Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Tham luận những vấn đề đặt ra trong quá trình triển khai thực hiện nghị quyết 22NQ TU và giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.39 KB, 4 trang )

THAM LUẬNCỦA PHÒNG NÔNG NGHIỆP & PTNT
VỀ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NỘI DUNG HỖ TRỢ MỖI XÃ 2
TỶ ĐỒNG ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP
(Nghị quyết số 22 - NQ/TU ngày 11/11/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
về giảm nghèo bền vững huyện Si Ma Cai đến năm 2020)
––––––––––––––––––
Si Ma Cai được tái lập theo Nghị định số 36/200/NĐ-CP, ngày 18/8/2000
về việc điều chỉnh ranh giới huyện Bắc Hà để tái lập huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào
Cai – là huyện nghèo nhất của tỉnh Lào Cai và là một trong 62 huyện nghèo nhất
cả nước. Để phát triển huyện Si Ma Cai bền vững, tiến kịp các huyện khác trong
tỉnh, Tỉnh ủy Lào Cai đã ban hành Nghị quyết số 22 - NQ/TU ngày 11/11/2014
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giảm nghèo bền vững huyện Si Ma Cai đến năm
2020.
Thưa các đồng chí!
Qua gần 3 năm tổ chức thực hiện nghị quyết, bộ mặt nông thôn huyện nhà
đã có bước phát triển vượt bậc (về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ...), đang
được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và các cấp, các ngành tin tưởng huyện sẽ
giảm nghèo bền vững và theo kịp các huyện bạn (đến năm 2020). Trên lĩnh vực
nông lâm nghiệp và xây dựng nông thôn mới đã đạt được một số kết quả, cụ thể
như sau:
Nghị quyết 22 của Tỉnh ủy Lào Cai là một động lực thúc đẩy kinh tế- xã hội,
củng cố hệ thống chính trị cho huyện Si Ma Cai đến năm 2020. Tạo ra những bước
đột phá để huyện Si Ma Cai xóa đói, giảm nghèo bền vững. Trong gần 3 năm thực
hiện Nghị quyết, kinh tế- xã hội của huyện đã có những chuyển biến rõ nét, như:
Tỷ lệ giảm nghèo đạt và cao hơn mục tiêu Nghị quyết đề ra; năm 2016 tỷ lệ giảm
cao hơn mục tiêu Nghị quyết đề ra 4,55%. (Mục tiêu nghị quyết mỗi năm giảm 710%); Thu nhập bình quân đầu người có tính đột phá cao, năm 2013 mới có 9,6
triệu đồng/người/năm đến năm 2016 thu nhập bình quân/người/năm đạt 19,57
triệu đồng, đạt 98,76% so với MTNQ là 20 triệu đông/người/năm. Đây là chỉ
tiêu tổng hợp quan trọng và huyện đã thực hiện tốt chỉ tiêu này; Đã có 1 xã đạt
chuẩn nông thôn mới, dự kiến đến năm 2020 sẽ đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra,
có 4 xã đạt chuẩn nông thôn mới; Việc sáp nhập trung tâm dậy nghề và trung


tâm giáo dục thường xuyên đã được thực hiện theo đúng lộ trình;
Riêng sản xuất nông lâm nghiệp: Bước đầu đã chuyển đổi cơ cấu nội
ngành nông nghiệp từ trồng trọt cho giá trị thấp sang chăn nuôi hàng hóa cho giá
trị kinh tế cao hơn, tập quán chăn nuôi gia súc của người dân đang từng bước
chuyển từ thả rông sang nuôi nhốt; trong trồng trọt huyện đã định hướng và
được sự đồng thuận cao của người dân về phát triển cây ăn quả ôn đới bản địa,
đưa một số cây dược liệu vào địa bàn như: tam thất, đương quy, ý dĩ, sa nhân tím
...; phát triển cây cỏ VA 06 phục vụ chăn nuôi cho giá trị kinh tế cao; cải thiện vệ
sinh môi trường chăn nuôi như: xây dựng hố ủ phân, chuồng nuôi nhốt gia súc ...
Cụ thể:

