1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi
lành mạnh cho phép bạn đối mặt với những thách thức của cuộc sống hằng ngày,
kỹ năng sống bắt nguồn từ cuộc sống, nhưng không phải chỉ là những kỹ năng
để sống mà là công cụ để một người đạt đến thành công trong cuộc sống cá
nhân, công việc và cuộc sống xã hội.[1]
Nhà tâm lý W.Mthackeray đã nói: “Gieo hành vi, gặt được thói quen” Ở
lứa tuổi mầm non hành vi nhận thức của trẻ giống như tờ giấy trắng. Khi gieo
lên đó những mầm nhân cách nào thì nó sẽ hình thành thói quen đó cho trẻ sau
này, muốn trẻ hình thành được thói quen tích cực thì phải thông qua hoạt động
trải nghiệm và thích nghi. Ngày nay cuộc sống tấp nập hơn cha mẹ mải lo kiếm
thật nhiều tiền mà họ đã quên mất đến việc chăm sóc và dạy con cái. Họ thuê
giúp việc chăm sóc con họ và yêu cầu giúp việc bón cơm, tắm rửa mặc quần
áo..... mặc dù những công việc đó con họ có thể tự làm được. Luôn bao bọc,
nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác
và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế. Khó khăn cho trẻ trong việc có tình
huống bất ngờ xảy ra.
Chúng ta muốn con trẻ lớn lên trở thành những con người tốt, sống có
sức khỏe, bản lĩnh, có đủ phẩm chất và năng lực làm việc, trước hết chúng ta cần
quan tâm đến việc chăm sóc, giáo dục con trẻ ngay ở độ tuổi mầm non. Không
chỉ dạy cho con trẻ những kiến thức về tự nhiên và xã hội mà chúng ta cần phải
dạy cho con những kỹ năng sống đơn giản ngay từ tuổi mầm non. Giúp trẻ luôn
cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Biết giới thiệu về bản thân và
gia đình mình trước đám đông, biết mình đang học lớp nào, thích cái gì và địa
chỉ nhà mình ở đâu. Nhận biết các ưu khuyết điểm của bản thân. Biết cách ứng
xử với mọi người xung quanh. Học cánh lắng nghe mọi người và đối đáp. Nhận
biết những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng
(trong sân trường, công viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp người lạ,…)
Nhận thức được vấn đề bồi dưỡng, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm
Non nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ một cách
toàn diện là một vấn đề rất quan trọng, vì vậy trong thời gian tới lớp tôi sẽ có
những cách làm mới, nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ và đây là việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng của trẻ trong
lớp được tốt hơn. Xuất phát từ những vấn đề trên nên bản thân tôi là giáo viên
mầm non, tôi suy nghĩ rằng việc dạy kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm
non là một việc làm rất cần thiết và cực kỳ quan trọng nên tôi lựa chọn đề tài
“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
5-6 tuổi tại trường mầm non thị trấn Triệu Sơn” làm đề tài nghiên cứu trong
năm học 2016-2017.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở kỹ năng sống của trẻ trong độ tuổi mầm non hiện nay ảnh
hưởng lớn đến việc phát triển toàn diện của trẻ sau này, bản thân tôi đã tìm tòi
1
ra các giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm rèn luyện và hình
thành kỹ năng sống cho trẻ và thông qua đó nâng cao chất lượng kỹ năng sống
cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non thị trấn Triệu Sơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tại trường mầm non thị trấn Triệu Sơn
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết từ sách vở, tài liệu.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế thu thập thông tin.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp luyện tập, thực hành.
- Phương pháp thống kê, sử lý số liệu.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp sử dụng tình huống.
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non thị trấn Triệu Sơn.
Trong hệ thống giáo dục, giáo dục mầm non có một vị trí đặc biệt quan
trọng trong việc đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất
lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo.Vì vậy giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm
vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức,
thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành nên nhân cách con người mới XHCN
Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học
được tốt.
Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho
một nền giáo dục tốt”. Trường mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục các cháu, bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích.
Kỹ năng sống là cách ứng xử tích cực, cần thiết để có cuộc sống an toàn,
khỏe mạnh và hiệu quả. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO 2003), đó là “Kỹ năng
mang tính tâm lí xã hội, là các khả năng thích ứng và là hành vi tích cực cho
phép các cá nhân giải quyết có hiệu quả nhu cầu và thách thức trong cuộc
sống hàng ngày”.[2]
Giáo dục kỹ năng sống có tác dụng nâng cao nhận thức, trang bị thái độ
sống và hành vi tích cực, lành mạnh cho trẻ. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là
một hình thức can thiệp sớm, có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa những
hành vi lệch lạc của trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 6 tuổi.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã
hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm
giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực
thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình biết được những điều nên làm và không
nên làm trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống [1]. Các kỹ năng sống
khác nhau theo địa lý, thời gian…
Ví dụ: như trẻ em vùng biển thì có một số kỹ năng sống khác với trẻ em
vùng núi, kỹ năng sống của trẻ em thành phố khác với kỹ năng sống trẻ em nông
thôn, kỹ năng sống của trẻ em ngày xưa khác với kỹ năng sống trẻ em bây giờ…
Kỹ năng sống chỉ được hình thành thông qua giáo dục, đào tạo và rèn luyện. Các
kỹ năng sống có liên quan và hỗ trợ cho nhau. Ví dụ: kỹ năng tư duy sáng tạo
giúp cho con người tăng khả năng giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định.
