Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp giúp trẻ 5 6 tuổi khám phá môi trường khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.05 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Chúng ta đã biết, giáo dục mầm non là hệ thống giáo dục đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là hình thành cơ sở
ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn diện [8]. Vì thế, mỗi một trẻ em
sinh ra đều có quyền được chăm sóc giáo dục, được tồn tại và phát triển, được
thương yêu trong gia đình, nhà trường và cộng đồng.
Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước, đất nước có giàu mạnh,
phồn vinh là nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì vậy phải chăm sóc giáo dục trẻ thật tốt
ngay từ khi trẻ còn ở độ tuổi mầm non. Thông qua các hoạt động giúp cho trẻ
phát triển một cách toàn diện về mọi lĩnh vực như: thể chất, nhận thức, ngôn
ngữ, thẫm mĩ và tình cảm kĩ năng xã hội. Giúp trẻ có một hành trang vững vàng,
một tâm thế tự tin để bước vào lớp một. Như Bác Hồ đã từng nói:
“ Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan”
Câu thơ trên của Bác Hồ luôn gắn bó với tuổi thơ các em, Bác đã nói lên
tâm lý của tuổi mầm non là biết ăn, biết ngủ, học hành, đó cũng là bước đầu tiên
hình thành nên nhân cách trẻ thơ.
Khám phá khoa học là một nội dung mới trong chương trình giáo dục
mầm non (ban hành tháng 7/2009) thay cho nội dung “Làm quen với Môi trường
xung quanh” trong chương trình trước đó. Khám phá khoa học là một quá trình
tiếp xúc, tìm tòi tích cực từ phía trẻ nhằm phát hiện những cái mới, những cái ẩn
dấu trong các sự vật, hiện tượng xung quanh. So với “Làm quen” thì “Khám
phá” bao gồm các hoạt động đa dạng, tích cực hơn, nội dung khám phá cũng
phong phú, sâu sắc hơn. Mục tiêu của khám phá khoa học là: Giúp trẻ có những
hiểu biết đơn giản, chính xác, cần thiết về các sự vật, hiện tượng xung quanh;
phát triển các kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội và hình thành cho trẻ thái độ
sống tích cực trong môi trường, trong đó mục tiêu phát triển kỹ năng là mục tiêu
cơ bản [8].
Trong những năm gần đây việc cho trẻ khám phá khoa học đã có những
đổi mới đáng khích lệ. Nhiều trường mầm non đã mạnh dạn lựa chọn những đề


tài, nội dung khám phá rất mới so với những đề tài quen thuộc trước đây. Đã có
sự chú trọng nhất định trong việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ. Tuy vậy
trong quá trình khám phá khoa học vẫn còn có những hạn chế, thể hiện rõ nhất
là việc ôm đồm quá nhiều nội dung khám phá trong một hình thức tổ chức. Điều
này làm cho các hoạt động khám phá trở nên nặng nề, quá tải, trẻ không được
tham gia những trải nghiệm phù hợp với khả năng, vì vậy không có cơ hội phát
triển ở trẻ các kỹ năng nhận thức, khám phá.
Thế giới xung quanh trẻ rất kỳ thú, trẻ muốn tìm hiểu, khám phá tất cả.
Trường học là nơi mà trẻ có nhiều cơ hội để khám phá nhất. Qua hoạt động
khám phá đó, trẻ lĩnh hội tri thức, phát triển khả năng tư duy, quan sát, so sánh,
phân loại, dự đoán, thử nghiệm và từ đó hình thành các khái niệm và cách giải
quyết các vấn đề.
Từ lâu hoạt động khám phá khoa học là môn học khô cứng và trẻ chủ yếu
thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của cô, trẻ cũng được tìm hiểu các sự vật
1


hiện tượng nhưng chỉ dừng lại ở những đặc điểm bên ngoài do đó kết quả hoạt
động này thường là thấp.
Từ thực tế trên, là một giáo viên được nhà trường phân công chăm sóc giáo
dục trẻ 5 - 6 tuổi, qua những năm trực tiếp giảng dạy tôi nhận thấy việc giúp trẻ khám
phá khoa học là việc rất quan trọng và cần thiết đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì,
chịu khó, biết vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp để giúp trẻ lĩnh hội những
kiến thức đầy đủ nhất, luôn lấy trẻ làm trung tâm trong mọi hoạt động để tạo cơ hội
cho trẻ được thực hành, trải nghiệm vì trẻ học tốt nhất khi có cơ hội khám phá và trải
nghiệm.
Nhận thức được tầm quan trọng và những hạn chế nói trên tôi luôn cố
gắng nắm bắt chương trình giáo dục mầm non mới của môn học, cùng với sự
phấn đấu nỗ lực của mình tôi suy nghĩ phải làm thế nào để đưa chất lượng của
hoạt động khám phá khoa học đi lên. Và đó cũng là lý do tôi chọn đề tài “Một số

biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi khám phá khoa học tại Trường mầm non Thị Trấn
Triệu Sơn” để viết sáng kiến kinh nghiệm cho bản thân để bạn bè, đồng nghiệp cùng
tham khảo.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua đề tài này tôi muốn cùng bạn bè, đồng nghiệp trao đổi để cùng
nhau học hỏi những kinh nghiệm giảng dạy hay, phong phú, tìm ra những
phương pháp giảng dạy có hiệu quả cao, giúp cho trẻ khám phá được những điều
mới lạ ở thế giới xung quanh trẻ, khơi dậy cho trẻ những cảm xúc lành mạnh,
mang đến cho trẻ những tình cảm tốt đẹp, góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ …
giúp trẻ hứng thú hơn với hoạt động khám phá khoa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu các hoạt động khám phá khoa học của trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi tại lớp A3 - Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng lí thuyết
- Phương pháp điều tra và khảo sát thực tế nhóm lớp
- Phương pháp quan sát, thu thập thông tin
- Phương pháp vận dụng thực tiễn
- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu

