kiểm
toán hoặc cơ chế tiền lương của các KTV trong các công ty kiểm toán là doanh
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
nghiệp nhà nước làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng làm việc, nghiên cứu của KTV,
… .
- Tổ chức quản lý chất lượng: Hình thành cơ chế quản lý chất lượng trong cơ
chế chung của quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý chất lượng sẽ đảm bảo sự hài hoà giữa
lợi ích của công chúng đối với kiểm toán và sự phát triển của hoạt động kiểm toán.

Cơ chế kiểm quản lý chất lượng hữu hiệu sẽ đảm bảo cho sự phát triển có chất lượng
và hiệu quả của hoạt động kiểm toán. Tổ chức quản lý chất lượng có thể là các tổ
chức nghề nghiệp độc lập, ví dụ ở Việt Nam hiện nay có Hiệp hội kiểm toán viên
hành nghề Việt Nam (VACPA) chính thức hoạt động tư năm 2006. Đây chính là một
trong những bước đi quan trọng của Chính phủ nhằm tăng cường kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán ở nước ta.
1.3. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
1.3.1. Khái niệm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Chất lượng hoạt động kiểm toán là một yếu tố định tính, khó xác định một
cách chính xác trong những trường hợp cụ thể. Do vây, KSCL hoạt động kiểm toán
cũng là một quy trình khá phức tạp với những cách hiểu, cách xây dựng và thực hiện
rất đa dạng.
Theo Từ điển Thuật ngữ Kế toán - Kiểm toán, kiểm soát chất lượng HĐKT
được hiểu là “Các chính sách và các quy trình do một hãng thông qua để đảm bảo
một cách tương đối rằng tất cả các cuộc kiểm toán do hãng tiến hành được thực hiện
theo đúng mục đích và các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán đã được quy định trong
các chuẩn mực kiểm toán quốc tế”. Khái niệm này là chưa đầy đủ do nó chỉ đề cập
tới trách nhiệm của các công ty kiểm toán (hãng) trong việc xây dựng và thông qua
các chính sách hay quy trình kiểm soát chất lượng mà không đảm bảo việc tuân thủ
thực hiện các chính sách đó, bên cạnh đó nó cũng chưa đề cập đến vai trò của Nhà
nước và các hiệp hội nghề nghiệp.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 – Kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán KSCL hoạt động kiểm toán là việc “KTV và công ty kiểm toán phải thực
hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng đối với toàn bộ hoạt động kiểm
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
toán của công ty kiểm toán và đối với từng cuộc kiểm toán” để “đảm bảo tất cả các
cuộc kiểm toán đều được tiến hành phù hợp với Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận nhằm không ngừng
nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán”. Tuy nhiên, đây cũng chưa hẳn là một

định nghĩa khái quát nhất bởi nó chỉ dừng lại ở trách nhiệm của KTV và công ty kiểm
toán, trong khi kiểm toán chất lượng hoạt động kiểm toán lại yêu cầu sự phối kết hợp
của Chính phủ, các hiệp hội nghề nghiệp và sự quan tâm của toàn xã hội.
Tóm lại, có thể khái quát: Kiểm soát chất lượng HĐKT là việc các cơ quan
quản lý Nhà nước, Hiệp hội nghề nghiệp, các công ty kiểm toán và bản thân
KTV xây dựng, thực hiện và giám sát sự tuân thủ hệ thống các chính sách, quy
trình hỗ trợ cho hoạt động kiểm toán nhằm đảm bảo phù hợp với các chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam và quốc tế và không ngừng nâng cao chất lượng nghề
nghiệp.
Khái niệm trên có thể coi là đã đề cập đầy đủ các nhân tố của KSCL hoạt
động kiểm toán, bao gồm: Chủ thể của hoạt động kiểm soát là các cơ quan quản lý
Nhà nước, Hiệp hội nghề nghiệp, các công ty kiểm toán và chính bản thân các KTV.