1


- Dự án chăn nuôi đã được thực hiện trên địa bàn 13/13 xã.
+ Năm 2015: Tổng số đàn trâu, bò, cái thực hiện là 532 con/181 hộ/2 xã
(trâu 477 con, bò 55 con), xã Bản Mế 309 con trâu, bò cho 98 hộ và 01 doanh
nghiệp (trâu 251 con, bò 55 con), xã Sín Chéng 223 con trâu cho 83 hộ; giải ngân
vốn vay cho các hộ tham gia Dự án 15.644,5 triệu đồng.
+ Năm 2016: Tính đến thời điểm 31/12/2016 đã có 153 hộ/13 xã đi mua
giống tổng số con giống mua 991 con (xã Mản Thẩn 100 con/40 hộ; xã Nàn Sán
52 con/17 hộ; xã Lùng Sui 18 con/7 hộ; xã Cán Hồ 28 con/12 hộ; xã Thào Chư
Phìn 14 con/5 hộ; xã Si Ma Cai 4 con/02 hộ) đạt 22,3 % so với kế hoạch.
- Dự án ngân hàng bò:
+ Năm 2016: Kế hoạch được thực hiện 13/13 xã với tổng số lượng gia súc
nhập về 1.187 con/569 hộ tham gia trong đó: 1.138 con bò cái và 49 con bò đực
giống; mỗi hộ được vay 02 con bò cái giống trọng lượng tối thiểu 150 kg/con
(chủ yếu là các giống bò lai); Có 49 hộ nuôi 03 con (01 bò đực giống và 02 bò
cái), hộ nuôi bò đực giống được miễn giảm không phải trả 01 bò giống như các
hộ khác.

+ Năm 2017: thực hiện ngân hàng bò tại 13/13 xã 667 hộ tham gia tổng số
lượng bò cái giống là 1.334 con. Tiến độ thực hiện tính đến 31/7/2017 đã bàn
giao 1.194 con bò giống cho 597 hộ dân đạt 89,5% so với kế hoạch được phê
duyệt.
- Chuồng trại chăn nuôi: Tổng số chuồng kiên cố phục vụ chăn nuôi trên
toàn huyện (đủ 3 cứng; nền cứng, tường cứng, mái cứng) đảm bảo chống rét địa
bàn huyện Si Ma Cai tính đến nay là 3.407 chuồng nuôi nhốt, số chuồng làm
mới năm 2015 là 2.387 chuồng thực hiện 13/13 xã, với tổng số vốn đầu tư 4.774
triệu đồng (nguồn vốn thực hiện Nghị quyết 22).
- Công tác vệ sinh môi trường: Tổng số hố ủ phân đảm bảo chăn nuôi
nông hộ tính đến nay là 3.107 nhà ủ phân làm mới năm 2015 thực hiện tại 13/13
xã, với tổng số vốn đầu tư 9.321 triệu đồng (nguồn vốn thực hiện Nghị quyết
22).
- Phát triển cây thức ăn: tính đến tháng 6/2017 có trên 707,9 ha cỏ (diện
tích trồng cỏ năm 2015 là 470 ha, diện tích cỏ trồng thêm đến tháng 06/2017 là
237,9 ha) đáp ứng được khoảng 51% nhu cầu chất ăn thô xanh cho đại gia suc
trên địa bàn huyện, diện tích trồng mới năm 2015 là 254 ha cỏ đạt 25,7% so với
mục tiêu dự án thực hiện 13/13 xã, với tổng số vốn đầu tư 6.356 triệu đồng
(nguồn vốn 30a: 200 triệu đồng; nguồn vốn thực hiện Nghị quyết 22: 6.356 triệu
đồng).
- Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi: đã triển khai 143 lớp tập huấn kỹ thuật
chăn nuôi, thú y, phát triển cây thức ăn … (phục vụ dự án chăn nuôi, ngân hàng
bò) cho 5.720 lượt người tham gia, đã làm thay đổi nhận thức của người dân về
chăn nuôi gia súc (chăn nuôi hàng hóa)
Đối với xây dựng nông thôn mới: Tổng số tiêu chí hoàn thành trên địa bàn
huyện là 137 tiêu chí/247 tiêu chí, đạt 55,06%, trung bình 10,5 tiêu chí/xã, đạt
87,18% KH tỉnh giao, tăng 17 tiêu chí so với năm. Hiện trên địa bàn có 01 xã

2



Mản Thẩn theo đánh giá của Ban chỉ đạo huyện đã hoàn thành 19/19 tiêu chí,
hiện đang trình Ban chỉ đạo XDNTM tỉnh đánh giá, công nhận.
Thưa các đồng chí!
Bên cạnh các kết quả đạt được còn một số khó khăn, tồn tại đó là:
- Giá trị sản xuất trên ha canh tác tăng chậm (mới đạt 28 triệu đồng/ha), việc
chuyển đổi cây trồng chậm, thu nhập thấp, giá cả nông sản không ổn định (ngô hàng
hóa); tỷ lệ che phủ rừng còn thấp.
- Dự án đầu tư phát triển chăn nuôi giai đoạn 2015 – 2020, mới đạt
14,25% so với Kế hoạch được duyệt. Nguyên nhân: nhân dân muốn vay tiền tự
mua gia súc tại các chợ trên địa bàn huyện; tiến độ làm chuồng trại, trồng cỏ
chậm nên chưa được tham gia mua gia súc; một số hộ muốn phát triển chăn nuôi
nhưng đã vay ngân hàng nên không được tham gia ... Việc sử dụng nguồn vốn 2
tỷ/ xã/ năm còn nhiều lúng túng, một số xã giải ngân còn chậm.
- Môi trường nông thôn, đặc biệt ở các thôn bản trong thời gian qua tuy có
một phần chuyển biến nhưng vẫn còn nhiều tồn tại cần phải tập trung giải quyết.
- Một số tồn tại hạn chế trong lĩnh vực nông lâm nghiệp:
+ Số lượng trâu, bò thực hiện dự án vẫn còn chết do các nguyên nhân
(chết rét, lăn dốc, bệnh ...) còn cao: Dự án chăn nuôi chết 32 con; Kế hoạch thực
hiện ngân hàng bò chết 61 con.
+ Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi của người dân
còn hạn chế, công tác dịch vụ phục vụ chăn nuôi chưa đồng bộ và còn mang
nặng tính bao cấp (chọn giống, thụ tinh nhân tạo ...); Chưa xây dựng được cơ sở
giết mổ tập trung.
+ Công tác phòng trừ dịch bệnh, ý thức tiêm phòng và vệ sinh thú y chưa
thực sự được người dân quan tâm đúng mức nên tỷ lệ tiêm phòng hàng năm
chưa cao.
+ Do tập quán chăn nuôi của người dân còn thấp dẫn đến vấn đề vệ sinh
môi trường trong chăn nuôi gây ô nhiễm môi trường.
+ Việc quản lý đàn gia súc giống nhập vào huyện (giai đoạn đầu) chưa