2


2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết nền giáo dục của ta xuất phát từ “Tiên học lễ, hậu
học văn”. Bác Hồ đã nói “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục
mà nên”. Như vậy nhân cách con người phải được đặt nền móng ngay từ buổi
đầu tiên bước vào đời nhất là ở lứa tuổi mầm non.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, công tác giáo dục đào tạo thế hệ măng non những người chủ tương lai của đất nước đã, đang và sẽ là chủ trương lớn của
toàn Đảng, toàn dân. Để thực hiện tốt mục đích giáo dục này, cấp học mầm non
đã có những bước chuyển lớn nhằm góp phần đặt nền móng đào tạo con người
phát triển toàn diện - có đủ sức khoẻ, đủ trí tuệ, tài năng là những chủ nhân
tương lai của đất nước, lái con tàu Việt Nam ra đại dương sánh vai cùng các
cường quốc năm châu thoả lòng Bác hằng mong ước
Thông qua việc cho trẻ khám phá khoa học góp phần hình thành cho trẻ
những biểu tượng đúng đắn về các sự vật hiện tượng, giúp trẻ hiểu biết sơ đẳng
về những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, mối quan hệ, giá trị sử dụng và sự phát
triển của các sự vật hiện tượng xung quanh. Không những thế nó còn góp phần
hoàn thiện các giác quan, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc nhiều lần với đối tượng
trong quá trình khám phá khoa học. Quá trình nhận thức của trẻ được phát triển
đồng thời về ngôn ngữ và ghi nhớ. Bởi vậy những biểu tượng mà trẻ thu nhận
được thông qua hoạt động khám phá khoa học được cụ thể, chính xác, sinh động
và hấp dẫn hơn, do đó trẻ ghi nhớ và nhớ lâu hơn.
Không những thế, qua hoạt động khám phá khoa học giáo dục trẻ có tâm
hồn trong sáng, tính hồn nhiên, lòng nhân ái, yêu thương những người thân, kính
trọng cô giáo và người lớn, biết yêu quý và bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ truyền
thống văn hóa của quê hương đất nước, giáo dục trẻ yêu quí người lao động, biết
trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động, biết yêu quý cái đẹp, ghét cái xấu, cái
không tốt.
Hiểu được đặc điểm tâm sinh lý trẻ 5 - 6 tuổi là nhu cầu nhận thức và
phản ánh thế giới xung quanh của trẻ rất lớn vì “ Trẻ em là một thực thể đang
phát triển về nhiều mặt…” [7]. Trẻ luôn muốn biết, tìm hiểu mọi thứ và thường
đặt ra những câu hỏi để tìm hiểu về các sự vật và hiện tượng xung quanh. Thông
qua tổ chức hoạt động khám phá, giáo viên sẽ tạo cơ hội cho trẻ được tìm tòi,
khám phá, trải nghiệm, trẻ được hoạt động cùng nhau, hoạt động hợp tác giữa cô
và trẻ, hoạt động cá nhân kết hợp với hoạt động nhóm…điều đó có tác dụng to
lớn trong việc giúp trẻ phát triển nhận thức về các sự vật, hiện tượng xung quanh
và giáo dục thái độ đúng đắn với thiên nhiên, với xã hội cho trẻ. Đồng thời giúp

trẻ hình thành và phát triển các kỹ năng quan sát, kỹ năng tư duy, phân tích, tổng
hợp, khái quát, biết liên hệ những gì trẻ đã biết với những điều mới lạ.
Với phương châm “ Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để hỗ trợ trẻ đạt hiệu
quả cao trong học tập và phát triển nhận thức” [3].Từ đó chuẩn bị cho trẻ một
tâm thế tự tin, một hành trang vững chắc khi bước vào trường tiểu học tạo tiền
đề cho trẻ tiếp thu những kiến thức mới ở trường tiểu học sau này một cách có
hiệu quả.
2.2. Thực trạng.
3


* Thuận lợi:
- Trường đóng trên địa bàn Thị Trấn với phòng lớp rộng rãi, thoáng mát.
Lại là trường trọng điểm của huyện nên được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao về
chuyên môn.
- Trẻ lớp tôi phụ trách có 33 cháu trong đó có 19 trẻ nam và 14 trẻ nữ, các
trẻ đều cùng độ tuổi, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, tò mò ham hiểu biết.
- Phần lớn phụ huynh học sinh có quan tâm đến việc học của các cháu.
Nhà trường đã tạo điều kiện cho chị em giáo viên học tập các chuyên đề do Sở
giáo dục, Phòng giáo dục và đào tạo tổ chức, khuyến khích, động viên chị em
học tập, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, thường xuyên tổ chức thăm lớp, dự giờ
của các giáo viên trong trường để góp ý, đúc rút kinh nghiệm.
- Lớp A3 luôn được sự quan tâm của Ban Giám hiệu nhà trường, các cấp
uỷ Đảng và chính quyền địa phương luôn quan tâm chăm lo cho công tác giáo
dục.
- Bản thân tôi đứng lớp mẫu giáo lớn nhiều năm, đã đạt danh hiệu giáo
viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, luôn yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình, năng động.
Biết ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi vẫn còn một số khó khăn:

- Một số trẻ mới đi học năm đầu tiên nên chưa mạnh dạn, thiếu tự tin,
nhận thức của trẻ lại chênh lệch nhau nên việc truyền thụ kiến thức gặp rất nhiều
khó khăn.
- Hoạt động khám phá khoa học là một trong những hoạt động đòi hỏi
nhiều đồ dùng để cho trẻ được thực hành, trải nghiệm tuy nhiên đồ dùng chưa đa
dạng về chủng loại, màu sắc, số lượng đồ dùng vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng ít
nhiều đến việc học tập của các cháu.
- Mặt khác, phụ huynh ở trường tôi nghề nghiệp chủ yếu là buôn bán nhỏ
và làm nông nghiệp nên không ít phụ huynh chưa nhận thức được hết tầm quan
trọng của độ tuổi mẫu giáo, còn xem nhẹ việc học ở độ tuổi này nên hay cho con
nghỉ học tuỳ tiện, đi học muộn, thường hay lờ đi không trả lời các câu hỏi của
trẻ hoặc hạn chế trẻ trong việc khám phá các sự vật hiện tượng...
Những thực trạng trên gây khó khăn trong việc truyền thụ kiến thức của
cô và khả năng tiếp thu của trẻ đó là sự bất cập giữa gia đình và nhà trường.
Trước thực trạng đó ngay từ đầu năm khi được giao đứng lớp A3(5 – 6
tuổi) với tổng số trẻ là 33 cháu tôi đã tiến hành tìm hiểu khả năng nhận biết
của trẻ đối với các nội dung của hoạt động khám phá khoa học trên cơ sở đó
có biện pháp linh hoạt giúp đỡ trẻ, nội dung khảo sát như sau:

4


*Bảng khảo sát lần 1:

TT
1
2

3


4
5
6

Nội dung khảo sát
Khả năng nhận biết về các giác
quan, bộ phận cơ thể con người
Khả năng nhận biết về đồ dùng
đồ chơi, phương tiện giao thông
và chất liệu
Khả năng nhận biết về thế giới
thực vật, động vật xung quanh
trẻ
Khả năng nhận biết về các hiện
tượng tự nhiên
Khả năng nhận biết về gia đình,
một số ngành nghề phổ biến
trong xã hội
Khả năng nhận biết về các
danh lam thắng cảnh, lễ hội

Số
trẻ
KS

Mức độ đạt được
Đạt
Chưa đạt
Số
Số

(%)
(%)
trẻ
trẻ

33

19

57,5%

14

42,5%

33

15

45%

18

55%

33

14

42%


19

58%

33

12

36%

21

64%

33

13

39%

20

61%

33

12

36%


21

64%

Nhìn vào kết quả trên cho thấy hoạt động khám phá khoa học cho trẻ chưa
đạt được yêu cầu đề ra. Để đạt được mục tiêu giáo dục mầm non thì chúng ta
phải có sáng tạo trong phương pháp truyền thụ những kiến thức cho trẻ nhằm
nâng cao chất lượng cho trẻ hoạt động khám phá khoa học bằng việc tạo cơ hội
cho trẻ được thực hành, trải nghiệm các hoạt động khám phá các vật thật, thông
qua các hoạt động thực tiễn cụ thể là rất cần thiết.
2.3. Các biện pháp thực hiện để giúp trẻ 5 – 6 tuổi khám phá khoa
học tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.3.1. Biện pháp tạo môi trường cho trẻ khám phá, xây dựng cơ sở vật
chất và bổ sung đồ dùng đồ chơi.
Trẻ 5 – 6 tuổi thường đưa ra hàng loạt các câu hỏi về sự vật hiện tượng
của thế giới xung quanh, trẻ rất mong muốn tìm hiểu cái mới, làm rõ những cái
chưa rõ về đặc điểm, tính chất của các sự vật hiện tượng, ham muốn đi sâu vào
bản chất, tìm ra mối quan hệ giữa chúng [1].
Để tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên được khám phá khoa học thì cần
phải tạo môi trường cho trẻ được hoạt động, khám phá một cách đa dạng, phong
phú. Trong đó khuôn viên trong trường và ngoài trường cần đảm bảo đủ các yêu
5


tố cho trẻ trải nghiệm, khám phá thực tế theo yêu cầu cho phép, tránh hình thức,
gò bó.
Ví dụ: Trẻ được tìm hiểu các loại rau thì trong vườn trường có trồng vườn
rau xanh trẻ sẽ được đi tham quan, quan sát và tìm hiểu về ( đặc điểm, công
dụng, môi trường sống…) của các loại rau đó. Sau đó trẻ cùng thực hành nhổ cỏ,

bắt sâu, tưới nước…. cho rau, cho trẻ cùng quan sát hoạt động chế biến rau của
cô bác nhà bếp để biết được cách chế biến, tác dụng của rau… trẻ sẽ rất hứng
thú qua hoạt động thực tiễn này và từ đó những kiến thức trẻ tiếp thu được sẽ đa
dạng, dể hiểu, dể nhớ và lâu quên hơn góp phần phát triển nhận thức cho trẻ.
Đồng thời để giúp trẻ khám phá được tốt thì khâu chuẩn bị đầy đủ các đồ
dùng đồ chơi, đồ dùng trực quan để cho cô và trẻ hoạt động là rất quan trọng,
Tôi tham mưu với nhà trường trang bị thêm tranh cho trẻ khám phá, lô tô các
loại....Ngoài ra tôi còn tự làm đồ dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh, hình
ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa lá .... Sưu tầm tranh có hình ảnh đẹp sử dụng trong
việc cho trẻ khám phá khoa học. Tận dụng các hình ảnh ở đốc lịch, bìa, hoạ báo,
ảnh cũ .... Vừa trang trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi .
Tôi tận dụng bìa cát tông có dây dật thật sinh động, hấp dẫn, gây hứng thú
với trẻ. Sau đó để trẻ tự điều khiển , để trẻ biết con vật này có chân hay có cánh,
có chân thì biết chạy có cánh thì biết bay.
Tôi để cho trẻ tự làm một sản phẩm như tranh vẽ về các con vật, cỏ cây,
hoa lá, hoặc các sản phẩm nặn những đồ vật xung quanh trẻ, các sản phẩm tạo
hình, tranh từ những phế liệu, cô và trẻ cùng làm thể hiện vốn hiểu biết phong
phú của trẻ về môi trường xung quanh.
Tôi sưu tầm những bài thơ về môi trường xung quanh, sau đó dùng hình
ảnh minh hoạ và có chữ viết đi cùng. Vừa giúp trẻ củng cố hình ảnh vừa để trẻ
rèn luyện ngôn ngữ. Từ đó tư duy của trẻ cũng phát triển.
Với những đồ dùng, đồ chơi được phát và tự làm khi tôi đưa vào sử dụng
trong tiết dạy khám phá khoa học, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú học, trẻ
hiểu biết nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa ra, so sánh và
phân loại cũng rất rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ rất phát triển, trẻ thuộc rất
nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa, các
loại quả, loại rau…
Không những thế việc tạo môi trường và bổ sung đồ dùng đồ chơi cho
cho trẻ khám phá sẽ giúp trẻ hứng thú nhận thức, tập trung chú ý cao, thể hiện
tính độc lập trong giải quyết nhiệm vụ trí tuệ và thực hành. Trẻ trải nghiệm

những cảm xúc tích cực: ngạc nhiên, vui sướng với kết quả nhận thức, tự tin vào
bản thân nên cần thường xuyên tạo điều kiện cho trẻ khám phá.
Ví dụ: Khám phá về mặt trời - mặt trăng - các vì sao thì trẻ học về đặc
điểm như: màu sắc (mặt trời, mặt trăng và các vì sao thay đổi màu sắc như thế
nào); hình dạng (mặt trời hình tròn, mặt trăng khi tròn khi khuyết, vì sao nhiều
cánh); thời điểm xuất hiện (mặt trời xuất hiện ban ngày, mặt trăng và các vì sao
xuất hiện ban đêm); dấu hiệu thông báo về thời tiết (có mặt trời là trời hôm đó
nắng, có trăng –sao là ngày hôm sau nắng)….Tôi đưa ra các bức tranh, những
video về mặt trăng, mặt trời cho trẻ quan sát và khuyến khích trẻ về nhà quan sát
mặt trăng và các vì sao vào ban đêm…
6


