Tải bản đầy đủ (.pptx) (29 trang)

Thuyết trình tỷ giá và chiến lược vốn FDI của các công ty đa quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 29 trang )

Bài nghiên cứu số 3:

Tỷ giá và chiến lược vốn FDI của các công ty
đa quốc gia

GVHD: TS Nguyễn Hữu Tuấn
Nhóm 10:
Lương Nguyễn Nhựt Kim
Nguyễn Hoàng Nam
Nguyễn Thị Ngọc Vân






TÓM TẮT NỘI DUNG

1. Tác giả của bài nghiên cứu
2. Nội dung chính của bài nghiên cứu
3. Những nghiên cứu đi trước
4. Điểm khác biệt giữa nghiên cứu này sao với các nghiên cứu trước
5. Phương pháp và mô hình nghiên cứu
6. Dữ liệu nghiên cứu và chỉ tiêu đo lường các biến quan sát
7. Các kết quả nghiên cứu
8. Kết luận


1.Tác giả bài nghiên cứu

 Lee Bong Soo (Khoa Tài chính, Cao đẳng Kinh doanh, Đại học bang Florida). Các nghiên cứa của ông


tập trung vào: Kinh tế tài chính, Kinh tế vĩ mô, Tài chính quốc tế (Đông Á).

 Min Seong Byung (Trường kinh doanh Griffith, Khoa Kinh doanh Quốc tế và Nghiên cứu Châu Á, Đại
học Griffith). Các nghiên cứu của ông tập trung vào: Kinh doanh ở Châu Á, Nhóm kinh doanh gia đình,
Tài chính doanh nghiệp, Thương mại và Đầu tư, Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội.


2.Nội dung nghiên cứu

Kiểm tra vai trò của tỷ giá và sự bất ổn của tỷ giá trong quyết
định đầu tư FDI (sử dụng dữ liệu FDI của Hàn quốc)


3.Những nghiên cứu trước đây



Blonigen (1997) nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về dòng FDI cho thấy có mối quan hệ giữa sự bất ổn tỷ giá và
FDI.



Froot và Stein (1991), Kogut và Chang (1996) và Blonigen (1997) phân tích FDI của Nhật Bản ở Mỹ trong những
năm 80. Froot và Stein (1991) và Blonigen (1997) phân tích vai trò của tỷ giá thật, sử dụng dữ liệu tổng hợp ( Froot
và Stein ), trong khi các tác giả sau sử dụng dữ liệu ngành. Kogut và Chang (1996) phân tích đầu tư của các công ty
điện tử Nhật Bản vào Mỹ.



Caves (1989), Swenson (1994) và Klein và các đồng nghiệp (1994) ủng hộ giả thuyết các dòng FDI được tạo ra bởi sự

mất giá của đồng tiền trong nền kinh tế chính, trong khi các nghiên cứu của Ray (1989) và Healy và Palepu (1993)
không ủng hộ cho giả thuyết này.


3.Những nghiên cứu trước đây



Cushman (1985, 1988), Goldberg và Kolstad (1995) và Zhang (2004) ủng hộ lý thuyết sự bất ổn tỷ giá kích thích FDI
của Mỹ ở nước ngoài. Ngược lại, Galgau và Sekkat (2004) cho rằng sự bất ổn tỷ giá của châu Âu có tác động cản trở
FDI.



Các nghiên cứu hiện tại vốn FDI của Hàn quốc tập trung vào các yếu tố quyết định truyền thống như thương mại
(Min, 2006; Lee, 1994) và các cuộc đình công liên quan đến tiền lương (Tcha, 1998). Aguiar và Gopinath (2005) và
Pulvino (1998) phân tích dòng FDI ở các quốc gia châu Á sau cuộc khủng hoảng nhưng tập trung chủ yếu vào hiệu
ứng của các vụ thâu tóm mà không xem xét bất ổn của tỷ giá.


4. Điểm khác biệt giữa nghiên cứu này sao
với các nghiên cứu trước


Thứ nhất


Sự bất ổn tỷ giá tìm hiểu trong bài nghiên cứu này không phải được gây ra trực tiếp bởi các chính sách hay các rào cản
thương mại.




Hầu hết các nghiên cứu hiện nay giả định rằng tỷ giá đóng vai trò là cung tiền giữa các nước đầu tư và được đầu tư. Giả
định này cho phép các nhà nghiên cứu tìm hiểu về các hiệu ứng thứ cấp bao gồm các nhu cầu được tạo ra từ sự thay đổi
trong cung tiền, ngược lại sự đột phá trong bài nghiên cứu này chủ yếu là từ niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài sau
cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á.