Giáo dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho trẻ nhỏ giúp
cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một
cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin bước vào giai đoạn tiểu học[5]. Kỹ năng
sống của trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng : Kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng vệ
sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác chia sẻ.......
Một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng giao
tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng
xử phù hợp và biết cách tự giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập rất quan
3
trọng đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép dạy kỹ năng sống cho trẻ
phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi Mầm non vô cùng cần thiết và quan trọng
hàng đầu.
2.2. Thực trạng chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi tại
trường mầm non thị trấn Triệu Sơn.
2.2.1. Thuận lợi:
Là trường Mầm Non nằm ở địa bàn thị trấn nên thuận lợi cho trẻ đi lại và
đảm bảo các điều kiện cho trẻ được học tập, vui chơi, trải nghiệm...
Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ theo quy định
cho độ tuổi.
Cô giáo được tham gia các lớp chuyên đề về giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ
Giáo viên xây dựng kế hoạch ngay từ đầu năm học, lồng ghép chuyên đề
về giáo dục kỹ năng sống vào kế hoạch dạy trẻ cụ thể
2.2.2. Khó khăn:
Số học sinh tương đối đông nên ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt
động học tập của trẻ
Học sinh đa số được phụ huynh nuông chiều quá mức nên ảnh hưởng rất
lớn đến công tác giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ.
Giáo viên cùng lớp còn trẻ nên chưa mạnh dạn, chưa dám đề xuất các giải
pháp để nâng cao chất lượng giáo dục trẻ về kỹ năng sống.
Một số phụ huynh chỉ quan tâm đến việc học văn hoá của con mà không quan
tâm đến việc dạy các kỹ năng sống cho trẻ nên một số trẻ rất ương bướng và khó
bảo.
2.2.3. Khảo sát thực trạng chất lượng trước khi thực hiện đề tài:
Để việc nghiên cứu đạt hiệu quả, ngay từ đầu năm học tôi có làm một
cuộc khảo sát nhằm đánh giá vốn kỹ năng sống hiện tại của trẻ lớp tôi trước khi
thực hiện đề tài
* Kết quả khảo sát trẻ về vốn kỹ năng sống đầu năm học (Khi chưa áp
dụng các biện pháp)
ST
T
Nội dung khảo sát
Tổng
Đầu năm ( tháng 9)
số trẻ
Đạt
Chưa đạt
được
Số
Tỉ lệ
khảo Số trẻ Tỉ lệ
%
trẻ
%
sát
1
Kỹ năng mạnh dạn, tự tin
35
20
57%
15
43%
2
Kỹ năng hợp tác, chia sẻ
35
19
54%
16
46%
3
Kỹ năng giao tiếp lịch sự, lễ phép
35
20
57%
15
43%
4
Kỹ năng vệ sinh cá nhân
35
20
57%
15
43%
4
5
Kỹ năng thích khám phá học hỏi
35
18
51%
17
49%
6
Kỹ năng lao động tự phục vụ
35
18
51%
17
49%
7
Kỹ năng bảo vệ bản thân
35
16
46%
19
54%
8
Kỹ năng ứng xử phù hợp với
những người gần gũi xung quanh
35
20
57%
15
43%
9
Kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã
hội
35
18
51%
17
49%
10 Kỹ năng thích nghi với môi
trường sống
35
21
60%
14
40%
Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy số trẻ đến lớp chưa thật sự tự tin, trẻ còn
nhút nhát, chưa mạnh dạn, các kỹ năng về giao tiếp, kỹ năng hợp tác chia sẻ, kỹ
năng tự lập ( Kỹ năng tự phục vụ còn hạn chế rất nhiều)
Đứng trước tình hình thực trạng của lớp tôi. Tôi luôn suy nghĩ làm thế nào
để nâng cao được chất lượng giáo dục kỹ năng sống( Đặc biệt là kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ) Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đề xuất “ Một số biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non thị trấn
Triệu Sơn”.
2.3. Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non thị trấn Triệu Sơn.
Sau khi được đồng chí Ngô Ngọc Phượng chủ tịch công đoàn ngành giáo
dục huyện Triệu Sơn triển khai hội thảo kỹ năng sống và được ban giám hiệu
trường bồi dưỡng về nội dung hướng dẫn trẻ kỹ năng tập làm một số công việc
tự phục vụ trong đó có 31 kỹ năng cơ bản cần có trong trường mầm non. Tôi đã
đưa ra các giải pháp thực hiện sau.