2.3.2. Biện pháp xây dựng góc “ Bé với thiên nhiên ”.
Tôi xây dựng góc thiên nhiên bởi vì tôi nhận thấy cháu rất ham mê khám
phá khoa học nhất là những gì mới lạ và cháu thích được tự mình trải nghiệm
cho nên tôi quyết định xây dựng góc thiên nhiên theo từng chủ đề để thay đổi
đối tượng nghiên cứu hàng tuần cho cháu hứng thú khám phá.
Với chủ đề thực vật: Tôi xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như:
cây vạn niên thanh , cây hoa hồng, hoa giấy, giàn dây leo…để trẻ được chăm sóc
cây cối và làm thí nghiệm của trẻ: Nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước, gieo hạt, theo dõi
quá trình phát triển của cây….
Ví dụ : Tôi cho trẻ làm thí nghiệm: Cây nảy mầm từ hạt
Cho trẻ gieo hạt đậu, gieo hạt lạc... cho cháu tự tay chăm sóc và quan sát
hàng ngày. Có hộp xốp chứa đất để gieo trồng 2 - 3 loại rau để hàng ngày trẻ
tưới nước và tập chăm sóc.
Nếu như dạy trẻ trên máy tính, lô tô…. thì trẻ sẽ hiểu theo cách thụ động,
gò ép, hiệu quả giáo dục không cao. Nhưng bằng cách cho trẻ tham gia hoạt
động thực tiễn cùng thực hiện theo các bước làm đất, gieo hạt, tưới nước, chăm
sóc cây để trực tiếp theo dõi quá trình thay đổi và phát triển của cây từ hạt thì

kiến thức sẽ khắc sâu và hiệu quả với trẻ hơn rất nhiều.

Trẻ chăm sóc và quan sát góc thiên nhiên của lớp A3
2.3.3. Biện pháp gây hứng thú và lấy trẻ làm trung tâm để dạy trẻ trên
tiết học khám phá khoa học.
Việc gây hứng thú cho trẻ là rất cần thiết bởi trẻ có hứng thú thì mới tiếp
thu bài tốt nên trong quá trình tổ chức hoạt động khám phá cho trẻ nếu giáo viên
7


không dẫn dắt khéo léo, không linh hoạt khi tổ chức thì sẽ dẫn đến tình trạng
dạy khô khan và trẻ không hứng thú học. Vì vậy tôi luôn chú ý đến cách gây
hứng thú cho trẻ để thu hút được trẻ say mê với hoạt động. Với mỗi đề tài khi
cho trẻ khám phá khoa học tôi đều đầu tư cao về khâu chuẩn bị, dẫn dắt vào bài
hợp lý nhưng vẫn đảm bảo không bị sa đà , lệch nội dung. Gây hứng thú tôi có
thể sử dụng bài thơ, bài hát, câu chuyện hay mô hình…
Ví dụ: Ở chủ đề Bản thân
Đề tài: Tìm hiểu một số bộ phận cơ thể bé
Trước khi cho trẻ tìm hiểu tôi cho trẻ hát bài “ Nào chúng ta cùng tập thể
dục” để dẫn dắt vào bài một cách nhẹ nhàng. Hoặc trong tiết dạy làm quen với
con vật sống trong rừng.Tôi đưa ra câu đố cho trẻ đoán:
Bốn chân như bốn cột nhà
Hai tai ve vẩy, hai ngà trắng phau
Vòi dài vắt vẻo trên đầu
Trong rừng thích sống với nhau từng đàn"
Là con gì? (con voi)
Con gì nhảy nhót leo trèo
Mình đầy lông lá nhăn nheo làm trò
Là con gì? (con khỉ) [2]
Không chỉ gây hứng thú cho trẻ mà tôi “ luôn lấy trẻ làm trung tâm trong

các hoạt động, luôn đảm bảo hứng thú, nhu cầu, khả năng, thế mạnh của mỗi
đứa trẻ đều được hiểu, đánh giá đúng và được tôn trọng. Mỗi đứa trẻ đều có cơ
hội tốt nhất để thành công và mỗi đứa trẻ đều có các cơ hội để học bằng nhiều
cách khác nhau”[4] . Cô không nói nhiều mà chỉ là người dẫn dắt, gợi mở cho
trẻ, chú ý cho trẻ được thực hành trải nghiệm, phát huy tính tích cực của trẻ.
Ví dụ: Tiếp tục đề tài : Tìm hiểu một số bộ phận cơ thể bé
Sau khi gây hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ nói tên các bộ phận trên cơ thể
của bé, rồi cùng trẻ thực hành, làm thí nghiệm
- Cho trẻ nhắm mắt hỏi trẻ điều gì xảy ra? ( Không nhìn thấy gì)
- Cho trẻ mở mắt, con nhìn thấy gì? ( lọ nước hoa)
- Cho trẻ lên xịt nước hoa
- Hỏi các con có cảm nhận gì khác biệt? ( mùi thơm)
- Nhờ đâu con biết có mùi thơm? ( Nhờ mũi ngửi)
- Với các bộ phận khác như miệng tôi cho trẻ nếm quả, tai cho trẻ âm
thanh, khi bịt tai lại chuyện gì xảy ra? ( không nghe thấy gì)….
- Tay chân dùng để làm gì?... Từ đó giáo dục trẻ biết chăm sóc, bảo vệ các
bộ phận trên cơ thể, không chọc ngoáy, thường xuyên vệ sinh…
Để tạo cơ hội cho trẻ thực hành, trải nghiệm thì trong tiết học tôi đã sử
dụng vật thật cho trẻ khám phá, cho trẻ tiếp xúc trực tiếp với vật thật bằng cách
nhìn, sờ, nếm...và cảm nhận, qua đó trẻ trãi nghiệm bằng chính sự hiểu biết của
mình sẽ giúp trẻ hứng thú, ham tìm hiểu và ghi nhớ một cách có chủ định.
Tùy từng tiết học, từng chủ đề phù hợp tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan

8


sinh động, thực tế để cho trẻ quan sát, trải nghiệm hứng thú nhất. Tránh dạy
“chay”, dạy lí thuyết sáo rỗng không hợp lứa tuổi của trẻ sẽ làm trẻ không hứng
thú, biểu tượng mờ nhạt. Bằng các vật thật dễ tìm kiếm, sưu tầm, sẵn có trong
thực tế để tận dụng tối đa, sử dụng trong các hoạt động cho trẻ khám phá.