Khách thể kiểm soát là công ty kiểm toán. Đối tượng kiểm soát là việc KTV và công
ty kiểm toán có tuân theo các chính sách và quy trình đặt ra đối với hoạt động kiểm
toán hay không. Do chất lượng hoạt động kiểm toán chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố khác nhau nên khi tiến hành kiểm soát, chủ thể kiểm soát phải đánh giá mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố đối với chất lượng hoạt động kiểm toán. Ảnh hưởng của
các nhân tố được các chủ thể kiểm soát nhìn nhận và đánh khác nhau sẽ dẫn đến cách
thức tiến hành kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán sẽ là hiệu quả hay không
hiệu quả.
1.3.2. Mục tiêu, phân loại và đặc điểm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Mục tiêu của kiểm soát chất lượng HĐKT trước hết và quan trọng nhất là đảm
bảo được mục tiêu kiểm toán. Do vậy, mục tiêu đầu tiên của kiểm soát chất lượng là
bảo đảm việc xác minh và bày tỏ ý kiến được tiến hành theo đúng các chuẩn mực và
quy tắc, và quy định của công ty, các kết luận kiểm toán đưa ra dựa trên những bằng
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
chứng đầy đủ và đáng tin cậy. Nói cách khác, KSCL hoạt động kiểm toán là biện
pháp nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro BCKT được phát hành không dựa trên những
chuẩn mực, quy tắc, quy định có hiệu lực.

Bên cạnh đó, với tư cách là một sản phẩm dịch vụ nên mục tiêu thứ hai của
kiểm soát chất lượng là bảo đảm dịch vụ cung cấp thỏa mãn được những nhu cầu của
khách hàng. Hoạt động kiểm soát phải nắm bắt được sự phản hồi từ phía khách hàng
về mức độ thỏa mãn đối với chất lượng dịch vụ nhận được, từ đó không ngừng nâng
cao chất lượng HĐKT.
Cuối cùng, KSCL hoạt động kiểm toán còn là một bộ phận trong hệ thống
KSNB của các công ty kiểm toán, nên nó đồng thời phải đảm bảo các mục tiêu về
hiệu năng quản lý.
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam có hai hình thức KSCL hoạt động kiểm
toán chính, bao gồm: KSCL từ bên trong và KSCL từ bên ngoài.
Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài: là quá trình kiểm soát chất lượng dịch vụ
kiểm toán mà công ty kiểm toán đã cung cấp cho khách hàng được thực hiện bởi các
tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp hoặc các cơ quan chức năng của Nhà nước. Kiểm soát
hoạt động kiểm toán từ bên ngoài đối với công ty kiểm toán sẽ làm tăng độ tin cậy
của chất lượng hoạt động kiểm toán. Sự cần thiết đối với hoạt động kiểm soát chất
lượng từ bên ngoài đã được Liên đoàn kế toán quốc tế khẳng định trong báo cáo về
chính sách của hội đồng như sau: “…quan trọng là tất cả các công ty hành nghề kế
toán mà cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ có liên quan phải đối mặt với khả
năng công việc của họ sẽ bị kiểm tra”.
Tùy thuộc vào từng quốc gia mà việc kiểm soát này do các tổ chức khác nhau
thực hiện: có thể là hội nghề nghiệp, ủy ban quốc gia về kiểm toán hay cơ quan chức
năng của Nhà nước nhưng có thể được tiến hành theo các hình thức chủ yếu như sau:
Kiểm tra bắt buộc đối với công ty kiểm toán: Quá trình này được thực hiện bởi
các cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
Kiểm soát chéo: Là sự kiểm tra được thực hiện giữa các công ty kiểm toán với
nhau. Việc chọn lựa các công ty thực hiện kiểm soát có thể do công ty bị kiểm soát
chỉ định hoặc các hiệp hội, cơ quan chức năng chỉ định.