2.3.1. Tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức về kỹ năng sống:
Việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức về kỹ năng sống nói riêng và nâng
cao trình độ nói chung là việc làm thường xuyên, liên tục không thể thiếu của
mỗi giáo viên để đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện nay.[5]
Ngay từ khi bước vào năm học, nắm được nhiệm vụ trọng tâm của năm
học trong đó nhấn mạnh việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Bản thân tôi xác
định được việc muốn nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
thì trước tiên giáo viên phải có nhận thức hơn ai hết về những nội dung dạy trẻ
kỹ năng sống. Để giúp bản thân có vốn kinh nghiệm nhận thức sâu sắc về việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ thì việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng là một việc làm
không thể thiếu. Chính vì vậy tôi tự lên kế hoạch bồi dưỡng cho bản thân như
sau:
+ Tìm tài liệu tham khảo về những hoạt động dạy trẻ kỹ năng sống trong
trường mầm non.
+ Bồi dưỡng về lý thuyết: Qua khảo sát học sinh về các kỹ năng sống.
5
Tôi nhận thấy trẻ của lớp mình một số kỹ năng còn hạn chế . Vì vậy tôi đã tập
trung bồi dưỡng về lý thuyết những nội dung mà trẻ còn yếu để bản thân có
kiến thức dạy trẻ.
Hiểu rõ thế nào là dạy kỹ năng sống. Kỹ năng sống là dạy cho trẻ những
kỹ năng gì? Dạy kỹ năng sống là dạy trẻ vào thời điểm nào là hiệu quả
nhất[4].Đặc biệt nhấn mạnh đến nhưng kỹ năng:
Kỹ năng lao động tự phục vụ
Kỹ năng hợp tác, chia sẻ
Kỹ năng giao tiếp lịch sự ,lễ phép
Kỹ năng thích tìm tòi khám phá và học hỏi
Kỹ năng mạnh dạn tự tin
Kỹ năng bảo vệ bản thân
Tôi đã cụ thể hóa nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non gồm
có các nội dung sau:
+ Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên
cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Ngày từ khi đến lớp
giáo viên nên khuyến khích, động viên trẻ giới thiệu tên của mình với các bạn
trong lớp . Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như
trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm
thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi, mọi lúc. Nếu trẻ không mạnh dạn tự
tin thì sẽ rất khó khăn trong việc giao tiếp sau này.
+ Kỹ năng lao đông tự phục vụ: Đối với trẻ Mầm non trước khi trẻ học
cách tự phục vụ thì trẻ đang còn rất vụng về, khi cho trẻ ăn có thể bố, mẹ hoặc
cô giáo thấy trẻ lúng túng thì lại đút cho trẻ ăn để tránh rơi vãi,hoặc là khi đến
lớp bố mẹ không để cho con cất giầy dép, cởi bớt áo khoác, cất ba lô mà lại làm
giúp cho con. Vì thế giáo viên phải xác định rằng phải dạy cho trẻ có kỹ năng đó
là cách trẻ học làm người lớn.
Ví dụ: để cho trẻ tự cần thìa xúc cơm ăn,tự mặc quần áo, ....... lúc đầu có
thể chưa quen nhưng sau đó dần dần trẻ sẽ thành thục trong việc tự phục vụ cho
mình trong ăn uống. Biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống
một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây
tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, ngồi ngay ngắn,
ăn hết suất, biết cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa..
+ Kỹ năng vệ sinh cá nhân: giáo viên dạy trẻ có thể tự súc miệng, đánh
răng và rửa mặt. Dạy trẻ cách rửa tay trước mỗi bữa ăn và nhận biết khi nào thì
quần áo của mình bị bẩn cần phải giặt. Đối với các bé gái, việc chải chuốt làm
điệu cũng rất quan trọng. Giáo viên phải biết để dạy trẻ thói quen tóc tai luôn
gọn gàng và chọn trang phục phù hợp với từng hoàn cảnh, hoặc biết giúp người
lớn dọn dẹp, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
+ Kỹ năng sống hợp tác: giáo viên hiểu kỹ năng hợp tác chia sẻ là một kỹ
năng không kém phần quan trong. Khi day trẻ kỹ năng hợp tác giúp trẻ hiểu có
những công việc một mình sẽ không thể làm được.
6
Ví dụ: Giờ ăn cô cho 2-3 trẻ cùng khiêng một chiếc bàn dể kê bàn ăn....
Chính vì vậy phải có sự hợp tác của các thành viên trong nhóm.Hoặc dạy kỹ
năng hợp tác chia sẻ thông qua các việc dạy trẻ các trò chơi, câu chuyện, bài thơ,
bài hát.
Ví dụ: trò chơi chiếc tháp tập thể, cô yêu cầu trẻ ngồi xung quanh một cái
bàn và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác nhau.
Nhiệm vụ của trẻ là xếp những khối đó thành cái tháp càng cao càng tốt.
