SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐAOG TẠO BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC TRẺ 5-6 TUỔI CÓ Ý
THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Người thực hiện: Đặng Thị Định
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Quang Trung
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THANH HÓA NĂM 2016
1
MỤC LỤC
NỘI DUNG
I.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
2.Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Các phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.Cơ sở lý luận
2.Thực trạng của vấn đề
2.1.Thuận lợi
2.2.Khó khăn
2.3.Kết quả thực trạng
3.Các giải pháp thực hiện.
3.1 Tích hợp lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường
trong các chủ đề.
3.2 Sử dụng trò chơi để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường.
3.3 Tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực hành để giáo dục
trẻ bảo vệ môi trường
3.4 Giáo dục trẻ bảo vệ môi trường mọi lúc mọi nơi
3.5 Phối hợp với phụ huynh để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường
4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
2.Bài học kinh nghiệm
3.Ý kiến đề xuất:
SỐ TRANG
3
3
3
4
4
4
4
4
5
5
5
6
6
7
8
10
12
13
14
14
14
14
2
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chúng ta biết rằng: Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng bỏng của
toàn cầu. Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đang chịu ảnh hưởng
nặng nề của tình trạng ô nhiễm môi trường. Bảo vệ môi trường là việc làm
không riêng của một quốc gia mà là việc của cả thế giới con người. Vậy bảo vệ
môi trường là gì? Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường
trong lành, sạch đẹp, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục hậu
quả của con người gây ra cho môi trường.
Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo lớn, “giai đoạn
quan trọng” trong quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục
bảo vệ môi trường cho trẻ là rất cần thiết. Bởi trẻ lứa tuổi này rất thích tiếp xúc
với thiên nhiên và cuộc sống xung quanh nhưng còn non nớt về thể lực, nhận
thức và khả năng thích ứng với những biến đổi môi trường còn hạn chế nên là
đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Môi trường sống ngày mai phụ thuộc vào chính
hành động của trẻ ngày hôm nay. Vì vậy việc giáo dục hình thành ý thức, thái
độ, đặc biệt là hành vi đúng đắn bảo vệ môi trường sống cần phải bắt đầu từ lứa
tuổi mầm non.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều giáo viên, phụ huynh chưa nhận thức
rõ ràng về tầm quan trọng của việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Trên thực tế
có rất nhiều trẻ không có hiểu biết về môi trường, thiếu kỹ năng và chưa có ý
thức bảo vệ môi trường. Tình trạng vứt rác, vỏ bánh kẹo bừa bãi, bẻ cành ngắt
lá, hay vẽ bậy lên tường, giẫm lên hoa, cỏ…là hành động thường thấy của trẻ ở
các trường mầm non.
Từ thực tế trên, tôi thiết nghĩ nếu chúng ta làm tốt việc giáo dục trẻ bảo vệ
môi trường chính là cung cấp cho trẻ những hiểu biết sơ đẳng về môi trường, có
sự quan tâm đến vấn đề môi trường phù hợp với lứa tuổi sẽ đặt nền tảng để trẻ
trở thành con người có trách nhiệm với cuộc sống của bản thân và toàn xã hội.
Do nhận thức được hoạt động này có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ nên tôi đã
dành thời gian nghiên cứu tìm ra một số biện pháp khắc phục thực trạng trên.
Tôi xin mạnh dạn trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm tôi cho
là tâm đắc với đề tài: "Một số kinh nghiệm giáo giục trẻ 5-6 tuổi có ý thức bảo
vệ môi trường”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của việc nghiên cứu này nhằm nâng cao chất lượng và đưa ra một
số một số kinh nghiệm giúp trẻ tiếp thu kiến thức về môi trường một cách tốt nhất.
3
Giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh, làm cho trẻ hiểu
và biết được môi trường xung một cách rộng rãi, biết nhận xét đánh giá về môi
trường một cách thực tế, từ đó phát huy tính tích cực đồng thời giúp trẻ phát
triển một cách toàn diện về kiến thức kỹ năng về thói quen đạo đức tốt, biết
thưởng thức cái đẹp, biết làm ra cái đẹp, vươn lên làm người có ích cho xã hội
3. Đối tượng nghiên cứu.
Trong năm học 2015-2016 này tôi được nhà trường phân công phụ trách
lớp 5 tuổi và dạy theo chương trình giáo dục mầm non mới với tổng số là 34
cháu trong đó có: 20 cháu nam; 14 cháu nữ
4. Các phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp: Tham khảo tài liệu
Phương pháp: Quan sát
Phương pháp: Đàm thoại
Phương pháp: Giảng giải
Phương pháp: Thực nghiệm giáo dục
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lý luận.
Môi trường đang bị hủy hoại nghiêm trọng, gây mất cân bằng sinh thái,
cạn kiệt tài nguyên, làm biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là do thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của
con người. Vì vậy việc hiểu biết về môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường
trở thành vấn đề cấp bách có tính toàn cầu.
Ngày nay, giáo dục bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ quan trọng
trong đào tạo thế hệ trẻ ở các trường học và được quan tâm ngay từ bậc học đầu
tiên, bậc học mầm non. Đảng và nhà nước, Bộ Giáo dục đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo cho công tác giáo dục bảo vệ môi trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Ngày 21/4/2006 Vụ giáo
dục mầm non đã có công văn hướng dẫn thực hiện chỉ thị 02/2005/BGD&ĐT về
tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non. Ngày
2/12/2003 Thủ Tướng chính phủ ký quyết định số 256/2003/QĐ/TTg “Phê duyệt
chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020” trong đó có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non.