Ví dụ: Đề tài: Cho trẻ làm quen một số loại quả
- Ổn định tổ chức gây hứng thú : Cho trẻ đến tham quan vườn cây ăn quả
của bạn Minh. Hỏi trẻ trong vườn có những loại quả gì?
- Bạn Minh tặng cho các con 3 giỏ quà. Các con cùng nhau khám phá
món quà của bạn Minh nhé.
+ Cho các đội nhận quà và thảo luận về món quà đó
+ Đại diện của đội lên giới thiệu về món quà
+ Cô gợi ý để trẻ nhận xét về hình dạng, màu sắc, mùi vị, vỏ quả…?
+ Cho trẻ sờ để biết vỏ của quả như thế nào?
+ Cho trẻ nếm để cảm nhận về vị
+ Cho trẻ ngửi để nhận biết mùi
+ Các đội khác có ý kiến bổ sung
+ Cô nêu kết luận chung về quả đó
+ Giáo dục trẻ về lợi ích của các loại quả và thói quen vệ sinh.
Sau khi sử dụng biện pháp đưa các vật thật vào trong giờ học đã mang lại
cho tôi hiệu quả tích cực, 100% trẻ đã tham gia hoạt động trải nghiệm một cách
hứng thú và tích cực, 90 – 95 % trẻ học đạt yêu cầu.
2.3.4. Biện pháp tận dụng các tình huống có vấn đề, thiết kế các thí
nghiệm vui cho trẻ tham gia.
Việc cho trẻ khám phá khoa học bằng các vật thật thông qua các hoạt
động thực tiễn muốn đạt hiệu quả như mong muốn giáo viên cần chủ động tận
dụng các tình huống sẵn có trong thực tế gợi mở cho trẻ giải quyết bằng hoạt
động thực tiễn chính trên đối tượng đang diễn ra, tạo cho trẻ được trực tiếp
tương tác trên đối tượng thì kết quả thu được từ việc khám phá của trẻ sẽ rất
hiệu quả.
Bên cạnh đó giáo viên cần thiết kế các thí nghiệm vui để trẻ thao tác trên
đồ dùng để giúp trẻ khám phá khoa học đây cũng là cây cầu nối giúp trẻ tìm hiểu
thế giới xung quanh.
Ví dụ: Thí nghiệm “Nước sẽ thay đổi như thế nào” ở chủ đề “nước và
một số hiện tượng tự nhiên”

- Cho trẻ hát bài hát: “ Cho tôi đi làm mưa với” và trò chuyện với trẻ về
những cơn mưa và các nguồn nước.
Cô cùng trẻ làm thí nghiệm vui: Cô và trẻ rót nước đun sôi để nguội vào
các cốc nước có đánh số từ 1 đến 4. Cho trẻ quan sát, nếm, ngửi mùi và nhận xét
xem nước có màu, mùi vị như thế nào? Và đoán xem nước sẽ thay đổi như thế
nào khi cô pha đường, muối, nước cam vào cốc nước. Cô pha đường, muối,
nước cam vắt lần lượt vào các cốc nước từ 1 đến 3, sau đó cho trẻ nếm thử các
cốc nước đã pha, cho trẻ nhận xét và so sánh với cốc số 4 và cô cho trẻ giải thích
sự thay đổi đó theo suy nghĩ của bản than trẻ [6].

9


Trẻ cùng làm thí nghiệm về nước
Từ việc làm thí nghiệm trên trẻ rút ra bài học: Nước trong suốt không có
màu, mùi, vị. Đường có vị ngọt, khi hòa tan vào nước làm nước có vị ngọt, muối
có vị mặn nên khi pha vào nước thì nước có vị mặn, khi pha nước cam vào nước
thì nước sẽ có màu vàng và vị ngọt…
Tôi tiếp tục cho trẻ làm thí nghiệm để nhận biết về các dạng của nước như
lỏng, hơi, cứng. Bằng cách cho trẻ quan sát nước đang sôi để biết nước bốc hơi,
trở lại thành nước khi không đun nữa bằng cách cho hơi nước bám vào mặt kính
và cho trẻ sờ.
Cho trẻ phát hiện ra đá lạnh vì sờ thấy lạnh và cứng, biết nguồn gốc của
đá lạnh là cho nước vào khay rồi cho vào tủ lạnh sẽ làm cho nước đông lại thành
đá. Bỏ đá vào nước, đá sẽ tan ra làm cho nước mát…
Ví dụ: Đề tài: Môi trường sống của cây
Tôi cho trẻ làm thí nghiệm: Tưới 2 loại nước (nước ngọt, nước mặn) lên hai
cây con. Thấy cây tưới nước mặn bị chết, do cây này không thích muối, còn cây
tưới nước ngọt thì sống xanh tốt.
Hay thí nghiệm theo dõi sự lớn lên của cây

- Cho trẻ ngâm hạt vào trong nước ấm khoảng 1-2 tiếng đồng hồ, sau đó
vớt lấy hạt và gieo vào 5 hộp xốp có đựng đất.
Khi hạt được gieo vào đất, được tưới nước hàng ngày thì hạt sẽ nảy mầm.
Khi hạt đã nảy mầm thì cho trẻ trò chuyện về quá trình gieo hạt và nảy mầm . Cho
trẻ đoán xem cây cần gì để lớn lên và phát triển sau đó cô và trẻ lần lượt tiến
hành làm các thí nghiệm:
Cây 1: Cho cây vào trong hộp kín
Cây 2: Dùng ni lông bọc kín phần cây và thân cây
Cây 3: Để cây vào chậu không có đất
Cây 4: Hàng ngày không tưới nước
Cây 5: Chăm sóc cây bình thường
Cô cho trẻ đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra?
Hàng ngày cho trẻ tưới nước cho cây 1,2,3,5 bình thường còn cây 4 thì không
tưới. Sau một thời gian cô và trẻ cùng quan sát 5 cây, nhận xét kết quả thí nghiệm
10