Việc kiểm soát từ bên ngoài không chỉ nhằm phục vụ cho người bên ngoài mà

còn cho cả công ty kiểm toán, giúp công ty kiểm toán hoàn thiện quy trình kiểm toán,
giảm thiểu rủi ro trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Kiểm soát chất lượng từ bên trong, là các hệ thống các chính sách, thủ tục,
quy trình mà các công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện để có cam kết hợp lý
rằng mọi phần việc, mọi cuộc kiểm toán mà công ty đã thực hiện là đảm bảo tuân
theo các chuẩn mực quốc tế hay chuẩn mực và thông lệ quốc gia và những quy định
khác của bản thân doanh nghiệp. KSCL từ bên trong được thực hiện thường xuyên và
xuất phát từ yêu cầu của quản trị nội bộ.
Nội dung, thời gian và mức độ của các chính sách và thủ tục kiểm tra chất
lượng của một công ty kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Quy mô, tính chất
của loại hình hoạt động của công ty, địa bàn hoạt động, cơ cấu tổ chức và những tính
toán về hiệu quả kinh doanh của công ty. Vì vậy, những chính sách và thủ tục kiểm
soát chất lượng sẽ do từng công ty kiểm toán xây dựng cho phù hợp với điều kiện
công ty mình và chuẩn mực kiểm toán hiện hành.
Một quy trình KSCL đạt yêu cầu và hoạt động có hiệu quả cần phải đảm bảo
các yếu tố sau:
+Tập trung vào yếu tố con người, cụ thể là trình độ, năng lực và phẩm chất đạo
đức của các KTV. Bởi đối với lĩnh vực kiểm toán, lao động trí óc của KTV là yếu tố
cơ bản để tạo ra sản phẩm dịch vụ kiểm toán có chất lượng. Chính vì vậy, KSCL hoạt
động kiểm toán đòi hỏi phải bao trùm được yếu tố con người.
+Thiết kế các quy trình, thủ tục kiểm soát cần phải dựa trên sự tuân thủ các
chuẩn mực kế toán kiểm toán và các quy định pháp luật có hiệu lực khác. Cần phải
nhận thức đúng đắn rằng sự thỏa mãn như cầu của khách hàng phải đạt được trên cơ
sở các chuẩn mực chung.
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
+Xây dựng cơ chế kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện các chính sách, thủ tục
KSCL hoạt động kiểm toán của công ty.
1.3.3. Vai trò của kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Để tương xứng với vị trí của hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế thị trường,

vai trò của KSCL hoạt động kiểm toán cũng phải được nhìn nhận một cách thích
đáng. Đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với thông tin và chất lượng hoạt động kiểm
toán, tăng niềm tin của khách hàng, đồng thời nâng cao uy tín nghề nghiệp cho công
ty kiểm toán thì KSCL hoạt động kiểm toán ra đời là một vấn đề cấp bách và cần
thiết cho một nền kinh tế hội nhập. Thực tế cho thấy tại nhiều nước trên thế giới,
KSCL hoạt động kiểm toán đã được hình thành và trở thành hoạt động có tính chất tự
nguyện từ giữa những năm 1970 và trở thành hoạt động bắt buộc vào những năm
1980. Kiểm soát chất lượng HĐKT đóng vai trò quan trọng đối với đơn vị được kiểm
toán và bản thân công ty kiểm toán thể hiện ở những điểm sau:
+ Giúp nâng cao chất lượng của dịch vụ kiểm toán cung cấp cho khách hàng,
thỏa mãn nhu cầu sử dụng kết quả kiểm toán của các đối tượng quan tâm.
+ Giúp công chúng nhận thức tốt về chất lượng dịch vụ nghề nghiệp của các
công ty kiểm toán. Từ đó, họ có thể lựa chọn được các công ty kiểm toán có chất
lượng cao.
+ Góp phần vào việc tổ chức tốt công tác kiểm toán và hoàn thiện phương
pháp làm việc.
+ Đánh giá việc áp dụng các quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp
+ Thông qua hoạt động kiểm soát chất lượng HĐKT, các công ty kiểm toán sẽ
thấy được những khuyết điểm có thể gây tổn hại đến công việc và uy tín của mình.