Giáo dục mầm non giữ vị trí quan trọng đối với sự phát triển của xã hội và
trong quá trình hình thành nhân cách con người. Trẻ sẽ không phát triển toàn
diện nếu không có hiểu biết về môi trường sống của mình. Những thói quen,
hành vi tốt nhằm bảo vệ môi trường cần được hình thành từ lứa tuổi mầm non.
4
Bởi ở giai đoạn này nhân cách của trẻ đang phát triển, trẻ hay bắt chước các hoạt
động của người xung quanh, do vậy để có một nhân cách tốt cần phải dạy trẻ một
cách khoa học, có kế hoạch trong đó có nội dung giáo dục trẻ bảo vệ môi trường.
2. Thực trạng của vấn đề.
Con người là nhân tố chính trong việc bảo vệ môi trường và cải thiện môi
trường sống nhưng cũng là yếu tố chính làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường
ngày càng gia tăng. Với từng đối tượng khác nhau cần có các hoạt động bảo vệ
môi trường khác nhau. Trong quá trình giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi bảo vệ môi trường,
tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi.
Chuyên đề giáo dục bảo vệ môi trường đã đưa vào thực hiện nhiều năm
nên đã có tiền đề cơ bản cho giáo viên và trẻ. Được ban chuyên môn chỉ đạo sát
sao và nhà trường quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất.
Bản thân được tham dự lớp bồi dưỡng chuyên đề hè do phòng Giáo dục tổ
chức trong đó có chuyên đề giáo dục bảo vệ môi trường và dự một số hoạt động
khác của trường, của phòng GD nên tôi đã học tập được số kinh nghiệm trong
phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ.
Được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của BGH về chuyên môn cùng với
sự giúp đỡ của chị em đồng nghiệp và được sự ủng hộ của các bậc phụ huynh
Bản thân là một giáo viên đứng lớp lâu năm, yêu nghề mến trẻ và nắm
vững chuyên môn.
2.2. Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi trên, khi đi vào thực tế quá trình giáo dục bảo
vệ môi trường cho trẻ 5- 6 tuổi còn gặp nhiều khó khăn.
Là địa phương thuần nông nên đa số phụ huynh không có điều kiện chăm
sóc trẻ. Có không ít phụ huynh chưa nhận thức rõ ràng về dạy trẻ bảo vệ môi
trường. Họ cho rằng con đi học chỉ cần biết hát, biết múa, biết đọc thơ, kể chuyện
thế là đủ còn lại những việc khác không quan trọng. Có người lại cho rằng trẻ em
biết gì? Làm được gì mà dạy bảo vệ môi trường. Vì thế việc phối hợp với phụ
huynh trong việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường gặp nhiều khó khăn.
Lớp tôi có 34 cháu nhưng có tới 70% cháu là trẻ nam rất hiếu động, gây
khó khăn trong việc rèn nề nếp lớp. Bên cạnh đó các cháu tuy cùng độ tuổi
nhưng nhận thức không đồng đều, có nhiều cháu sinh cuối năm và có nhiều cháu
thể lực không tốt. Đây cũng là nhân tố làm hạn chế kết quả của hoạt động giáo
dục bảo vệ môi trường cho trẻ.
2.3. Kết quả thực trạng.
Với thực trạng trên, qua việc khảo sát kiến thức, kỹ năng và thái độ bảo vệ
5
môi trường đầu năm trên trẻ tại lớp mình phụ trách tôi thu được một số kết quả sau:
Bảng 1: Bảng khảo sát trước khi thực hiện sáng kiến
Nội dung khảo sát
Kiến thức bảo vệ
môi trường
Kỹ năng bảo vệ môi
trường
Ý thức (thái độ) đối
với các hành vi gây
hại cho môi trường
Số trẻ
khảo
sát
Kết quả
Đạt
Số lượng Tỉ lệ %
Chưa đạt
Số lượng Tỉ lệ %
34
23
67.6
11
32.4
34
24
70.6
10
29.4
34
24
70.6
10
29.4
Kết quả khảo sát trên cho thấy tỷ lệ trẻ có kiến thức, kỹ năng và thái độ
với môi trường còn hạn chế chưa đồng đều, chưa đạt theo như ý muốn
Đứng trước tình hình như vậy tôi luôn trăn trở và suy nghĩ xem mình phải
làm gì và làm thế nào để nâng cao kết quả giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ.
Đồng thời tuyên truyền như thế nào đến tất cả phụ huynh để đánh thức ở họ ý
thức bảo vệ môi trường, kết hợp với cô giáo dạy trẻ bảo vệ môi trường. Giúp trẻ
biết vì cuộc sống của mọi người, của xã hội và bản thân trẻ với hành động tuổi
nhỏ làm việc nhỏ tùy theo sức của mình tham gia bảo vệ và lên tiếng với những
việc làm có hại cho môi trường. Tôi đã tìm ra một số giải pháp sau:
3. Các giải pháp thực hiện:
3.1. Tích hợp lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường trong
các chủ đề.