Bài nghiên cứu tập trung vào tác động sơ cấp hơn là hiệu ứng thứ cấp (nhu cầu tiêu dùng) và không có sự thiên vị liên
quan đến ước lượng biến nội sinh.


Thứ hai

Các nghiên cứu hiện nay liên quan giữa tỷ giá và FDI chủ yếu là ở Mỹ. Bài nghiên cứu của tác giả kiểm định các vấn
đề của nền kinh tế nhỏ. Các nghiên cứu lý thuyết về FDI ở các nền kinh tế mới nổi dường như tập trung vào sự hội
nhập dựa vào cơ chế quốc tế hóa hay là tác động của FDI lên nền kinh tế của quốc gia đi đầu tư (e.g., Braconier et
al., 2005; Enright, 2009; Aybar and Aysun, 2009).


Thứ ba


Tác giả kiểm tra tác động của sự bất ổn tỷ giá lên quyết định đầu tư của các công ty đa quốc gia bằng cách so
sánh giữa 2 mẫu phụ: trước khủng hoảng tài chính (hệ thống tỷ giá cố định) và sau khủng hoảng tài chính (hệ
thống tỷ giá thả nổi).




Tác giả sử dụng 2 mô hình thực nghiệm để xác định sự thay đổi mang tính cấu trúc: một mô hình 2 nhóm dữ liệu
và một mô hình có biến giả biến khủng hoảng.




Tác giả sử dụng 2 cách đo lường FDI: giá trị FDI và tỷ trọng FDI trong GDP.
Đối với sự bất ổn tỷ giá, tác giả sử dụng dữ liệu đã được quan sát (thay đổi độ lệch chuẩn trung bình) và dự đoán
dựa vào mô hình GARCH.


5. Phương pháp và mô hình nghiên
cứu


Tác giả sử dụng một mô hình dữ liệu bảng bao gồm các ảnh hưởng không quan sát được (Chamberlain, 1984;
Wooldridge, 2002) cho phân tích của họ:

Trong đó:
i là đất nước đi đầu tư
t là thời gian
x'it biểu thị một vector các biến độc lập được quan sát thấy theo thời gian
EXRATE là biến đại diện cho yếu tố tỷ giá bao gồm biến bất ổn tỷ giá và biến tỷ giá
εit biểu thị một sai số thời gian khác không thay đổi theo thời gian.


Tác giả muốn kiểm định sự thay đổi trong đầu tư của các công ty đa quốc gia ở Hàn Quốc trước và
sau khủng hoảng 1997, tác giả mở rộng mô hình 1 bằng 2 cách. Trước hết tác giả ước tính mô hình
1 với 2 nhóm khác nhau (khoảng thời gian):



Tác giả ước lượng mô hình (3) với biến giả biến khủng hoảng. Ưu điểm của mô hình này là nó có thể tìm ra được
FDI bị ảnh hưởng như thế nào bởi kênh tỷ giá EXRATE, mức ý nghĩa thống kê của hệ số biến tương tác δ ngụ ý
ảnh hưởng của tỷ giá đến FDI thông qua cuộc khủng hoảng. Ngược lại λ cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của khủng
hoảng đối với FDI6. Một ưu điểm khác của mô hình thứ 3 là chúng ta có thể tìm ra thời gian kéo dài của khủng
hoảng ảnh hưởng đến FDI thông qua các biến giả Dcrisis.


6. Dữ liệu nghiên cứu và chỉ tiêu đo lường
các biến quan sát


Dữ liệu bao gồm 8 nguồn FDI chủ yếu của Hàn quốc từ 3 vùng lãnh thổ của Thế giới: Mỹ, Canada ở Bắc Mỹ, Nhật Bản và
Singapore ở Châu Á, và Đức, Vương quốc Anh, Pháp và Thụy Sỹ ở châu Âu. Phần đóng góp trung bình của 8 nước trong tổng
FDI vào Hàn quốc vào khoảng 76%. Hình số 1 cho thấy, đầu tư của Mỹ và Nhật dẫn đầu FDI mặc dù phần FDI của Nhật đã
suy giảm từ giữa những năm 1980, trong khi đầu tư của Mỹ dao động khoảng 32%.