Từ đó, đưa ra những giải pháp điều chỉnh, sửa chữa.
+ Thông báo cho các cấp nghề nghiệp biết về những vấn đề mà các công ty
kiểm toán đã gặp phải khi tiến hành các nghiệp vụ của họ và như vậy sẽ giúp các cấp
này đưa ra được những quyết định trên cơ sở ý thức được mọi vấn đề.
Tóm lại, KSCL kiểm toán đó là cách duy nhất và hữu hiệu nhất giúp các công
ty kiểm toán tồn tại và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay. Bài học từ
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
sự sụp đổ của Athur Andersen là minh chứng rõ nét nhất về sự cần thiết phải tạo lập
và thực hiện một quy trình KSCL hoạt động kiểm toán hiệu quả.
1.3.4. Quy trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán

Do những giới hạn về phạm vi và thời gian nghiên cứu, khóa luận chỉ dừng lại
ở sự giới thiệu sơ bộ hoạt động KSCL từ bên ngoài như trên mà tập trung đi sâu vào
vào nghiên cứu nội dung quy trình, phương pháp KSCL hoạt động kiểm toán do bản
thân các công ty kiểm toán thực hiện làm cơ sở cho việc tìm hiểu thực tiễn KSCL
hoạt động kiểm toán do Công ty TNHH Deloitte Việt Nam thực hiện được trình bày
ở chương 2.
KSCL từ bên trong bao gồm hai quy trình là kiểm soát chất lượng cho toàn bộ
hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng cho từng cuộc kiểm toán cụ thể.
Đối với toàn bộ hoạt động kiểm toán của công ty
Kiểm soát chất lượng HĐKT cho toàn bộ công ty kiểm toán thường tập trung
vào các nội dung: Công tác tuyển dụng và đào tạo nhân viên; quy trình kỹ thuật kiểm
toán; hoạt động kiểm tra tính tuân thủ chẩn mực nghề nghiệp; trang thiết bị phục vụ
cho hoạt động kiểm toán và đánh giá lựa chọn khách hàng. Đây là những nội dung
được thực hiện thường xuyên, song song với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
công ty kiểm toán.
Bên canh đó, một số nội k\dung kiểm soát sẽ được áp dụng trong một số thời
điểm nhất định như là một sự kiểm tra đối với việc tuân thủ hoạt động này. Ví dụ
kiểm tra chất lượng toàn bộ hoạt động kiểm toán của công ty thực hiện sau mỗi mùa
kiểm toán hoặc theo sự chỉ định đặc biệt của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Khi có quyết định tiến hành kiểm tra, một nhóm kiểm tra viên được thành lập và tiến
hành chọn mẫu các hồ sơ kiểm toán để tiến hành soát xét lại. Nhóm kiểm tra viên này
có thể bao gồm các nhân viên trong công ty, chi nhánh hay những chuyên gia từ các
cơ quan chức năng.
Quy trình kiểm tra này bao gồm các bước: Chuẩn bị kiểm ta, thực hiện kiểm
tra và giám sát sau kiểm tra
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
Chuẩn bị kiểm tra: Trong bước này, chủ thể kiểm tra sẽ tiến hành chọn lựa các
thành viên của nhóm kiểm tra. Các thành viên được lựa chọn phải thỏa mãn những
yêu cầu về trình độ, năng lực, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Sau khi đội ngũ

kiểm tra viên được lựa chọn, chương trình kiểm tra sẽ được thiết lập. Chương trình
này bao gồm cách thức chọn ra một số hồ sơ kiểm toán để kiểm tra và nội dung của
từng công việc cụ thể, thời gian thực hiện gắn với trách nhiệm của từng thành viên
khi thực hiện kiểm tra hồ sơ kiểm toán.
Thực hiện kiểm tra: Bước này được chia thành hai bước nhỏ liên tiếp là kiểm
tra cơ cấu và kiểm tra kỹ thuật. Sau khi kết thúc kiểm tra kỹ thuật, nhóm kiểm tra
viên phải lập báo cáo về chất lượng HĐKT. Báo cáo kiểm tra ngoài những đánh giá
về chất lượng HĐKT còn có thể bao gồm những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
kiểm toán.