Giáo dục bảo vệ môi trường được tích hợp trong tất cả các lĩnh vực ở các
chủ đề. Khi tích hợp các nội dung này tôi đã căn cứ vào mục đích yêu cầu của chủ
đề để lựa chọn nội dung và hình thức giáo dục bảo vệ môi trường phù hợp với độ
tuổi và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5- 6 tuổi. Cụ thể trong các chủ đề như sau:
- Chủ đề Trường mầm non: Ngoài việc cung cấp kiến thức cho trẻ về chủ
đề, tôi giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường xung
quanh lớp học như: Rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, vệ sinh phòng học,
đồ dùng đồ chơi, chăm sóc cây vườn trường…Tôi cho trẻ xem tranh và thảo
luận về môi trường trong trường mầm non, nguyên nhân, hậu quả của ô nhiễm
môi trường (đi vệ sinh không đúng nơi quy định, vứt rác bừa bãi…). Cho trẻ kể
chuyện, đọc thơ, ca dao, hát các bài hát có liên quan đến môi trường. Tổ chức
hội thi bảo vệ môi trường lớp hội thi “Lớp em sạch đẹp”.
6
Ví dụ: Lớp chia thành 3 đội là 3 tổ, chương trình có 3 phần. Phần 1: Hát
về môi trường; Phần 2: Chọn hành vi đúng; Phần 3: Hành động của bé sắp xếp đồ
chơi trong lớp. Kết quả: Trẻ rất hứng thú tham gia các hoạt động cô tổ chức, đặc
biệt là hội thi “Lớp con sạch đẹp”. Trẻ biết yêu trường lớp hơn, không vứt rác bừa
bãi, tự có ý thức sắp xếp đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định, góp phần giữ cho
trường lớp luôn sạch sẽ, gọn gàng. Ngay từ đầu năm học trẻ đã có thói quen như
vậy nên lớp tôi luôn được đánh giá là lớp học sạch đẹp nhất của trường.
- Chủ đề Bản thân: Trong chủ đề này tôi lồng ghép giáo dục trẻ biết được ích
lợi của việc vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường đối với sức khỏe con người. Trẻ biết
giữ gìn tay chân sạch sẽ, không lê la dưới đất, biết đi vệ sinh đúng nơi quy định.
Ví dụ: Vào cuối buổi chiều: Tôi cho cháu lớp trưởng Văn Thái đi kiểm tra
tay, chân bạn trong lớp, nếu phát hiện thấy bẩn, cả lớp sẽ cùng cô trò chuyện về
nguyên nhân tay chân bạn bị bẩn, cách giải quyết và biện pháp giữ gìn tay chân
sạch sẽ. Từ đó trẻ tự biết giữ gìn tay chân sạch sẽ để không phải bị nhắc nhở.
Bên cạnh đó, tôi còn dạy trẻ biết một số ký hiệu như nhà vệ sinh nam, nhà vệ
sinh nữ, thùng rác, biết sử dụng một số dụng cụ vệ sinh môi trường như chổi, hót
rác, thùng rác…Kết quả: Qua chủ đề 100% trẻ lớp tôi có thói quen sống gọn gàng,
ngăn nắp, biết vệ sinh cá nhân, thường xuyên sạch sẽ, tích cực tham gia hoạt động
gần gũi như lao động trực nhật, có ý thức cao trong việc bảo vệ môi trường.
- Chủ đề gia đình: Tôi dạy trẻ nhận biết được môi trường sạch, môi
trường bẩn trong gia đình, biết được sự thay đổi của môi trường xung quanh nhà
trẻ, biết quý và giữ gìn đồ dùng trong gia đình, cất đồ dùng đúng chỗ, có ý thức
về điều nên làm như sắp xếp đồ dùng ngăn nắp, bỏ rác vào thùng, tắt các thiết bị
điện nước khi không sử dụng để tiết kiệm điện nước…
- Chủ đề giao thông: Tôi thường sử dụng một số hình ảnh về các phương
tiện giao thông xả khói đen gây ô nhiễm môi trường như ô tô, xe máy, tàu hỏa…
Trò chuyện về các hình ảnh người tham gia giao thông không đội mũ bảo
hiểm… Qua đó giúp trẻ hiểu một số quy định đơn giản để đảm bảo an toàn khi
tham gia giao thông như đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang tránh khói bụi. Thậm
chí trẻ lớp tôi biết nhắc bố mẹ để xe ngoài cổng trường khi đưa đón con.
- Chủ đề thế giới thực vật: Tôi giáo dục trẻ biết tầm quan trọng của cây
thực vật, dạy trẻ biết chăm sóc, yêu quý bảo vệ cây cối. Chủ đề này có rất nhiều
bài thơ, bài hát hay về cây xanh, tôi đã sử dụng để giáo dục trẻ biết bảo vệ môi
trường. Ví dụ các bài hát: Em yêu cây xanh, em thích trồng cây, chúng em trồng
cây, màu hoa, hoa trường em...
Ngoài các chủ đề trên, tôi còn tiến hành lồng ghép nội dung giáo dục bảo
vệ môi trường ở trong các chủ đề khác như: Thế giới động vật, hiện tượng tự
7
nhiên, nghề nghiệp, quê hương đất nước Bác Hồ. Ở mỗi chủ đề tôi lựa chọn nội
dung lồng ghép khác nhau, không trùng lặp, không quá tải ảnh hưởng đến kết
quả của hoạt động chính.
Biện pháp này đã mang lại kết quả khả quan, nhưng chưa đủ nên tôi đã sử dụng
biện pháp tiếp theo để nâng cao kết quả của hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường.