Qua đó giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, hợp tác với mọi
người trong quá trình chơi, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi
này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Giúp trẻ hiểu dược tầm quan trong khi làm việc có sự chia sẻ và ủng hộ của
người khác… Đối với trẻ mầm non có thể hợp tác để có thể làm được những
công việc đơn giản như tự xếp gọn đồ chơi của mình thật ngăn nắp. Mục đích
của việc này chính là dạy trẻ cách trân trọng những gì mình đang có cũng như ý
thức trách nhiệm với những thứ là của mình và của bạn.
+ Kỹ năng thích khám phá, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học, được tìm hiểu, thích khám phá, tìm tòi, trẻ thích được trải
nghiệm để có thể phát hiện ra nhiều điều mới lạ ở xung quanh trẻ [2]. Do đó cần
sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của
trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư
liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có
thể
đoán trước được.
+ Kỹ năng giao tiếp: Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối
với trẻ. Kỹ năng này có vị trí chính yếu so với tất cả các kỹ năng khác như đọc,
viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Giáo viên cần phải dạy trẻ biết thể hiện
bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận
được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh. Nếu trẻ cảm thấy
thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng
học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết
để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ.
+ Dạy trẻ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi: Ngay từ khi còn bé, nếu trẻ hiểu
được nên dùng những lời cảm ơn và xin lỗi trong hoàn cảnh phù hợp thì sẽ rất
có lợi cho việc hình thành nhân cách của trẻ sau này. Cho nên là giáo viên cần
phải biết dạy cho trẻ sử dụng các lời nói đó vào những hoàn cảnh cụ thể.
Ví dụ: khi có người lớn cho quà trẻ phải biết nhận bằng hai tay và nói lời
“cảm ơn”, hoặc khi không may lỡ làm bạn ngã thì phải biết dùng lời “xin lỗi”
đối với bạn
+Tạo tình huống cho trẻ thực hành trải nghiệm một số nội dung sau:
Đưa nội dung dạy kỹ năng sống vào lớp lựa chon nội dung phù hợp với
lứa tuổi để thiết kế giáo án dạy học có nội dung về dạy kỹ năng sống cho trẻ.
7
Thực hành: Hướng dẫn trẻ 31 kỹ năng tập làm một số công việc tự phục vụ
[2]
1. Đi cầu thang
17.Cách gấp khăn lại
2. Cách đóng mở cửa
18.Cách rót nước
3. Cởi giầy và đi giầy, cất dép
19.Cách sử dụng thìa
4. Cất ba lô
20.Chải tóc
5. Cách đứng lên và ngồi xuống ghế
21.Cách sử dụng đũa
6. Cách bê ghế
22.Khóa kéo
7. Cách rửa tay
23.Cách cắt móng tay
8. Cách xúc miệng nước muối
24.Cách quét rác trên sàn
9. Cách lấy nước uống
25.Cách lau chùi nước
10.Cách xử lý khi ho
26.Đóng mở đai da
11.Cách xử lý hỉ mũi
27.Chuẩn bị đồ ăn nhẹ
12.Cách mặc áo, cởi áo (móc quần áo)
28.Cách mời trà và rửa cốc
13.Cách mặc áo, cởi áo (gấp áo)
29.Cách cắt dưa chuột
14.Cách cài khuy áo
30.Vắt khăn ướt
15.Cách cầm dao, kéo, đĩa
31.Đánh giầy
16.Cách sử dụng kéo
2.3.2.Lập kế hoạch giáo dục kỹ năng sống vào các chủ đề trong năm học
- Lập kế hoạch dạy trẻ kỹ năng sống cho phù hợp với độ tuổi, đưa ra, bàn
bạc với giáo viên cùng nhóm lớp để thống nhất . Lên kế hoạch dạy trẻ kỹ năng
sống, kỹ năng tự phục vụ theo năm, theo tháng và theo tuần đưa vào dạy trẻ
KẾ HOẠCH CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ PHỤC
VỤ CHO TRẺ 5-6 TUỔI LỚP MẪU GIÁO A2
Chủ đề
Kỹ năng
- Cất ba lô,
- Cất giày dép
- Đi cầu thang ( Mức độ 2: Bước 1 chân vào từng bậc một)
Trường mầm non - Cách cầm thìa , cách xúc cơm, cách bê bát , cất bát(Mức
độ 2 xúc gọn gàng không phát ra tiếng động)
- Vệ sinh bàn ăn( Mức độ 2)
- Cách đóng mở cửa
- Cách bê ghế( Mức độ 2)
- Cách xúc miệng nước muối( Mức độ 2)
Bản thân
- Cách đứng lên ngồi xuống
- Cách cuộn thảm