và giải thích các hiện tượng xảy ra ở các cây và so sánh với 5 cây và chỉ có cây 5 là
phát triển bình thường, còn các cây còn lại bị héo, lá úa, vàng lá và chết.
Từ thí nghiệm, đó trẻ biết được quá trình phát triển của cây, biết điều kiện
sống của cây, cây cần gì để lớn lên và phát triển, giáo dục trẻ biết chăm sóc và
bảo vệ cây, biết cây cần đủ bốn yếu tố: nước, không khí, ánh sáng và đất, thiếu 1
trong 4 yếu tố trên thì cây sẽ bị héo úa, vàng lá, và chết
2.3.5. Biện pháp sử dụng các câu hỏi kích thích trẻ tư duy.
Việc đặt câu hỏi cho trẻ như thế nào là rất cần thiết, nó góp phần phát
triển tư duy cho trẻ, kích thích sự tò mò khám phá, tìm hiểu các sự vật hiện
tượng xung quanh trẻ, giúp cho những kiến thức mà giáo viên mang đến sẽ khắc
sâu trong trí nhớ của trẻ.
Vì vậy tôi thường xuyên đặt ra các câu hỏi có vấn đề để gây hứng thú,
kích thích tư duy, kích thích suy nghĩ của trẻ, tạo cho trẻ được quan sát, được đặt

câu hỏi, dự đoán, được nêu lên ý kiến của mình.
Ví dụ: Câu hỏi khai thác hiểu biết của trẻ:
- Con biết gì về cây đào này?
- Câu hỏi hướng sự tập trung, chú ý, quan sát: Đây là bộ phận gì?
- Câu hỏi kích thích trẻ tư duy, suy luận: Tại sao con ong đến đậu vào
bông hoa? Nụ hoa này sẽ thế nào vào ngày mai?...Khuyến khích trẻ tự tìm hiểu
bằng nhiều cách khác nhau
- Con đang làm gì? Làm thế nào con biết được điều này?
- Chúng khác nhau ở điểm nào? Tại sao?
- Con có thể làm cách nào nữa?
- Nếu đặt nam châm gần sắt thì hiện tượng gì sẽ xảy ra?
- Nếu bỏ nước vào tủ lạnh thì hiện tượng gì sẽ xảy ra?...
2.3.6. Biện pháp dạy trẻ khám phá ở mọi lúc mọi nơi.
Không chỉ dừng lại ở việc cho trẻ khám phá những sự vật, hiện tượng
xung quanh cuộc sống bằng những phương pháp thực hiện trên tiết học mà tôi
còn tận dụng tất cả các hình thức, ở mọi lúc mọi nơi mà tôi cảm thấy hợp lí vì
môi trường cho trẻ hoạt động ngoài tiết học rất phong phú, hấp dẫn trẻ, từ đó
giúp trẻ được tìm hiểu về các sự vật hiện tượng mà trẻ chưa được khám phá, trải
nghiệm, hoặc trẻ được khắc sâu hơn, hiểu sâu hơn, củng cố các kiến thức mà trẻ
đã có và điều cơ bản là để trẻ tự khám phá, thực hành trải nghiệm thông qua
chơi vì trẻ “học bằng chơi, chơi mà học”.
*Thông qua hoạt động góc.
“Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các trò chơi tạo ra một nền tảng mạnh
mẽ cho việc phát triển nhận thức, sự sáng tạo, kiến thức học thuật, cách giải
quyết vấn đề….Việc chơi còn tạo cơ hội cho trẻ phát trẻ phát triển các khả năng
như: quan sát, so sánh, phân loại, ghi nhớ, tập trung, tưởng tượng, giải quyết vấn
đề, sự hợp tác và các kỹ năng xã hội khác” [5].
Ví dụ: Ở các góc đóng vai mang lại cơ hội cho trẻ khi trẻ giả vờ làm
người lớn hoặc người nào đó trong cuộc sống hàng ngày và đóng vai nhiều nghề
nghiệp khác nhau trong xã hội như: Bán hàng, thợ xây, lắp ghép, công an...


11


Trẻ tham gia hoạt động góc
*Thông qua giờ hoạt động ngoài trời.
Trong các giờ hoạt động ngoài trời trẻ được tìm hiểu, khám phá về các sự
vật hiện tượng xung quanh mà trong tiết học ở lớp trẻ chưa được khám phá và
trải nghiệm. Qua các hoạt động khám phá ở ngoài trời tạo cho trẻ không khí
thoải mái và hứng thú thêm về sự vật hiện tượng, vì thế ngoài kiến thức trẻ được
biết trong tiết học chính thì những khám phá trải nghiệm ngoài trời được sử
dụng một cách có hiệu quả.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát về vườn rau của trường hay vườn cổ tích tôi cho
trẻ trực tiếp ra vườn quan sát và nhận xét giúp trẻ nhận xét chính xác hơn, nhớ
lâu hơn. Sau đó cho trẻ cùng nhau nhổ cỏ cho khu vườn thêm sạch đẹp, trẻ rất
hứng thú và tích cực tham gia.
Trẻ tìm hiểu về các loại rau
Vì thế khi trẻ tham gia hoạt động ngoài trời tôi tạo điều kiện thuận lợi cho
trẻ sử dụng khả năng tư duy, khuyến khích trẻ vận dụng những kinh nghiệm và
hiểu biết vào những tình huống chơi tương tự, tạo ra các tình huống có vấn
đề với những thách thức mới được nảy sinh trong qúa trình chơi, tập trung vào
sự tham gia của trẻ, khuyến khích trẻ đưa vào các ý tưởng sáng tạo trong khi
chơi...
2.3.7. Biện pháp cho trẻ khám phá khoa học thông qua các môn học
khác.
Thông qua giờ tạo hình trẻ tái tạo lại những gì đã hiểu biết về đối tượng.
Ví dụ: Cho trẻ “Vẽ hoa mùa xuân”. Cô và trẻ cùng trò chuyện về hoa mùa
xuân cô có thể hỏi: Mùa xuân đến có những loại hoa gì, đặc điểm như thế nào?
và cho trẻ vẽ hoa mùa xuân.
Thông qua giờ thơ - chuyện: Muốn dẫn dắt trẻ vào câu chuyện hoặc bài