3.2. Sử dụng trò chơi để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường.
Hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo là vui chơi. Trẻ “Học mà chơi, chơi
bằng học”, lứa tuổi mẫu giáo lớn cũng không ngoại lệ điều đó. Ta thử hình dung
nếu trong một giờ đồng hồ trẻ không được chơi thì sẽ thế nào? Rõ ràng là trẻ sẽ
uể oải và mất tập chung. Nguyên tắc khi xây dựng các hoạt động cho trẻ là xen
kẽ giữa hoạt động có tính chất động và hoạt động có tính chất tĩnh. Mặt khác,
một trong những nguyên tắc tích hợp lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường là có thể tích hợp cả một hoạt động hoặc một phần của hoạt động. Nắm
vững nguyên tắc này tôi thường lựa chọn các trò chơi động tĩnh khác nhau để
lồng ghép một phần của hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. Vậy các
trò chơi lấy ở đâu? Trò chơi nào là thích hợp? Trò chơi do con người sáng tạo ra,
sức sáng tạo của con người là vô tận. Tôi đã sử dụng các trò chơi trong chương
trình giáo dục mầm non mới, chương trình đổi mới, sách báo trên mạng, trò chơi
dân gian và phần nhiều trò chơi do chính bản thân sáng tạo ra.
Ví dụ 1: Trong tiết thơ “Hoa cúc vàng”, tôi cho trẻ chơi trò chơi vận động
sáng tạo “Trồng cúc”. Cách chơi như sau: 2 bạn làm thành 1 nhóm, một bạn làm
người trồng hoa, một bạn làm cây hoa. Cô nói “Gieo hạt” người trồng hoa làm
động tác làm nhỏ đất và dẫn hạt giống ngồi xuống đất, hạt giống nhắm mắt ngủ.
Cô nói “Hạt nảy mầm” người trồng hoa kéo hạt giống đứng lên. Cô nói “Chăm
sóc”, người trồng hoa tưới nước, nhổ cỏ, cây hoa rung rinh vẫy lá. Cô nói “Hoa
nở”, cây hoa xòe tay vẫy vẫy, người trồng hoa nhảy múa vui mừng.
Kết quả: Trẻ rất hứng thú khi chơi trò chơi. Không những thế trẻ còn biết
được công việc của người trồng và chăm sóc hoa, yêu quý cây hoa cúc và nhớ
bài thơ “Hoa cúc vàng” lâu hơn.
Ví dụ 2: Trong tiết khám phá khoa học “Cây xanh trong vườn nhà bé”, tôi
tổ chức cho trẻ chơi trò chơi học tập “Xếp đúng thứ tự”. Luật chơi: Chọn và xếp
đúng các tranh theo trình tự quá trình phát triển của cây. Cách chơi: mỗi trẻ một
bộ lô tô về sự phát triển của cây, thời gian là bài hát Chúng em trồng cây. Kết
thúc bản nhạc, ai xếp đúng nhất, nhanh nhất sẽ được cô thưởng món quà đặc biệt
đó là hạt giống đã nảy mầm. Kết quả: Bạn nào cũng cố gắng để được cô thưởng
cho hạt giống kỳ diệu. Trẻ nắm được quá trình phát triển của cây, biết cách chăm
sóc và bảo vệ cây xanh.
8
Mỗi khi sử dụng các trò chơi để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường, trẻ thực
sự thích thú, giờ học sôi nổi, trẻ tích cực tham gia, nề nếp trẻ học ngoan kéo theo
kết quả của hoạt động cũng được nâng lên. Tóm lại các trò chơi cô tổ chức luôn
là sự mong đợi, là món quà nhỏ trong ngày đối với trẻ.
3.3. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực hành để giáo dục trẻ bảo
vệ môi trường.
Như đã nói ở trên, nội dung giáo dục bảo vệ môi trường có thể lồng ghép
tích hợp trong cả một hoạt động hoặc một phần của hoạt động. Ở biện pháp cho
trẻ trải nghiệm thực hành tôi thường tổ chức lồng ghép tích hợp trong cả một
hoạt động để giáo dục trẻ. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý trẻ mầm non, rất tò
mò, thích khám phá thế giới xung quanh. Còn gì thú vị hơn khi trẻ được tự trải
nghiệm và khám phá ra điều mới lạ đó. Đây là dạng hoạt động giúp trẻ nhớ sâu,
hiểu rõ và đầy đủ nhất nội dung cô muốn truyền tải đến trẻ. Khi lựa chọn các
hoạt động cho trẻ trải nghiệm thực hành tôi thường bám vào các tiêu chí đánh
giá chất lượng thực hiện chuyên đề để đưa ra nội dung hoạt động cho trẻ.
Ví dụ: Tiêu chí: Tích cực tham gia các hoạt động gần gũi bảo vệ môi
trường của trường, của lớp. Chiều thứ 6 hàng tuần, tôi tổ chức cho trẻ lao động
vệ sinh trường lớp. Đầu tiên tôi cho trẻ quan sát khu vực sân trường và lớp học,
cho trẻ tự nhận xét về môi trường khu vực đó. Hỏi trẻ nên làm gì để trường lớp
sạch hơn. Sau khi trẻ nêu ra ý kiến tôi giao nhiệm vụ cho từng tổ như: Tổ 1: Thu
gom rác quanh sân trường, bỏ rác vào thùng; Tổ 2: Nhổ cỏ, lau lá cây khu vực
vườn cây cảnh; Tổ 3: Lau đồ chơi, sắp xếp đồ chơi trong lớp.
Kết quả: Trẻ hứng thú, say mê, tích cực với việc bảo vệ môi trường, cùng
nhau hoàn thành công việc chung.
