Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN quản lý: Một số biện pháp chỉ đạo các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 25 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu:
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng về giáo dục Kỹ năng sống tại trường Tiểu học
Nga Điền I – Nga Sơn – Thanh Hóa.
3. Các giải pháp chỉ đạo các hoạt động giáo dục kỹ năng
sống trong trường Tiểu học Nga Điền I.
3.1. Tổ chức quán triệt, triển khai chủ trương, kế hoạch và phối
hợp thực hiện.
3.2.Tổ chức buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần thành sân chơi bổ
ích.
3.3.Tổ chức việc giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt
động xã hội, đền ơn đáp nghĩa.
3.4 Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua việc tổ chức các
Câu lạc bộ năng khiếu
3.5 Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo
dục kỹ năng sống.
3.6 Tổ chức giáo dục lao động cho học sinh
3.7 Tổ chức giáo dục sức khỏe, hướng dẫn học sinh vui chơi
đúng cách, phòng tránh tai nạn thương tích.
3.8 Tăng cường công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường,
xã hội trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


Tài liều tham khảo
Phụ lục 1
Phụ lục 2

TRANG
01
02
02
03
03
03
03
03
06
08
08
09
10
12
16
17
18
19
21
21
22
23
25

I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Chúng ta biết rằng kĩ năng sống là nhân tố quan trọng để con người vươn lên
gặt hái thành công. Tuy nhiên kĩ năng sống không phải tự nhiên mà có. Kĩ năng
sống là kết quả của quá trình học tập và rèn luyện bản thân mỗi con người. Ở tất
cả các bậc học, giáo dục kĩ năng sống đều cần phải được quan tâm giáo dục, đặc
biệt là đối với học sinh tiểu học. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là giúp trẻ rèn
luyện những hành vi có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng; giúp trẻ có khả
1


năng bảo vệ, phòng ngừa và giảm thiểu các hành vi có nguy cơ gây hại cho sức
khỏe, sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ. Kĩ năng sống còn giúp trẻ ứng xử
kịp thời với các tình huống. Nó giúp trẻ có cách thức tích cực để đối phó với
những thách thức trong cuộc sống.
Xét từ góc độ xã hội, sự hình thành và phát triển kỹ năng sống đã trở thành
một yêu cầu quan trọng trong nhân cách con người hiện đại. Đặc biệt là đối với
các công dân trẻ Việt Nam hiện nay, khi cuộc sống ngày càng có nhiều biểu hiện
tiêu cực, lệch chuẩn trong một bộ phận hoc sinh, sinh viên như vấn đề nạn bạo
lực học đường, sự lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của người khác, sự ỷ lại, thiếu
thích nghi, thiếu nghị lực sống, không biết quý trọng bản thân….
Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống
cho thế hệ trẻ nhưng thực tiễn công tác triển khai giáo dục kỹ năng sống trong
các nhà trường vẫn gặp những trở ngại nhất định.
Thứ nhất, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chưa thành môn học, chưa có
trong thời khóa biểu của các nhà trường, mới chỉ dừng lại ở việc lồng ghép, tích
hợp giáo dục kỹ năng sống vào các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Qua
việc dự giờ và kiểm tra thực tế việc thực hiện nội dung giáo dục này trong hoạt
động chuyên môn của trường thì trong thời gian qua tuy đã được giáo viên chú
trọng trong việc soạn giảng và thể hiện khá tốt trong các tiết dạy trên lớp. Về cơ
bản các tiết giảng có tích hợp nội dung giáo dục KNS được giáo viên thực hiện