- Cách chuyền hạt bằng thìa
- Cách cầm kéo, dao
- Cách sử dụng kéo cắt trên đường cong
- Cách rót khô( Bình có vòi, hạt tròn)
- Trẻ chải tóc, buộc tóc
- Trẻ tập đánh răng của mình
- Cách rót ướt(Bình có vòi sứ, nước)
8
- Cách sử lý ho
- Cách cài khuy áo, cúc áo( Bằng áo trẻ em)
- Sử lý hỉ mũi
Gia đình
- Gắp bằng các loại kẹp
- Chuyển nước bằng mút
- Tập quyét rác trên sàn
- Sử dụng kẹp , kẹp đồ vật lên giá( Kẹp quần áo bằng giấy,
kẹp đồ vật lên giá kẹp theo số lượng đánh trên kẹp và trên
Nghề nghiệp số)
- Gấp khăn
- Cách kéo khóa bằng bộ học cụ và kéo áo khoác nhẹ của
trẻ
- Cách luồn dây bằng bộ học cụ
- Cách rót nước bằng lọ miệng tròn to
- Cách sử dụng dao cắt dưa chuột
- Rót khô ra bình (không có vòi)
Giao thông
- Luồn dây( qua khuyết)
- Cách sử dụng nhíp
- Cách sử dụng chổi đót( bé quét rác trên sàn)
- Cách rót ướt bằng bình sứ có vòi( rót ra bát
- Cách cài khuy ( cúc bấm ) bằng bộ học cụ
- Cách vắt khăn ( Khăn mặt bông)
Thế giới thực vật - Xâu dây qua các đối tượng có khuyết nhỏ
- Cách đóng mở đai da
- Cách mặc áo cài khuy
- Chuyền hạt từ một bát sang nhiều bát
- Cách đóng mở đai nhựa
- Rót nước bằng lọ miệng tròn nhỏ
Thế giới động vật - Xâu khuy áo có lỗ nhỏ bằng bộ học liệu
- Rót nước bằng phễu( bình thủy tinh)
- Đan nong mốt 5
- Chuẩn bị giờ ăn nhẹ
- Cách lau bàn ăn
Nước và hiện
- Cách sử dụng đĩa
tượng tự nhiên
- Cách đánh giầy
- Cách đóng mở khuy bằng bộ học cụ
- Tự tết tóc cho bạn và mình
- Cách gắp bằng đũa
- Sử dụng kéo cắt hình tròn không có hình mẫu
- Cách đóng mở áo cài gim băng bằng bộ học cụ
Quê hương đất - Cách lau nhà
nước – Bác Hồ
- Cách đan nong mốt 7 nan
- Cách mời trà, rửa cốc
2.3.3. Xây dựng môi trường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ:
9
Việc xây dựng môi trường giáo dục rất quan trọng, góp phần thực hiện đạt
các chỉ tiêu kế hoạch đề ra của lớp. Tôi đã chú trọng đến công tác xây dựng môi
trường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: Trước lớp học có góc tuyên truyền các bậc cha mẹ với tiêu đề
“Những điều phụ huynh cần biết” trong đó gồm có các nội dung như: Danh sách
trẻ, Kết quả theo dõi cân đo hàng tháng, định kỳ, kết quả khám sức khỏe, các nội
dung tuyên truyền về dịch bệnh, về giáo dục kỹ năng sống theo chủ đề... Các nội
dung được trang trí đẹp mắt và nổi bật gây được sự chú ý của các bậc phụ huynh
khi đưa đón trẻ.[5]
Trong lớp, trang trí các góc mở cho trẻ được trải nghiệm và hoạt động.
Ví dụ: Mảng tường trên lớp tôi trang trí các hình ảnh làm nổi bật chủ đề,
bên cạnh đó có mảng tường được cắt bằng các ô bóng kính cho trẻ tự ghép các
hình ảnh vào... Góc mừng sinh nhật bé, tôi trang trí các hoạ tiết biểu tượng từng
tháng và cho trẻ ghép hình ảnh của mình vào...
(Góc mở cho trẻ hoạt động và tuyên truyền với cha mẹ trẻ)
Tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ vào cuối chủ đề của lớp, tổ chứcgiao
lưu các lớp với nhau, tổ chức mừng sinh nhật một nhóm trẻ ... Qua đó trẻ rất
hứng thú và thông qua các hoạt động đó nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
một cách rất nhẹ nhàng và có hiệu quả.
2.3.4. Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt
động trong ngày.
Thông qua giờ đón và trả trẻ: việc dạy kỹ năng chủ yếu ở hoạt động này
là kỹ năng tự phục vụ và kỹ năng giáo dục lễ giáo.
Ví dụ: cất giầy dép, ba lô, chào cô, chào bố mẹ.
10
Ngoài ra giáo viên trò chuyện hoặc kể cho trẻ nghe các câu chuyện thông
qua đó giáo dục và khắc sâu các kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: cô hỏi trẻ kỹ năng ứng sử: hôm qua con ở nhà con làm những gì? ở
nhà con chơi như thế nào là an toàn nhất? khi đi thăm người ốm cùng bố mẹ con
phải làm như thế nào…
Thông qua hoạt động học: cô lựa chọn những bài thơ câu chuyện có mang
tính giáo dục kỹ năng sống như: tích chu, ba cô gái, bác gấu đen và hai chú thỏ,
nhổ củ cải để giáo dục kỹ năng cho trẻ.