Hình 1: Đồ thị thể hiện sự chia sẻ của 8 quốc gia nguồn FDI lớn (tổng cộng) và Mỹ và Nhật Bản về FDI trong dòng chảy vào Hàn Quốc. Big 8 bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Nhật
Bản, Singapore, Đức, Anh, Pháp và Thụy Sĩ


Bảng 3
Tóm tắt dữ liệu


7.Các kết quả nghiên cứu

Sự bất ổn của tỷ giá hối đoái
Điều tra thêm về vai trò của sự bất ổn tỷ giá
Một cuộc điều tra tiếp theo về vai trò của tỷ giá



Sự bất ổn của tỷ giá hối đoái
Tác giả đo lường bất ổn tỷ giá như độ lệch chuẩn trung bình với thời gian hai tháng, VOLATILITY_SDM. Tất cả các hệ số của
biến bất ổn tỷ giá có ý nghĩa thống kê và có tương quan ngược chiều sau cuộc khủng hoảng (cột 2). Trước khủng hoảng, tương
quan cùng chiều nhưng không có ý nghĩa thống kê (cột 1).


Điều tra thêm về vai trò của sự bất ổn tỷ giá
Tác giả điều tra biến động mối quan hệ FDI tương lai:




Xem xét kênh ảnh hưởng của sự bất ổn tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến FDI.
Phân tích tính phi tuyến tiềm năng trong biến động mối quan hệ FDI thì cần bao gồm biến biến động bình phương (VOLATILITY^2) trong
mô hình ước lượng sau khi xác định độ cong sử dụng sơ đồ không tham số (tức là LOWESS). Phân tích dựa trên sự chuyển đổi tỷ giá được
quan sát là thuận tiện vì người ta có thể sử dụng các khái niệm thống kê như độ lệch chuẩn hoặc biến thiên trực tiếp như một sự thay thế cho
biến động. Tuy nhiên, độ lệch chuẩn bình phương là sai theo định nghĩa. Hơn nữa, bản chất của sự bất ổn là bản chất không thể chấp nhận
được. Do đó, tác giả sử dụng phương sai dự đoán của tỷ giá hối đoái từ mô hình GARCH như một sự thay thế cho tỷ giá được quan sát.

Kết quả cho thấy các giá trị trung bình của biến động không quan sát được (tiềm ẩn) này đối với giai đoạn hậu khủng hoảng cao hơn so với thời
điểm trước khủng hoảng.


Điều tra thêm về vai trò của sự bất ổn tỷ giá
Báo cáo các kết quả ước tính của mô hình biến giả bằng cách sử dụng phương sai có điều kiện như một thước đo của sự bất ổn tỷ giá. Biến
phụ thuộc là cùng một giá trị thực của FDI (FDI_REAL) như trước.



Điều tra thêm về vai trò của sự bất ổn tỷ giá
Thể hiện mối liên hệ phi tuyến giữa đầu tư và sự bất định trong tương lai, bao gồm các biến số bất ổn tỷ giá cũng như các biến tỷ giá hối đoái
trong mô hình biến giả.


Một cuộc điều tra tiếp theo về vai trò của tỷ giá

Tác giả kiểm tra sự thay đổi cấu trúc trong mô hình khi chúng ta sử dụng các biến tỷ giá. Kết quả kiểm định của Chow ủng hộ
mạnh mẽ sự thay đổi cơ cấu và mô hình hai nhóm bất kể lựa chọn các biến phụ thuộc và các biến tỷ giá hối đoái.

Tỷ giá

FDI thực dưới dạng biến phụ thuộc

Tỷ lệ FDI trên GDP_HQ dưới dạng biến phụ thuộc

Tỷ giá danh nghĩa

Tỷ giá thực

χ2(13)= 48.35

χ2(13)= 102.63

p > χ2 = 0.000

P > χ2 = 0.000

χ2(13)= 42.06


χ2(13)= 102.52

p > χ2 = 0.000

P > χ2 = 0.000


Một cuộc điều tra tiếp theo về vai trò của tỷ giá
Trong trường hợp bất ổn tỷ giá, tác giả ước tính mô hình hai nhóm sử dụng dữ liệu tỷ giá hối đoái. Tương tự như trường hợp bất ổn tỷ giá,
kết quả ước lượng của mô hình FDI thực tế, được báo cáo hỗ trợ hành vi đầu tư của MNEs thay đổi sau cuộc khủng hoảng


Một cuộc điều tra tiếp theo về vai trò của tỷ giá
Một giải thích tiêu cực khác về sự bất ổn tỷ giá hối đoái danh nghĩa (EXRATE_N^2) và bất ổn tỷ giá thực (EXRATE_REAL^2) sẽ là các biến đại diện cho
bất ổn tỷ lệ hối đoái. Sau đó, kết quả này phù hợp với những điều được quan sát ở trên bằng các biện pháp khác về bất ổn tỷ giá như VOLATILITY_SDM


×