Hoặc: Tôi cho trẻ thực hành tìm hiểu nguyên nhân làm cho nước bẩn và
bảo vệ môi trường nước. Cô chuẩn bị một chậu nước sạch. Một số con cá, con
vịt bằng nhựa, một ít bột màu, giấy vụn, lá khô, cọng rau…Tổ chức: Tôi cùng
trẻ thả cá, vịt vào chậu nước, cho trẻ nêu cảm nghĩ khi quan sát chậu nước sạch
có cá, vịt đang bơi. (Cô giới thiệu cho trẻ đây là hồ nước sạch, có cá, vịt đang
bơi nhìn rất đẹp). Sau đó cho trẻ thực hành mỗi trẻ thả xuống chậu nước một
thứ: phẩm màu, giấy vụn, lá khô, cọng rau… Cô hỏi trẻ: Điều gì sẽ xảy ra khi
các con thả các thứ đó vào chậu nước? Nếu cô thả cá vào chậu này thì cá có
sống được không? Muốn cho chậu nước luôn sạch chúng ta phải làm gì? (Trẻ
suy nghĩ trả lời. Sau đó cô kết luận: Chúng ta không được vứt rác, không đổ
nước bẩn, ném động vật đã chết xuống ao, hồ làm nước ô nhiễm. Khi nước bị ô
nhiễm thì cá, tôm, cua sẽ chết, con người sử dụng nguồn nước này sẽ bị bệnh.
Hàng ngày con nhớ bỏ rác vào thùng. Kết quả: Trẻ rất tích cực tham gia hoạt
9
động, nhận biết nước sạch, nước bẩn, nguyên nhân và cách bảo vệ nguồn nước.
Tóm lại: Biện pháp này đã mang lại kết quả cao trong quá trình giáo dục
trẻ bảo vệ môi trường. Trẻ nắm bắt được những hành động đúng, biết làm các
công việc bảo vệ môi trường, bỏ rác đúng nơi qui định, biết lên tiếng với những
việc làm như bỏ rác xuống ao hồ, sông suối… Vì đây là biện pháp thực hành
( học đi đôi với hành). Nếu việc học, việc lĩnh hội tri thức đơn thuần chỉ là lắng
nghe, tiếp nhận thông tin mà không có trải nghiệm thực tế thì hiệu quả sẽ không
cao. Còn khi ta vừa học và kết hợp làm thực hành thì nó sẽ khắc sâu hơn tri thức
đó hơn nữa còn giúp chúng ta có thêm những kỹ năng cơ bản, ban đầu. Đặc biệt
là đối với trẻ mầm non tư duy trực quan hành động luôn chiếm ưu thế.
3.4. Giáo dục trẻ bảo vệ môi trường mọi lúc mọi nơi.
Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về kiến thức, kỹ
năng, thái độ bảo vệ môi trường của trẻ ở nhà. Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và
lựa chọn phương pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường phù hợp bằng cách giáo
dục mọi lúc mọi nơi.
Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ
giấc trong sinh hoạt ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục thúc
đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và
khả năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi căn cứ vào nội dung cụ thể của
từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép phù hợp.
Thông qua giờ đón, trả trẻ, tôi lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ.
Ví dụ: Chủ đề phương tiện giao thông: tôi cùng trẻ trò chuyện về nhiều
loại phương tiện giao thông như xe đạp, xe máy, ô tô, tàu hỏa…Các loại phương
tiện cần động cơ để hoạt động thường xả ra khí thải, khói làm cho không khí bị ô
nhiễm. Những việc cần làm để không phải hít thở khói xe thả ra (đi đường đeo
khẩu trang, nhắc bố mẹ để xe ngoài cổng trường khi đưa đón con…)
Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để
tôi tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. Tôi căn cứ vào nội
dung của từng tiết học để tích hợp hài hòa, không ôm đồm.
Ví dụ: Qua hoạt động KPKH “ Trò chuyện về sự kỳ diệu của nước”. Tôi
lồng ghép các nội dung sau: Dạy trẻ biết thế nào là nước sạch, nước bẩn, tác
dụng của nước và cách sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả…Giáo dục trẻ bảo vệ
nguồn nước sạch như không vứt rác xuống ao hồ, sông suối. Biết nhắc nhở
người lớn không quét rác thải, quăng vứt xác động vật xuống ao làm ô nhiễm
nguồn nước, thường xuyên khơi thông nguồn nước như vớt các rác thải, túi bóng
dưới ao hồ bỏ vào nơi qui định ….
Thông qua hoạt động ngoài trời, tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều nội dung
10
bảo vệ môi trường khác nhau.
Ví dụ: Tôi cho trẻ quan sát sân trường và nhận xét xem sân trường mình
như thế nào? Vì sao sân trường lại được như vậy? Bác bảo vệ đã làm những việc
gì để sân trường luôn sạch sẽ? Chúng mình cần làm gì để sân trường sạch đẹp?
Sau đó cho trẻ tham gia nhặt giấy rác, lá cây trên sân trường. Hoặc khi trò
chuyện quan sát nhà của cô Tấm trong khu vườn cổ tích. Tôi giáo dục trẻ luôn
có ý thức giữ cho môi trường của gia đình mình luôn gọn gàng, sạch sẽ từ trong
nhà ra ngoài sân cho đến vườn rau giống như nhà của cô Tấm.
Thông qua hoạt động góc: Hoạt động chơi ở các góc mang tính tích hợp
cao trong giáo dục. Thông qua các trò chơi phân vai, trẻ đóng vai và thể hiện
công việc của người lớn như: Bác sĩ (khám chữa bệnh cho mọi người, giữ gìn vệ
sinh phòng khám, xử lý rác thải y tế…); hay vai bán hàng giải khát (vệ sinh đồ
dùng, sắp xếp hàng quán sạch đẹp, ngăn nắp…); hoặc làm đầu bếp (vệ sinh dụng
cụ nhà bếp)…Không chỉ ở góc phân vai tôi mới lồng ghép nội dung giáo dục
bảo vệ môi trường mà ở tất cả các góc chơi khác tôi cũng lồng ghép để kiến thức
và kỹ năng của trẻ được cũng cố và phát huy.