Giám sát sau kiểm tra: Bước này nhằm mục tiêu theo dõi việc thực hiện các
kiến nghị và sự tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp của công ty kiểm toán sau khi
kết thúc kiểm tra.
Đối với một cuộc kiểm toán cụ thể
Quy trình kiểm tra chất lượng cho một cuộc kiểm toán cụ thể bao gồm kiểm
tra chất lượng trước cuộc kiểm toán, kiểm tra chất lượng trong quá trình kiểm toán và
kiểm tra chất lượng sau cuộc kiểm toán. Kiểm tra chất lượng cho từng cuộc kiểm
toán không thuộc trách nhiệm của một nhóm kiểm tra viên cụ thể mà được tiến hành
bởi tất cả các thành viên trong nhóm kiểm toán và các thành viên của BGĐ chịu trách
nhiệm đến chất lượng HĐKT. Việc tra xét theo trình tự của cuộc kiểm toán giúp cho
quá trình kiểm tra được chặt chẽ, kịp thời để có biện pháp nâng cao chất lượng của
cuộc kiểm toán.
- Kiểm soát chất lượng trước cuộc kiểm toán
Trong giai đoạn này hoạt động kiểm soát phải đảm bảo cuộc kiểm toán tuân thủ
các quy định về đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Nếu hợp đồng được
chấp nhận và ký kết thì công ty có trách nhiệm chuẩn bị các yếu tố cần thiết cho cuộc
kiểm toán cả về các điều kiện vật chất kỹ thuật và nhân sự nhóm kiểm toán.
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
- Kiểm soát chất lượng trong quá trình kiểm toán
Đây là một hoạt động kiểm soát nội bộ và tùy từng công ty kiểm toán khác nhau

sẽ có những quy định cụ thể khác nhau. Thủ tục soát xét đầu tiên trong giai đoạn này
là soát xét kế hoạch kiểm toán. Việc soát xét kế hoạch kiểm toán phải đảm bảo rằng:
+ Kế hoạch kiểm toán được xây dựng một cách phù hợp có tính đến các sự
kiện xảy ra sau ngày lập kế hoạch kiểm toán.
+ Trình tự kiểm toán được xác định bởi BGĐ và nhóm kiểm toán đã được tập
hợp đầy đủ trong kế hoạch kiểm toán.
+ Các phương pháp được đề xuất trong kế hoạch kiểm toán là phù hợp với
chuẩn mực kiểm toán và phù hợp với mục tiêu hiệu năng, hiệu quả.
+ Những lưu ý của BGĐ trong việc xác định vấn đề cần phải được giải quyết
trước khi bắt đầu tiến hành kiểm toán hoặc phải được giải quyết bởi BGĐ trong suốt
quá trình kiểm toán.
Sau khi kiểm soát về lập kế hoạch, thủ tục kiểm soát tiếp theo và cơ bản nhất
của giai đoạn này là soát xét lại giấy tờ làm việc của các trợ lý KTV và KTV do các
KTV cấp cao hơn thực hiện. Công việc này được thực hiện xuyên suốt cuộc kiểm
toán nhằm đảm bảo kế hoạch kiểm toán được lập và tuân thủ thực hiện bởi các KTV
một cách nghiêm túc, các thủ tục kiểm toán được thực hiện là thích hợp, các giấy tờ
làm việc và các bằng chứng thu được là khoa học, đầy đủ và thuyết phục để làm cơ
sở cho việc ra kết luận kiểm toán. Soát xét kết quả của các thủ tục kiểm toán nhằm
đảm bảo:
+ Cuộc kiểm toán được thực hiện trong sự phù hợp với chuẩn mực kiểm toán
và các quy định khác và phù hợp với kế hoạch kiểm toán đã được lập.
+ Mục tiêu của các thủ tục kiểm toán đã đạt được.
+ Kết luận của cuộc kiểm toán là phù hợp với công việc đã được thực hiện.