đạt các mục tiêu đề ra song vẫn còn một số thầy cô thực hiện theo kiểu đối
phó,còn lơ là xem nhẹ công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Thứ hai, Hiện nay, phần lớn phụ huynh và xã hội vẫn chưa có sự thay đổi cách
nhìn vẫn có những suy nghĩ cố hữu: “ tập trung vào việc học là chính” nên dù ở
nông thôn hay thành thị các bậc phụ huynh vẫn hết mực ưu tiên cho lịch học văn
hóa của con em mình, vô hình chung các em như những robot được lập trình với
những thời khóa biểu học chính khóa, học tăng buổi, học phụ đạo…
Thứ ba, Việc tổ chức các hoạt động giáo dục NGLL chưa có chiều sâu đặc
biệt là việc lồng ghép giáo dục KNS thông qua hoạt động giáo dục NGLL chưa
đạt được hiệu quả mong muốn; kỹ năng thực hành của một số học sinh trong các
hoạt động thường ngày chưa tốt; một số giáo viên còn lơ là, xem nhẹ vai trò của
nội dung giáo dục này dẫn đến chưa nhiệt tình, năng nổ trong việc phối hợp thực
hiện; đặc biệt là các trường ở các vùng khó khăn như Nga Điền, thiếu thốn về cơ
sở vật chất, kinh phí hạn hẹp,. Việc tổ chức các hoạt động cho học sinh thiếu sự
sáng tạo, chưa có sự đồng thuận của cha mẹ học sinh. Tuy nhiên, qua thực tế trải
nghiệm cùng học sinh trong một số hoạt động do Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên
phát động, như hội diễn văn nghệ, TDTT, giao lưu vẽ tranh, thi báo tường, báo
ảnh…. Các giáo viên và ban giám hiệu nhà trường đều nhận thấy, ngoài việc
tham gia hoạt động học tập ở trường đa số học sinh đều có nhu cầu muốn được
thể hiện, muốn khám phá năng lực bản thân và muốn phát triển những năng lực,
sở trường của mình về một số lĩnh vực nào đó nhưng do chưa có môi trường
thích hợp để thể hiện và phát huy khả năng của mình hoặc chưa có sân chơi
thường niên.
Với những lý do trên, là một cán bộ quản lý, bản thân tôi nhận thức được rằng
mình cần phải có một hành động thực tế góp phần giúp học sinh Trường TH Nga
2


Điền 1 có một môi trường sinh hoạt đều đặn nhằm trang bị cho các em một số kỹ
năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi và hành trang cho các em bước vào cuộc

sống sau này. Vì vậy, tôi đã chọn và nghiên cứu vấn đề “ Một số biện pháp chỉ
đạo các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Nga Điền
I - Nga Sơn – Thanh Hóa” .
2. Mục đích nghiên cứu
Giáo dục Kỹ năng sống trong nhà trường nhằm tăng cường và nâng cao hiệu
quả và góp phần giáo dục học sinh nhận thúc đúng về vai trò, tầm quan trọng của
việc học hỏi các kỹ năng sống, biết cách sử dụng các kỹ năng sống để nâng cao
chất lượng cuộc sống.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua việc tổ chức các câu lạc bộ
trong trường học.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và nhà nước về vấn đề
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
4.2 Phương pháp thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm:
+ Quan sát các hoạt động Giáo dục kĩ năng sống của thầy và trò nhà trường
qua các buổi hoạt động GDNGLL, các buổi sinh hoạt kỷ niệm các ngày lễ lớn,
một số giờ học,các tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần;
+ Quan sát các hoạt động hàng ngày của học sinh để tìm hiểu thái độ, hành vi,
kỹ năng sống của các em trong các mối quan hệ ứng xử đối với người lớn tuổi,
thầy cô giáo, bạn bè…
- Phương pháp phỏng vấn: phương pháp được thực hiện nhằm tìm hiểu về
nhận thức của giáo viên và học sinh về kỹ năng sống, về thực trạng, hành vi kỹ
năng sống trong trường Tiểu học hiện nay.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Điều tra qua giáo viên nhằm tìm hiểu nhận
thức, hành động, của Giáo viên đối với vấn đề Giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh hiện nay; điều tra học sinh nhằm tìm hiểu nhận thức, thái độ, hành vi của học
sinh đối với các mối quan hệ ứng xử, các hành vi kỹ năng sống, thực trạng kỹ

năng sống của học sinh.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Có thể khẳng định: Kỹ năng sống là một bài học quan trọng, giúp các em học
sinh tự tin khi bước vào cuộc sống tương lai. Dạy trẻ kĩ năng sống là điều rất cần
thiết đặc biệt đối với trẻ tiểu học, khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp
xúc với xã hội, rất cần hoàn thiện và phát triển các kĩ năng sống cho riêng mình.
Chính những kĩ năng sống các em tiếp nhận được những năm đầu tiên đi học sẽ
theo các em suốt cả cuộc sống sau này. Nếu ngay từ tiểu học các em đã có được
những kĩ năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn, các bài học về
kỹ năng sống sẽ giúp trẻ hình thành những kĩ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp
cho trẻ thích ứng trong cuộc sống. Mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực, tự tin,
tự quyết định và lựa chọn những hành vi đúng đắn. Nếu ngược lại sau này các em
3