Ví dụ:
- Góc xây dựng: Xây dựng khu tập thể làng em. Khi xây, trẻ biết xếp dọn
ngăn nắp để khu tập thể luôn sach đẹp.
- Góc nghệ thuật: Múa hát các bài hát theo chủ đề, làm đồ dùng đồ chơi từ
nguyên liệu thiên nhiên và phế liệu…(Chơi xong trẻ biết thu dọn đồ chơi, phế
liệu gọn gàng…)
- Góc thiên nhiên: Chăm sóc cây, lau lá, nhổ cỏ, tưới cây, nhặt lá, trồng
cây…(Chơi xong trẻ biết rửa tay bằng xà phòng sạch sẽ).
Kết quả: Trẻ vui vẻ, phấn khởi tham gia hoạt động và thực hành rất tốt vai
chơi của người bảo vệ môi trường.
Thông qua tổ chức giờ ăn, ngủ cho trẻ: Đây là hoạt động nhằm hình thành
các nề nếp thói quen trong sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu sinh lý của trẻ. Trước khi
ăn, tôi thường xuyên nhắc trẻ biết kê bàn, ghế ngay ngắn, biết xếp hàng rửa tay
bằng xà phòng đúng quy trình. Trong khi ăn giáo dục trẻ hành vi văn minh trong
ăn uống, biết chào mời trước khi ăn, không nói chuyện khi ăn, khi ho, hắt hơi
biết che miệng…Ăn xong biết xếp bát, thìa đúng nơi quy định, sau đó xúc
miệng, lau miệng, nhắc trẻ biết tiết kiệm nước bằng cách lấy cốc hứng nước,
không vặn vòi chảy liên tục khi lấy nước xúc miệng…Trước khi ngủ nhắc trẻ
giữ vệ sinh phòng nhóm sạch sẽ, đi vệ sinh đúng nơi quy định, đi xong để dép
lên giá theo tổ của mình, biết treo quần áo đúng nơi quy định, tự lấy gối đi ngủ.
Kết quả: Trẻ có ý thức giữ vệ sinh cá nhân, thói quen sống gọn gàng, ngăn nắp
11
và có ý thức xây dựng bảo vệ môi trường chung.
Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường vào các hoạt động
khác trong ngày như: ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh trả trẻ... Thông qua
việc tạo các tình huống có vấn đề đề trẻ suy nghĩ giải quyết hoặc bằng những
việc làm thực tế.
Tóm lại: Cần giáo dục trẻ bảo vệ môi trường mọi lúc mọi nơi, đảm bảo
tính liên tục để các kiến thức, kỹ năng của trẻ trở thành thuộc tính vững chắc
trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng quá nhiều làm ảnh hưởng
đến kết quả của hoạt động chính cũng như gây tâm lý nặng nề cho trẻ khi tham
gia vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi tiến hành nhận xét đánh giá trẻ
để có kế hoạch cho các biện pháp tiếp theo.
3.5. Phối hợp với phụ huynh để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường.
Song song với việc thực hiện biện pháp trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp,
tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà
trường trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và giáo dục bảo vệ môi
trường nói riêng. Việc phối hợp với gia đình nhằm đảm bảo tính thống nhất về
nội dung, phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ. Môi trường gia đình rất thích hợp
để giáo dục trẻ. Trẻ được tiếp thu các kiến thức, kỹ năng thông qua gia đình một
cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà hiệu quả lại cao. Trên thực tế, nhiều phụ huynh
chưa có kiến thức về bảo vệ môi trường, không biết giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ
những gì? Chính vì vậy tôi đã tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để họ hiểu
tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và những kiến thức cần dạy trẻ. Việc
tuyên truyền đến các bậc phụ huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông
qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động
của lớp, thông qua buổi họp phụ huynh hoặc thông qua phát thanh trong nhà
trường. Cụ thể:
Trao đổi trực tiếp với phụ huynh thông qua giờ đón trả trẻ. Do thời gian
này thường rất ngắn nên tôi thường lựa chọn thông tin cần thiết nhất để trao đổi
với phụ huynh về tình hình của trẻ trong đó có lồng ghép nội dung giáo dục bảo
vệ môi trường.
Ví dụ: Lớp tôi có cháu Vân, thường xuyên ăn sáng bằng bim bim, sau khi ăn
xong hay vứt rác lung tung. Qua trao đổi với bố cháu tôi được biết mẹ đi làm ăn xa,
Vân ở nhà với bố lại rất bận nên bố không có thời gian cho con ăn sáng. Tôi đã trao
đổi với phụ huynh cháu Vân cho con ăn sáng bằng bim bim là không cung cấp đủ
chất và năng lượng cho trẻ trong bữa ăn, ăn xong lại vứt rác bừa bãi, chưa kể các
cháu khác trong lớp cũng đòi bố mẹ mua. Bố chịu khó dậy sớm nấu sáng cho con
ăn ở nhà. Nếu hôm nào bận quá thì có thể mang đến lớp nhờ các cô cho Vân ăn
12
sáng. Kết quả: Cháu Vân không ăn sáng ở lớp bằng bim bim nữa, thay vào đó là
những bữa sáng ngon lành do bố nấu. Hôm nào lỡ bữa bố mua cháo hoặc xôi gửi
cô cho con ăn, ăn xong Vân biết bỏ hộp vào thùng rác và rửa tay sạch sẽ.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh: Bảng được thiết kế đẹp,
kích thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao đổi
thông tin rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội dung giáo dục trẻ
bảo vệ môi trường. Tôi thường thông báo với phụ huynh những nội dung khác
nhau. Trong đó có mục “Những việc cần lưu ý” đưa ra những yêu cầu nội dung
cha mẹ cần phối hợp với giáo viên để thực hiện hoạt động có hiệu quả.