Thủ tục kiểm soát sau khi tiến hành soát xét các thủ tục kiểm toán là soát xét
BCTC. Việc soát xét BCTC giúp các KTV đảm bảo rằng:
+ Số liệu được trình bày trên BCTC là phù hợp với giấy tờ làm việc của KTV
và phù hợp với sổ sách kế toán của khách hàng.
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
+ BCTC phù hợp với các thông tin khác đính kèm và phù hợp với sự hiểu biết

về hoạt động kinh doanh của khách hàng.
+ BCTC được lập phù hợp với Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán, Chế độ và
các quy định tài chính khác của doanh nghiệp.
Thủ tục kiểm soát cuối cùng trong quá trình kiểm toán là soát xét ý kiến kiểm
toán:
+ Ý kiến kiểm toán đưa ra rõ ràng và phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán có
liên quan.
+ Bản ghi nhớ tổng hợp tất cả các quyết định đặc biệt được đưa ra trong suốt
quá trình kiểm toán.
Công việc kiểm soát trên là soát xét chi tiết do trưởng nhóm kiểm toán và các
KTV thực hiện. Sau đó, soát xét tổng thể sẽ được tiến hành bởi thành viên BGĐ thực
hiện và không thể ủy thác cho trưởng nhóm kiểm toán hoặc bất cứ một thành viên
nào của nhóm kiểm toán.Trong giai đoạn soát xét tổng hợp, việc soát xét tập trung
vào các vấn đề sau: BCTC; những ghi chú của các sự kiện đặc biệt hoặc các vấn đề
nảy sinh được ghi chép trong bảng tổng hợp và các bằng chứng để chứng minh việc
soát xét chi tiết đã được hoàn thành; các bằng chứng kiểm toán của các phần hành có
rủi ro cao, tính phù hợp của các cơ sở dẫn liệu hiện có; bảng tổng hợp các sự kiện
được soát xét; tất cả các giấy tờ làm việc được thực hiện bởi chủ nhiệm kiểm toán; ý
kiến kiểm toán, các thông tin phát hành kèm theo BCKT.
- Kiểm soát chất lượng sau cuộc kiểm toán
Thủ tục này chủ yếu được thực hiện thông qua việc đánh giá sự hài lòng của
khách hàng và tiến hành kiểm soát chéo giữa các nhóm kiểm toán.
Việc thực hiện đánh giá sự hài lòng của khách hàng diễn ra ngay sau khi cuộc
kiểm toán kết thúc hoặc được tiến hành đồng thời với tất cả các khách hàng sau mùa
kiểm toán. Mục đích của công việc này là thu thập các phản hồi từ phía khách hàng,
đánh giá sự hiểu biết của công ty kiểm toán về những nhu cầu của khách hàng và
mức độ đáp ứng những mong đợi đó. Từ đó, công ty kiểm toán đề ra những biện
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
pháp để nâng cao chất lượng phục vụ, duy trì các khách hàng thường xuyên và phát

triển các khách hàng mới.
Kiểm soát chéo được thực hiện giữa các nhóm kiểm toán hay giữa các chi
nhánh trong cùng một công ty. Công tác kiểm soát này nhằm cung cấp một cái nhìn
độc lập về chất lượng cuộc kiểm toán đã thực hiện, từ đó rút ra những kinh nghiệm
cho các cuộc kiểm toán sau.
1.3.5. Kinh nghiệm của các nước về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Giữa các thông lệ và chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam quy định cho
kiểm soát chất lượng HĐKT tuy có những điểm khác nhau nhưng thống nhất với
nhau về những nguyên tắc kiểm soát chất lượng sau:
- Nguyên tắc đồng nghiệp: Việc KSCL hoạt động kiểm toán do chính các nhà
chuyên nghiệp thực hiện. Theo đó, mục đích đầu tiên của kiểm soát là giúp các nhà
chuyên nghiệp hoàn thiện hơn chất lượng công việc của họ.