Ví dụ: câu chuyện nhổ củ cải qua câu truyện giáo dục trẻ biết được muốn
nhổ được củ cải thì phải cần có sự hợp tác, chia sẻ. Hay qua bài thơ “ phải là hai
tay”, “ lời chào” cô dạy trẻ kỹ năng giao tiếp lễ phép với người lớn. [4]
Phải là hai tay
Ngồi bên mẹ bé băn khoăn
Đưa tăm sao lại đưa bằng hai tay
Con ơi con hỏi rõ hay
Cái tăm nhẹ thế một tay được rồi
Nhưng đâu chỉ nhẹ mà thôi
Mà là lễ phép với người bề trên
Hai tay kính mến đưa lên
Là lòng con thảo cháu hiền hiện ra
Thưa mời bố mẹ, ông bà...
Cái tăm hiếu thảo phải là hai tay
Lời chào
Đi về con chào mẹ
Ra vườn cháu chào bà
Ông làm việc trên nhà
Cháu lên: chào ông ạ!
Lời chào thân thương quá
Làm mát ruột cả nhà
Đẹp hơn mọi bông hoa
Cháu kính yêu trao tặng
Chỉ những người đi vắng
Cháu không được tặng “ chào”
Thông qua hoạt động ngoài trời và tham quan dã ngoại: ở hoạt động
này bằng các đối tượng trẻ được quan sát, cô giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
11
Ví dụ: cho trẻ tham quan sân vận động, trường tiểu học cô dạy cho trẻ
biết không vứt rác thải nơi công cộng, không ngắt lá bẻ cành cây các nơi vui
chơi ...
(Giờ hoạt động ngoài trời trẻ tham quan vườn cổ tích và nhặt lá cây.)
Thông qua hoạt động ăn: chủ yếu sử dụng kỹ năng tự phục vụ bằng cách
tập cho trẻ những việc vừa sức
Ví dụ: như kê bàn ăn, xếp ghế, xếp bát thìa, lau bàn, tự thay quần áo, gấp
quần áo, biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, biết cách sử dụng đồ dùng vật dụng
trong ăn uống đúng cách. Ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không
gây tiếng ồn, biết giúp cô những công việc vừa sức. Ăn xong cất bát thìa ở vị trí
nào, rửa tay đúng quy trình, lau mặt đúng kỹ năng...
Trẻ rửa tay trước khi ăn cơm
12
Thông qua hoạt động vui chơi: hoạt động vui chơi mang tính tích hợp cao
trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Giáo viên lồng ghép các kỹ năng sống
thông qua nội dung từng trò chơi đặc biệt là các trò chơi phân vai.
Ví dụ: chơi bác sỹ qua trò chơi cô giáo dục trẻ biết cảm thông, chia sẻ với
người ốm, người thiệt thòi. Hay chơi xây dựng qua trò chơi cô dạy trẻ kỹ năng
hợp tác giữa các bạn trong các nhóm chơi để xây nên những công trình đẹp.[5]
Trẻ chơi trò chơi bác sỹ
Thông qua hoạt động chiều: chủ yếu sử dụng các kỹ năng như kỹ năng
lao động, vệ sinh, giáo dục trẻ đi đại tiện, tiểu tiện đúng chỗ và khi đi xong biết
dội nước, các đồ vệ sinh được dùng để ngăn nắp...
Ví dụ: chăm sóc góc thiên nhiên như lau chùi lá cây, thông qua đó giúp trẻ
biết bảo vệ trường lớp mầm non sạch đẹp.
Thông qua hoạt động vệ sinh: dọn đồ chơi, dọn dẹp chỗ chơi, lau bụi bẩn,
rửa đồ chơi, dội nước sau khi đi vệ sinh, vứt rác vào đúng nơi quy định, không
hò hét nói to, không nhổ nước bọt nơi đông người... thực hiện đúng lịch vệ sình.
Biết cùng cô làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên liệu phế thải, biết giữ gìn quần
áo, tay chân sạch sẽ, tham gia quét dọn vệ sinh sân trường.
2.3.5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, vui chơi tập thể:
Nội dung phong trào thi đua“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, trong đó có nội dung: Cho trẻ đi tham quan dã ngoại tổ chức các hoạt
động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ
động, tự giác của trẻ. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi
giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã có kế hoạch và tham gia thực hiện nhiều
hoạt động, khuyến khích trẻ tham gia chủ động, tự giác cụ thể như sau:
Tham gia làm đồ chơi dân gian theo chủ đề hàng tháng, có đánh giá, xếp
loại, thi sáng tác các trò chơi, bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ mầm non.