Ví dụ: Chủ đề Trường mầm non, tôi ghi trong mục “Những việc cần lưu
ý” trong đó có lồng ghép nội dung giáo dục bảo vệ môi trường :
Vệ sinh cá nhân chuẩn bị cho trẻ đầu tóc gọn gàng, quần áo sạch sẽ trước
khi trẻ đến lớp.
Phụ huynh không đi xe máy vào sân trường làm mất trật tự, xả khói gây ô
nhiễm môi trường.
Phụ huynh tham gia lao động cùng giáo viên để trường lớp xanh sạch đẹp
chào mừng năm học mới...
Kết quả: Mặc dù rất bận nhưng phụ huynh vẫn dành thời gian để đọc bảng
thông tin, thực hiện nội dung giáo viên đưa ra trong mục “Những việc cần lưu ý”
Thông qua việc mời phụ huynh tham quan môi trường trong và ngoài lớp
học hoặc tham dự các hoạt động của lớp như bữa ăn trưa, vệ sinh trước khi ăn,
các buổi lao động của trẻ. Việc phối hợp với phụ huynh bằng hình thức này đã
giúp phụ huynh hiểu thêm về cách dạy trẻ bảo vệ môi trường. Qua đó phụ huynh
phối hợp tích cực hơn và hỗ trợ giáo viên trong việc nuôi dạy trẻ.
Thông qua các buổi họp phụ huynh, định kỳ các buổi họp phụ huynh được
tổ chức 2 lần trong năm học. Tôi đã chủ động lồng ghép nội dung giáo dục trẻ
bảo vệ môi trường đến các bậc phụ huynh. Phụ huynh đã cùng cô thảo luận và
thống nhất nội dung, biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ trong đó có nội dung giáo
dục bảo vệ môi trường.
Thông qua việc phát thanh trong nhà trường, tôi luôn có ý thức đóng góp
ý kiến vào nội dung các bài phát thanh trong nhà trường. Đây là hình thức phối
hợp và tuyên truyền có hiệu quả, cung cấp thông tin kịp thời tới phụ huynh do
thông tin được phát trong giờ đón, trả trẻ.
Ví dụ: Tuyên truyền về bệnh sốt xuất huyết, huy động các bậc phụ huynh
tham gia lao động bảo vệ môi trường, khơi thông cống rãnh phát quang bụi rậm.
Kết quả: Có tới 95% phụ huynh tích cực tham gia vào buổi lao động do
nhà trường tổ chức, dọn dẹp sạch sẽ khu vực gia đình, đường làng, ngõ xóm để
13
phòng tránh bệnh sốt xuất huyết.
Những biện pháp trên đã làm thay đổi căn bản từ phía phụ huynh. Họ đã
coi trọng việc bảo vệ môi trường và tích cực phối hợp với giáo viên để giáo dục
trẻ. Đặc biệt cha mẹ luôn là tấm gương về bảo vệ môi trường cho trẻ noi theo.
Không còn tình trạng đi xe máy vào trường, cho con ăn sáng, uống sữa rồi vứt
vỏ hộp dưới gốc cây. Ngược lại đã có nhiều hình ảnh bố, mẹ dắt con từ ngoài
cổng trường vào. Con biết nhắc mẹ không giẫm lên hoa, cỏ khi tham quan vườn
thiên nhiên, biết tự nhặt rác bỏ vào thùng khi thấy rác trên sân…
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên, kết quả giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ
lớp tôi có những chuyển biến rõ dệt. Tôi tiến hành khảo sát trên trẻ, kết quả khảo
sát lần 2 thu được như sau:
Bảng 2: Bảng khảo sát sau khi thực hiện sáng kiến
Nội dung khảo sát
Số trẻ
khảo
sát
Kết quả
Đạt
Số lượng Tỉ lệ %
Chưa đạt
Số lượng Tỉ lệ %
Kiến thức bảo vệ môi
34
34
100
0
0
trường
Kỹ năng bảo vệ môi
34
34
100
0
0
trường
Ý thức (thái độ) đối với
các hành vi gây hại cho
34
34
100
0
0
môi trường
Kết quả khảo sát trên cho thấy tỷ lệ trẻ có kiến thức, kỹ năng và thái độ
với môi trường ở mức đạt tăng lên nhanh chóng từ 70% tăng lên 100%. Trẻ đã
có kiến thức, kỹ năng tương đối bền vững. Đáng mừng là % trẻ ở mức chưa đạt
giảm xuống còn 0%. Kết quả này đã chứng minh cho ưu điểm của việc thực hiện
có hiệu quả các biện pháp trên.
Về phía phụ huynh: Sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ
huynh cảm thấy vui mừng, phấn khởi, tin vào kết quả giáo dục của nhà trường.
Các bậc phụ huynh đã nhiệt tình hưởng ứng, phối hợp cùng với giáo viên như
đóng góp tranh ảnh có nội dung về môi trường, các học liệu, vật liệu như đá, cát,
sỏi, cây giống, hạt giống, rau, củ, và nhiều nguyên vật liệu phế thải để giáo viên
và học sinh trồng, chăm sóc và sử dụng vào các hoạt động khác. Bản thân các
bậc phụ huynh cũng ý thức cao hơn về bảo vệ môi trường trong và ngoài trường
mầm non như tham gia lao động trong nhà trường, vệ sinh đường làng khu dân
cư, là tấm gương về bảo vệ môi trường cho trẻ noi theo.