- Nguyên tắc toàn thể: Tất cả các nhà chuyên nghiệp được các tổ chức nghề
nghiệp thừa nhận, trong đó có công ty kế toán kiểm toán đều phải kiểm soát chất
lượng.
- Nguyên tắc phù hợp: Việc KSCL hoạt động kiểm toán phải phù hợp với bản
chất của chương trình mà đơn vị thực hiện và tầm cỡ của đơn vị.
- Nguyên tắc điều hoà: Việc kiểm soát chất lượng kết hợp sẽ được áp dụng đối
với các đơn vị, đồng thời phải chịu sự kiểm soát chất lượng của tổ chức Hiệp hội kế
toán và công ty kiểm toán.
- Nguyên tắc bí mật: KTV phải tuyệt đối giữ bí mật nghề nghiệp. Khi kiểm
soát kết thúc phải chuyển cho hội đồng có thẩm quyền toàn bộ tài liệu liên quan đến
đơn vị bị kiểm soát. Hội đồng này phải đảm bảo bí mật tuyệt đối cho các thông tin
mà họ nắm giữ.
Ở phần lớn các nước có nền kinh tế phát triển, các cơ quan chức năng Nhà
nước không trực tiếp quản lý hoạt động kiểm toán của các tổ chức kiểm toán độc lập
mà giao cho Hiệp hội nghề nghiệp đảm trách nhiệm vụ này.
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A
Khóa luận tốt nghiệp
Tại Hoa Kỳ, các chuẩn mực kiểm toán do Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán thuộc

Viện kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (American Institute of Certified Public
Accountant - AICPA) ban hành. AICPA đã ban hành chuẩn mực kiểm toán số 25
(SAS 25, AU 161) yêu cầu mỗi công ty kiểm toán phải xây dựng các chính sách và
quy trình kiểm soát chất lượng riêng cho mình tùy theo quy mô và bản chất dịch vụ
của công ty.
Tại Anh và Ireland, các tổ chức kiểm toán phải thực hiện chương trình kiểm
soát tuân thủ kiểm toán hàng năm. Việc kiểm soát này nhằm mục đích đảm bảo các tổ
chức kiểm toán đã tuân thủ các văn bản chỉ đạo kiểm toán của Viện KTV chuyên
nghiệp Anh và xứ Wales.
Tại Trung Quốc, hệ thống kiểm soát chéo đã được áp dụng và thực thi. Các
công ty phải được kiểm soát ít nhất mỗi năm một lần. Công ty kiểm soát được lựa
chọn do công ty bị kiểm soát chỉ định hoặc do Viện kế toán viên công chứng Trung
Quốc gửi đến một đội ngũ kiểm soát.
Tại Việt Nam, trước kia Bộ tài chính đảm nhận việc kiếm soát chất lượng
kiểm toán. Điều này gây ra nhiều hạn chế đối với công tác kiểm soát chất lượng do
thiếu tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa. Tuy nhiên hiện nay, công tác kiểm soát
chất lượng đã giao cho Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện nên hứa hẹn công tác kiểm
soát chất lượng HĐKT sẽ có nhiều ý nghĩa hơn.
Về mặt chính sách, ngày 14/3/2003, Chuẩn mực kiểm toánViệt Nam số 220 về
Kiểm soát chất lượng HĐKT (Phụ lục) đã ra đời. Nhà nước đã có quy định về kiểm
soát chất lượng HĐKT để các công ty kiểm toán nghiên cứu và xây dựng quy trình
kiểm soát chất lượng cho mình để phù hợp với điều kiện của từng công ty. Hàng
năm, Bộ tài chính thông báo cho các công ty kiểm toán để kiểm soát chất lượng định
kỳ. Tuy nhiên, việc kiểm soát chỉ ở mức sơ bộ, chưa khái quát được hết chất lượng
HĐKT. Đồng thời, kết quả kiểm soát vẫn chưa được sử dụng hiệu quả để nâng cao
chất lượng dịch vụ cung cấp.
Trần Thị Thu Trang Kiểm toán 47A

×