Tăng cường tổ chức cho lớp giao lưu các lớp. Tổ chức cho trẻ chơi các trò
13
chơi dân gian trong giờ hoạt động ngoài trời vào các ngày thứ ba, thứ năm; tổ
chức những trò chơi rèn kỹ năng tự tin, mạnh dạn giúp trẻ phát triển nhận thức,
thẩm mỹ qua đó thông tin tuyên truyền các bậc cha mẹ về kiến thức chăm sóc
nuôi dưỡng, bảo đảm an toàn, phòng bệnh cho trẻ, hướng dẫn các bậc cha mẹ kỹ
năng chấm biểu đồ phát triển theo dõi cân đo nhằm bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
2.3.6. Phối hợp với các bậc cha mẹ và cộng đồng để hình thành kỹ
năng sống cho trẻ:
Việc phối hợp với gia đình là một nhiệm vụ thiết thực, tạo sự liên kết và
thống nhất giữa lớp và cha mẹ trẻ về nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức
giáo dục trẻ ở lớp cũng như ở gia đình. Đây là điều kiện thuận lợi để cô giáo
thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức giáo dục trẻ cho các bậc cha
mẹ và giúp trẻ có sự phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần, nhận thức, tình
cảm, thẩm mĩ, ngôn ngữ, giao tiếp ứng xử...
Nhận thức rõ về điều này, trong những năm qua và đặc biệt năm học
2016–2017, tôi luôn chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến
thức, thực hiện có hiệu quả mối quan hệ với phụ huynh.
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền với các nội dung cần tuyên truyền được
thể hiện trong chương trình từng tuần, chủ đề, từng học kỳ. Kế hoạch được xây
dựng một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu và tình hình thực tế của lớp.[5]
Tuyên truyền về các phong trào thi đua như: “ trường học thân thiện, học
sinh tích cực”, các cuộc vận động như: “ nói không với tiêu cực và bệnh thành
tích trong thi cử”, về phòng một số bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ như: đậu
mùa, đau mắt đỏ, tay chân miệng, trong đó đặc biệt quan tâm đến nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ để các bậc cha mẹ cùng tham gia bổ sung, đóng góp ý
kiến cho lớp và có những biện pháp phối hợp giáo dục trẻ.Tổ chức các hoạt
động cho phụ huynh học sinh cùng tham gia với các con tại lớp để phụ huynh
thấy được tầm quan trọng trong việc dạy các con các kỹ năng sống ....
Ví dụ: tham gia vào các buổi trao đổi với cô, dự một số giờ học như giờ: “
chuyện ba cô gái”, “ trò chơi chữ b,d,đ” , dự các hoạt động ngoại khoá như: “ bé
với hoạt động tạo hình”, “ hội chợ xuân”.
Việc yêu cầu phụ huynh tham gia vào kế hoạch hoạt động của lớp không
chỉ mang tính chất thông báo mà quan trọng hơn là coi cha mẹ học sinh như một
“kênh” thông tin hữu hiệu để giúp cô giáo có thêm thông tin, góp phần vào các
hoạt động của lớp.
Giáo viên cùng gia đình dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống
bởi nó rất cần thiết với trẻ. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ
dùng một cách chính xác, thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải
thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là
cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn
minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
2.4. Kết quả đạt được:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
14
thuận hợp tác của trẻ, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã có được một số
kết quả trong việc dạy trẻ mầm non các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết
quả sau:
* Đối với trẻ:
100% trẻ lớp được trải nghiệm thực tế, khuyến khích khơi dậy tính tò mò,
phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, chuẩn bị tâm thế cho trẻ
bước vào tiểu học ngày càng cao
Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh, thông qua các hoạt động
hàng ngày trong cuộc sống của trẻ. Trẻ đã trở thành những con người nhanh
nhẹn, có những kiến thức và kỹ năng về lao động tự phục vụ như tự đánh răng,
rửa mặt, rửa tay, mặc quần áo…
Trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung
sống hòa bình. Trẻ có tinh thần hợp tác với bạn chơi, sẵn sàng giúp đỡ khi bạn
cần và cần đến sự giúp đỡ của bạn bè khi mình gặp khó khăn.
Kết quả khảo sát cuối năm về kỹ năng sống của trẻ được thể hiện trên bảng sau:
Kết quả khảo sát trẻ về kỹ năng sống sau khi thực hiện đề tài
S
T
T
Nội dung khảo sát
Tổng
số trẻ
được
khảo
sát
Cuối năm
Số
trẻ
Tỉ lệ
%
Số
trẻ
Tỉ lệ
%
Đạt
Chưa đạt
1
Kỹ năng mạnh dạn, tự tin
35
32
91%
3
9%
2
Kỹ năng hợp tác, chia sẻ
35
32
91%
3
9%
3
Kỹ năng giao tiếp lịch sự, lễ phép
35
33
94%
2
6%
4
Kỹ năng vệ sinh cá nhân
35
35
100%
0
0%
5
Kỹ năng thích khám phá học hỏi
35
33
94%
2
6%
6
Kỹ năng lao động tự phục vụ
35
32
91%
3
9%
7
Kỹ năng bảo vệ bản thân
35
33
94%
2
6%
8
Kỹ năng ứng xử phù hợp với
những người gần gũi xung quanh
35
32
91%
3
9%
9
Kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã
hội
35
32
91%
3
9%
35
32
91%
3
9%
10 Kỹ năng thích nghi với môi
trường sống
* Đối với giáo viên:
15
Tôi đã nắm vững các nội dung giáo dục kỹ năng sống đối với trẻ mầm
non và biết vận dụng vào các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trên nhóm lớp
một cách phù hợp với các hoạt động và các chủ đề.
Tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn khi tổ chức họp phụ huynh ở lớp, mạnh dạn
trao đổi những ý tưởng của cá nhân khi sinh hoạt chuyên môn hoặc khi góp ý về
chuyên môn, thao giảng ...
Biết tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho trẻ, nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục kỹ năng sống.
Chất lượng và nội dung tuyên truyền các bậc cha mẹ được nâng lên rõ rệt,
hình thức tuyên truyền được thay đổi theo chủ đề một cách phù hợp.
* Đối với các bậc phụ huynh:
Phụ huynh rất quan tâm đến việc chăm lo cho con cái, thường xuyên phối
hợp với cô giáo để giáo dục trẻ một cách khoa học, không còn xem nhẹ về việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Phụ huynh đã có những trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về tình hình con
em mình, cùng bàn bạc tìm giải pháp để khắc phục đối với trẻ cá tính.
Phụ huynh không còn nôn nóng trong việc dạy cho trẻ học trước chương
trình và đã thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không
cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh bố bế con, mẹ đi sau xách cặp cho
con, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên cầu thang,
tự xúc cơm ăn ….khi đến lớp.
Phụ huynh rất tin tưởng vào kết quả giáo dục của lớp, cha mẹ thông cảm,
chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang
trí lớp, làm đồ chơi.
16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trong xu thế hiện nay, vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không phải là
một vấn đề mới và to tát, tuy nhiên việc lựa chọn nội dung để vận dụng vào
công tác giáo dục trẻ trên lớp là một vấn đề cần quan tâm.
Để công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả cao thì chúng ta
cần phải kết hợp hài hòa, tạo được sự đồng thuận đối với tất cả các thành phần
trong xã hội, làm cho mọi người cùng nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc
thực hiện sự nghiệp trồng người.
Công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một công việc được thực hiện
thường xuyên. Do đó sau khi mạnh dạn tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non thị trấn Triệu
Sơn, bản thân tôi đã trải nghiệm, thực hành, nghiên cứu và đã rút ra được một
số bài học kinh nghiệm như sau:
Trước hết giáo viên chủ nhiệm phải có kế hoạch về nội dung giáo dục kỹ
năng sống trong lớp một cách cụ thể, chi tiết, xác định mục tiêu của lớp, xây
dựng kế hoạch cho lớp phù hợp với chương trình với khả năng của trẻ.
Nâng cao công tác tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu các tài liệu, đây là việc
làm thường xuyên liên tục, không thể bỏ qua.
Phối hợp, tuyên truyền với cha mẹ trẻ, tạo cơ hội, tổ chức nhiều hoạt động
phối hợp với gia đình để dạy trẻ kỹ năng sống đạt hiệu quả.
Cô giáo phải tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích
sự chuyên cần, tích cực của trẻ, phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm
năng sáng tạo ở mỗi trẻ.
Cần thường xuyên tổ chức các họat động chăm sóc giáo dục trẻ một cách
thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực:
thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích
cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn
kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
Cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác
trong lớp, trẻ biết chia sẻ, chăm sóc, trẻ cần phải học về cách ứng xử, biết lắng
nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác
nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Cần chuẩn
bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp, nhất là trong việc ăn uống
để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.
Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,
trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ
tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
Tham gia các hội thi trong nhà trường có sự tham gia của các bậc phụ
huynh và có sự chứng kiến của lãnh đạo các cấp đề tăng cường công tác tuyên
truyền và xã hội hóa.
3.2. Kiến nghị:
17
Để nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nói
chung và trẻ mầm non nói riêng tôi đề nghị:
Phòng giáo dục cần mở các lớp chuyên đề về giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ cho tất cả các giáo viên mầm non được tham gia.
Ban giám hiệu bổ sung thêm các máy móc và đồ dùng dạy học ngày càng
hiện đại, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong thời đại hiện nay.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong công tác nâng cao chất lượng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5- 6 tuổi trong trường mầm non mà bản thân tôi
đã tiến hành thử nghiệm và mang lại một số kết quả khả quan tại lớp.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học cấp trên để bản
kinh nghiệm được hoàn thiện hơn. Tuy kinh nghiệm không nhiều, nhưng được rút
ra từ những thực tiễn giảng dạy và tôi cũng manh dạn xin phép được đưa ra để cùng
trao đổi với các bạn đồng nghiệp. Rất mong các bạn đồng nghiệp, các nhà quản lí
bổ xung, góp ý cho tôi để làm phong phú thêm những kinh nghiệm trong công tác
giảng dạy.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
của người khác. Nếu sai tôi xin chịu
trách nhiệm trước Hội đồng khoa học
các cấp.
Người thực hiện
Phạm Thị Ánh
18