được thực hiện nghiêm túc, thủ tục của một số doanh nghiệp còn thiếu, công tác
kiểm dịch còn hạn chế.
Kính thưa các đồng chí,
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết 22 có hiệu quả, nhiệm vụ trọng tâm
trong thời gian tới là:
- Tiếp tục bám sát các mục tiêu của Nghị quyết, từ đó xây dựng từng
chương trình, kế hoạch cụ thể cho từng chỉ tiêu, đảm bảo đến năm 2020 thực
hiện đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
- Tiếp tục làm tốt công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là cấp xã.

3


- Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ và nhân dân,
đặc biệt là các hộ nghèo, từ đó làm thay đổi dần nhận thức của người dân trong
việc tránh trông chờ ỷ lại vào nhà nước mà tự mình vươn lên làm giàu.
- Tiếp tục chuyển đổi mạnh nội ngành cơ cấu nông nghiệp, cơ cấu cây
trồng theo hướng hàng hóa, có liên kết thị trường. Nghiên cứu chuyển đổi các
cây trồng có giá trị kinh tế cao, nâng cao hệ số sử dụng đất, nhằm nâng cao giá
trị canh tác trên một đơn vị sử dụng đất.
- Nghiên cứu xem xét đề xuất với tỉnh nội dung sử dụng nguồn vốn 2
tỷ/xã/năm từ năm 2018 trở đi đảm bảo hiệu phát huy được hiệu quả cao.
- Xem xét, đánh giá riêng dự án chăn nuôi, hiệu quả thực hiện dự án,
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện từ đó đưa ra những giải
pháp và mục tiêu khả thi và hiệu quả hơn. Nâng cấp, mở rộng chợ Cán Cấu đáp
ứng nhu cầu mua bán, tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân.
- Đề ra các giải pháp để tạo công ăn việc làm cho người lao động; xây
dựng kế hoạch và giải pháp nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo.
- Tập trung chỉ đạo công tác kế hoạch hóa dân số và gia đình, trong đó

trọng tâm là hạn chế tình trạng tảo hôn và sinh con thứ 3.
Kính thưa các đồng chí,
Nghị quyết 22 đã góp phần xóa đói, giảm nghèo hiệu quả cho huyện, tuy
nhiên, trong thời gian tới đề nghị các cấp các ngành giúp huyện như sau:
- Đề nghị tỉnh xem xét đầu tư xây dựng trạm truyền tinh nhân tạo cho gia
súc để đáp ứng nhu cầu phát triển chăn nuôi của huyện.
- Sớm triển khai dự án hỗ trợ thiết bị thu vệ tinh vinasat cho 3.900 hộ
theo Nghị quyết, hỗ trợ máy thu hình cho các hộ gia đình thuộc hộ nghèo, diện
chính sách của huyện.
- Đề nghị tỉnh sớm có văn bản quy định và hướng dẫn việc tuyển dụng
thêm mỗi xã một cán bộ có trình độ đại học chính quy chuyên ngành nông
nghiệp thực hiện các nhiệm vụ khuyến nông, khuyến lâm, thú y; theo kế hoạch
của UBND tỉnh.
- Đối với công tác đào tạo nghề để đạt mục tiêu Nghị quyết đề nghị tỉnh
cấp kinh phí từ 2 - 2,4 tỷ/năm để đạt mục tiêu Nghị quyết 37% vào năm 2020
Trên đây là báo cáo tham luận của Phòng Nông nghiệp & PTNT về kết
quả thực hiện Nghị quyết số 22 - NQ/TU ngày 11/11/2014 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về giảm nghèo bền vững huyện Si Ma Cai đến năm 2020./.

4



×