thơ có nội dung trọng tâm về đối tượng nào đó, cô dùng đối tượng đó quan sát
đàm thoại sau đó vào bài dạy.
Ví dụ: Cho trẻ đọc bài thơ "Cây dừa”.
Cho trẻ quan sát và đàm thoại về cây dừa sau đó dạy trẻ đọc thơ
Hay cô kể đoạn chuyện “cậu bé mũi dài” rồi dẫn dắt trẻ vào bài
Thông qua giờ âm nhạc khi cho trẻ ca hát về chủ điểm nào đó có thể cho
trẻ quan sát tranh hoặc học vật thật.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Phương tiện và luật lệ giao thông” với bài
“Đường em đi” cô cho trẻ quan sát bức tranh và hỏi trẻ em đang đi ở phía bên
nào? Khi đi trên đường các con phải đi về phía bên nào?
Ví dụ: Cho trẻ làm quen với các phương tiện giao thông đường bộ, sau
khi cho trẻ quan sát và nhận xét về các phương tiện thì cô cho trẻ cùng đếm các
phương tiện giao thông đường bộ xem có bao nhiêu phương tiện…
2.3.8. Biện pháp tổ chức hiệu quả các hoạt động tham quan, dã ngoại
cho trẻ 5 - 6 tuổi.
12


Với các nội dung về xã hội như hoạt động, lao động của con người, các
công trình công cộng hay về thế giới động vật, thực vật, tôi tổ chức cho trẻ đi
tham quan. Biện pháp tổ chức cho trẻ đi tham quan là phương pháp vô cùng hiệu
quả để giải quyết vấn đề trẻ khám phá khoa học bằng hoạt động thực tiễn. Hoạt
động tham quan, dạo chơi vô cùng phong phú gắn liền với cuộc sống nếu được
tổ chức chu đáo trẻ sẽ được tự mình trải nghiệm những điều thú vị từ cuộc sống
muôn màu bằng vật thật.
Trước khi cho trẻ tham quan tôi kiểm tra địa điểm tham quan trước, xác
định đối tượng cần thiết cho trẻ quan sát, xác định trình tự quan sát, nội dung
khối lượng tri thức mà trẻ cần lĩnh hội. Quan tâm đến sức khỏe của trẻ, chuẩn bị
các dụng cụ cần thiết, trang phục cho trẻ phù hợp với thời tiết, vận động…
Ví dụ: Cô có thể tổ chức cho trẻ tham quan cánh đồng lúa hay nông trại

của bác nông dân.
Với sự chuẩn bị chu đáo nhờ sự phối hợp với bác nông dân có thể cho trẻ
một ngày trải nghiệm thú vị.Trẻ sẽ được tham gia các hoạt động thực tế như :
Cho cá ăn, làm đất gieo hạt, thu hoạch rau quả, chăm sóc gia cầm…. Nhất định
những kiến thức trẻ thu lượm được vô cùng phong phú...
2.3.9. Biện pháp kết hợp chặt chẽ với phụ huynh.
Ngay từ đầu năm học tôi đã chủ động họp phụ huynh để trao đổi về một
số hoạt động giúp cho trẻ khám phá khoa học. Lập kế hoạch phối kết hợp với
phụ huynh phù hợp với điều kiện của trường, lớp theo đúng với chủ đề. Trao đổi
với phụ huynh về phương thức, cách thức cho trẻ tiếp xúc khám về các đồ vật,
sự vật, hiện tượng xung quanh khi trẻ ở gia đình.
Trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng cho trẻ khám phá thế giới
xung quanh bằng vật thật thông qua hoạt động thực tiễn hàng ngày góp phần
khắc sâu cho trẻ về hiểu biết, hình thành biểu tượng của trí nhớ, tư duy đồng
thời cung cấp những kĩ năng cần thiết với trẻ.
Ví dụ: Khi chơi các đồ chơi như máy bay, ô tô, tàu hỏa… bố mẹ có thể
hỏi: Đây là cái gì? Dùng để làm gì? Nó chạy ở đâu?
Hay khi trời mưa phụ huynh cùng trẻ trò chuyện về bầu trời trước khi
mưa, gió, ích lợi của nước mưa cũng như tác hại khi mưa nhiều thì gây lũ lụt…
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với bản thân.
Tất cả giáo viên ở tổ mẫu giáo lớn nói chung và bản thân tôi nói riêng đều
được nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động khám phá khoa học. Đặc biệt
là đã nắm vững nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức của hoạt động này.
Khác hẳn với trước đây, theo chương trình giáo dục mầm non hiện nay
luôn lấy trẻ làm trung tâm nên giờ hoạt động khám phá khoa học bây giờ là một
niềm say mê, sáng tạo của giáo viên, muốn thể hiện trí tuệ, năng lực của mình
qua một tiết dạy sinh động, hấp dẫn trẻ và đạt hiệu quả cao hơn trước đây rất
nhiều.

Bản thân tôi là một tổ trưởng chuyên môn khối mẫu giáo lớn nên tôi càng
xác định rõ trách nhiệm của mình, không ngừng phấn đấu, học hỏi ở bạn bè
đồng nghiệp, qua các phương tiện công nghệ thông tin ....để nâng cao năng lực
13


chuyên môn, học hỏi những phương pháp giảng dạy hay, gương mẫu trong công
việc để đạt được kết quả cao hơn nữa trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ,
đặc biệt với hoạt động khám phá khoa học.
2.4.2. Đối với đồng nghiệp và nhà trường.
- Sau khi nghiên cứu về tầm quan trọng của việc giúp trẻ 5 - 6 tuổi khám
phá khoa học với vai trò là một tổ trưởng chuyên môn khối mẫu giáo tôi đã trao
đổi cùng đồng nghiệp trong trường thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn
của trường, của tổ chuyên môn, qua đó 100% đồng nghiệp trong tổ và nhà
trường đã hiểu được bản chất của vấn đề khi giúp trẻ khám phá khoa học, từ đó
phối kết hợp chặt chẽ với nhau trong chuyên môn để có phương pháp, biện
pháp, hình thức giáo dục phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo
dục trẻ cũng như hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh.
- Ngoài ra chất lượng tổ chức hoạt động khám phá khoa học của đồng
nghiệp được nâng lên rõ rệt, các đồng nghiệp không còn ngại khi tổ chức hoạt
động khám phá khoa học cho trẻ nữa mà hoạt động khám phá đó trở thành sự
trãi nghiệm hứng thú đối với cả cô và trẻ, góp phần nâng chất lượng giáo dục
của nhà trường nói chung.
2.4.3. Đối với trẻ.
- 100% trẻ tích cực, chủ động tham gia hoạt động thực hành, trải nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng tại lớp A 3, khối mẫu giáo lớn
cho đối tượng 5 – 6 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
Kết quả cụ thể sau khi áp dụng các biện pháp trên trong năm học vừa
qua như sau:
* Kết quả của trẻ lần 2:

T
T

Nội dung khảo sát

1 Khả năng nhận biết về các giác
quan, bộ phận cơ thể con người
2 Khả năng nhận biết về đồ dùng đồ
chơi, phương tiện giao thông và
chất liệu
3 Khả năng nhận biết về thế giới thực
vật, động vật xung quanh trẻ
4 Khả năng nhận biết về các hiện
tượng tự nhiên
5 Khả năng nhận biết về gia đình,
một số ngành nghề phổ biến trong
xã hội

Số trẻ
KS

Mức độ đạt được
Đạt
Chưa đạt
Số
Số trẻ (%)
(%)
trẻ

33


33

100%

0

0

33

32

97%

1

3%

33

33

100%

0

0

33


32

97%

1

3%

33

33

100%

0

0
14


6

Khả năng nhận biết về các danh
lam thắng cảnh, lễ hội

33

31


94%

2

6%

Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy chất lượng cho trẻ khám phá khoa
học được nâng cao rõ rệt, trẻ được chủ động, hứng thú, tích cực tham gia các
hoạt động thực hành, trải nghiệm nên những kiến thức trẻ lĩnh hội được rất đa
dạng, phong phú và vững chắc hơn, giúp trẻ nhận thức tốt hơn về các sự vật hiện
tượng.
Mặt khác tôi rất vui khi phụ huynh quan tâm hơn đến trẻ, cùng cô cung
cấp nguyên vật liệu cho trẻ hoạt động, tạo điều kiện cho trẻ cùng tham gia hoạt
động trải nghiệm phù hợp với trẻ khi ở nhà, cho trẻ dạo chơi tham quan các di
tích lịch sử để làm giàu thêm vốn hiểu biết cho trẻ...

15


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện tôi rút ra được một số bài học bổ
ích như sau:
- Trước hết, khi thực hiện một hoạt động nào đó thì khâu chuẩn bị là rất
quan trọng, trẻ phải có được đủ đồ dùng để hoạt động. Nhưng chỉ đồ dùng thôi
không đủ mà cô còn phải chuẩn bị về tác phong sư phạm, gần gũi trẻ, về ngôn
ngữ sử dụng…để đưa trẻ vào hoạt động tích cực và hăng say hơn.
- Trong quá trình giảng dạy luôn lấy trẻ làm trung tâm cho mọi hoạt động,
cô chỉ là người dẫn dắt, gợi mở, tránh nói nhiều, làm hộ cho trẻ mà để trẻ phải tự
mình hoạt động thực hành, trải nghiệm.

- Cô giáo nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí của trẻ từ đó biết nhu cầu,
hứng thú, khả năng của trẻ để tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động theo phương
châm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm và thiết kế các hoạt động khám phá khoa
học bằng vật thật hiệu quả nhất.
- Bám sát vào nội dung yêu cầu, dạy đúng trọng tâm của bài , lồng ghép
các môn học đúng lúc, đúng chỗ tạo sự thoải mái nhẹ nhàng cho trẻ, tránh ôm
đồm quá nhiều dẫn đến tiết học bị rời rạc, không rõ trọng tâm. Linh hoạt và
sáng tạo khi tổ chức các hoạt động cho trẻ khám phá khoa học bằng vật thật
thông qua các hoạt động thực tiễn dựa vào điều kiện thực tế sẵn có của địa
phương, tránh xa vời, gò ép trẻ.
- Thường xuyên rèn luyện các thói quen nề nếp nói chung và nề nếp học
tập nói riêng cho trẻ.
- Giáo viên biết sử dụng đồ dùng đồ chơi sáng tạo. Giới thiệu vào bài một
cách tự nhiên, sinh động, thu hút được sự chú ý của trẻ, các bước chuyển tiếp
nhẹ nhàng, liên kết.
- Ứng dụng thành thạo công nghệ thông tin vào trong các hoạt động để
giúp trẻ học hứng thú, phát huy tối đa tính tích cực, chủ động của trẻ.
- Cần quan tâm gần gũi trẻ, khuyến khích để trẻ chủ động phát huy tính
độc lập trong bộ môn và tập luyện bồi dưỡng thêm cho trẻ.
- Cô giáo truyền đạt kiến thức cho trẻ thật đơn giản, dễ hiểu không phức
tạp làm trẻ khó hiểu, khi cùng trẻ khám phá cô hãy là người bạn ân cần, cởi mở
giúp trẻ thấy hào hứng và gần gũi hơn.
- Tuyên truyền hiệu quả với phụ huynh để phụ huynh có tầm nhìn đúng
đắn về cách giáo dục trẻ mầm non, không cao xa, phức tạp như trên sách vở mà
quan trọng là những điều gần gũi, thiết thực xung quanh trẻ.
3.2. Kiến nghị.
- Để giúp trẻ khám phá khoa học đạt kết quả tốt thì không thể thiếu cơ sở
vật chất, trang thiết bị phù hợp cho trẻ hoạt động vì vậy nhà trường tham mưu
16



với các cấp lãnh đạo để trang bị thêm những trang thiết bị cho trẻ thực hành,
khám phá, trãi nghiệm.
Một mặt, nhà trường cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá công tác chăm
sóc giáo dục trẻ nói chung và hoạt động dạy trẻ khám phá khoa học nói riêng
của giáo viên.
- Phòng giáo dục nên tổ chức các buổi thảo luận, dự giờ mẫu để giáo viên
học hỏi những kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy hay để nâng cao chất lượng
giảng dạy.
Cần tuyên truyền cho các bậc phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng của việc
giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh, từ đó có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường và gia đình, thống nhất với nhau về nội dung và biện pháp giáo dục.
Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ 5 – 6 tuổi khám phá khoa học tại
nhóm lớp tôi giảng dạy. Mặc dù có nhiều cố gắng song bản sáng kiến này của tôi
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các cấp lãnh đạo bổ sung để sáng
kiến này hoàn chỉnh hơn./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
của người khác. Nếu sai tôi xin chịu
trách nhiệm trước Hội đồng khoa học
các cấp.
Người thực hiện

Lê Thị Yên

17



18


19



×