14
Về phía bản thân: Qua việc tổ chức hoạt động giáo dục trẻ bảo vệ môi
trường, tôi cũng có điều kiện để rèn luyện chính mình. Bản thân luôn ý thức được
mình phải là tấm gương để trẻ noi theo trong giáo dục bảo vệ môi trường, sống
gọn gàng, ngăn nắp hơn. Có thêm một số kinh nghiệm và tự tin hơn khi tổ chức
các hoạt động giáo dục trẻ trong đó có hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non có vai trò rất quan
trọng. Bởi vì môi trường sống của trẻ ngày mai phụ thuộc vào chính hành động
của trẻ ngày hôm nay. Ô nhiễm môi trường đã xảy ra trên phạm vi toàn cầu, tác
động mạnh mẽ đến mọi quốc gia và sự sống trên trái đất. Trẻ em hôm nay phải
lớn lên trong một thế giới đang chịu ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường và biến
đổi khí hậu. Việc nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ bảo vệ môi trường là góp phần
tạo điều kiện cho trẻ em những mầm non khỏe mạnh và sẵn sàng vươn lên được
sống trong môi trường xanh, sạch đẹp, không còn ô nhiễm.
Vì thế khi tổ chức cho trẻ tham gia các buổi hoạt động về hoạt động bảo
vệ môi trường cần phải:
Trân trọng việc chơi,và cung cấp cho trẻ nhiều cơ hội giao tiếp với nhau
cũng như với giáo viên, trao đổi thường xuyên với trẻ bằng những câu hỏi gợi
mở, hướng trẻ vào ý thức bảo vệ môi trường, lựa chọn nội dung bảo vệ môi
trường và phương pháp tích hợp phù hợp thông qua hoạt động một ngày của trẻ.
Ta hỗ trợ trẻ tích cực tham gia các buổi ngoại khóa như tự trẻ nhặt lá trên
sân trường, tự chăm sóc cho cây, tự làm ra các sản phẩm từ nguyên vật liệu sẵn
có ở địa phương, giáo viên có thể hướng dẫn trẻ những hiểu biết ban đầu về bảo
vệ môi trường đối với con người như: Giữ gìn lớp sạch sẽ, biết cất dọn đồ chơi,
biết nhặt rác và bỏ rác vào đúng nơi quy định.
Ngoài ra, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh những kỹ năng hành vi đơn
giản để bảo vệ môi trường như: Giữ gìn thân thể, vệ sinh cá nhân, chăm sóc đầu tóc,
sắp xếp, trang trí, làm sạch đẹp phòng học và phòng ở; chăm sóc một số con vật nuôi
gần gũi và thực hành chăm sóc bảo vệ môi trường và hành động cụ thể của trẻ.
Thông qua các hoạt động trên, giáo viên có thể quan sát thái độ, tình cảm
của trẻ đối với môi trường. Từ đó có thể uốn nắn và hướng cho trẻ bộc lộ thái độ
về ý thức bảo vệ môi trường thiên nhiên. Đồng thời biết cách giữ gìn bảo vệ môi
trường lớp học, gia đình và cộng đồng.
Lên kế hoạch về thời gian, không gian địa điểm hợp lý cho trẻ được hoạt động.
Thu hút sự tham gia của cha mẹ học sinh trong việc giáo dục và bảo vệ
môi trường một cách tự nhiên, tự nguyện.
15
2. Bài học kinh nghiệm.
Từ việc làm cụ thể và kết quả đạt được, tôi rút ra được một số kinh
nghiệm sau: Giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó đề ra
mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục cho phù hợp. Việc tổ chức các hoạt
động giáo dục phải lấy trẻ làm trung tâm. Nội dung dạy trẻ phải phù hợp, gần
gũi, thiết thực với cuộc sống của trẻ. Tạo điều kiện cho trẻ vận dụng kiến thức
đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn trong cuộc sống hàng ngày.
Dạy trẻ bảo vệ môi trường ở mọi lúc mọi nơi và đánh giá thường xuyên
hoạt động của trẻ.
Giáo viên phải là tấm gương cho trẻ về cách ứng xử với môi trường.
Phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường để nâng cao kết quả của hoạt
động giáo dục bảo vệ môi trường.
3. Ý kiến đề xuất.
Ở lứa tuổi này, việc được trực tiếp quan sát và trải nghiệm thực tế từ
những chuyến đi hoạt động ngoại khóa có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục
trẻ về bảo vệ môi trường. Vì vậy tôi kiến nghị các trường nên trích ra một số
kinh phí dùng cho các hoạt động dã ngoại của trẻ, như thế việc giáo dục trẻ sẽ
mang lại hiệu quả tích cực hơn.
Đề tài nghiên cứu của bản thân tôi không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế.
Rất mong được sự góp ý bổ xung của hội đồng khoa học giáo dục các cấp./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Bỉm Sơn, ngày 15 tháng 5 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
ĐƠN VỊ
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Nguyễn Thị Thu Hường
Đặng Thị Định
XÁC NHẬN CỦA TRƯỞNG PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TÀI LIỆU THAM KHẢO
16
1. Tài liệu từ chỉ thị số 02/2005 CT-BGDĐT về việc tăng cường công tác
giáo dục bảo vệ môi trường của bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển.
2. Tài liệu từ quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ
ngày 02 tháng 12 năm 2003 về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
3. Tập san Mầm Non.
17