sẽ rất khó khăn để sửa chữa những kĩ năng không tốt và gặp nhiều khó khăn
trong cuộc sống.
Vậy Kỹ năng sống là gì?
Kỹ năng sống là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong
lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Ngay
những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc (LHQ) như WHO (Tổ
chức Y tế Thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ Nhi đồng LHQ), UNESCO (Tổ chức
Văn hóa, khoa học và Giáo dục của LHQ) đã chung sức xây dựng chương trình
giáo dục Kỹ năng sống cho thanh thiếu niên. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm
này vẫn nằm trong tình trạng chưa có một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ.
Theo WHO (1993): Kĩ năng sống là năng lực tâm lý xã hội, là khả năng
ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt
tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người

khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai
trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh
thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội
này.
UNESCO (2003) quan niệm: Kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực
hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng
làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp
con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức
trong cuộc sống hàng ngày.
Xét từ góc độ giáo dục Kĩ năng sống của người học được xác định là một
biểu hiện của chất lượng giáo dục. Vì thế KNS được coi là một khía cạnh của
chất lượng giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí
đánh giá KNS của người học. Tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong
các nhà trường, xét cho cùng là để nâng cao chất lượng giáo dục. Giáo dục KNS
là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một mặt đáp ứng nhu cầu của
người học có năng lực để đáp ứng những thách thức của cuộc sống và nâng cao
chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác, thực hiện giáo dục KNS thông
qua những phương pháp hướng đến người học (lấy học sinh làm trung tâm) và
phương pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề cao vai trò tham gia chủ động,
tự giác của người học và vai trò chủ đạo của người dạy sẽ có những tác động tích
cực đối với những mối quan hệ người dạy và người học, người học với người
học. Đồng thời, người học cảm thấy họ được tham gia vào các vấn đề có liên
quan đến cuộc sống của bản thân, họ sẽ thích thú và học tập tích cực hơn. Như
vậy giáo dục KNS cho người học, cụ thể là học sinh Tiểu học đồng thời thể hiện
tính khoa học và nhân văn của giáo dục.
Xét từ góc độ văn hóa, chính trị Giáo dục KNS giải quyết một cách tích
cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được ghi trong pháp luật Việt
Nam và quốc tế. Giáo dục KNS giúp con người sống an toàn, lành mạnh và có
chất lượng trong một xã hội hiện đại với văn hóa đa dạng và với nền kinh tế phát
triển và thế giới được coi là một mái nhà chung.

4


Xét theo yêu cầu của sự phát triển bền vững Trong số 15 nội dung cơ bản
về giáo dục vì sự phát triển bền vững đã được UNESCO xác định thì có rất nhiều
nội dung thông nhất với giáo dục KNS để giải quyết các vấn đề cụ thể như:
quyền con người, hòa bình và an ninh, bình đẳng giới, đa dạng văn hóa và hiểu
biết về giao lưu văn hóa, sức khỏe, HIV/AIDS, các nội dung về bảo vệ môi
trường, tinh thần và trách nhiệm tập thể. Đồng thời hình thành được những KNS
cốt lõi như kĩ năng đặt mục tiêu; kĩ năng xác định giá trị; kĩ năng ra quyết định,
giải quyết vấn đề, kĩ năng kiên định giúp cho mỗi cá nhân có thể định hướng tới
cuộc sống lành mạnh phù hợp với các giá trị sống của xã hội.
Như vậy, kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho
cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự
quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống,
học tập và làm việc hiệu quả... Nói cách khác, kỹ năng sống là khả năng làm chủ
bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và
với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống.
Ở lứa tuổi của các em nếu chỉ dạy kỹ năng sống thông qua các môn học,
qua lý thuyết suông thì chưa đủ. Hãy gắn các em vào những hoạt động bổ ích,
những việc làm phù hợp với những hình thức linh hoạt, sáng tạo để thu hút trẻ, đó
sẽ là điều kiện là cơ hội tốt cho trẻ tự thể hiện bản thân, được trải nghiệm cuộc
sống bằng những việc làm của mình.
2. Thực trạng về giáo dục Kỹ năng sống tại trường Tiểu học Nga Điền
I – Nga Sơn – Thanh Hóa.
Qua việc nắm bắt tình hình thực tế tôi nhận thấy hầu hết giáo viên đã có ý
thức trong việc giáo dục KNS cho các em thông qua các hoạt động các hoạt động
thực tế như trực nhật, quét lớp, lau bàn ghế …., tổ chức cho học sinh tham gia các
hoạt động nhân đạo như ủng hộ người nghèo, ủng hộ bão lụt, giúp bạn gặp hoàn
cảnh khó khăn trong lớp bằng hình thức quyên góp, nuôi lợn nhựa …

Trong các giờ sinh hoạt dưới cờ đầu tuần các nội dung giáo dục kỹ năng
sống cũng được lồng ghép triển khai. Cụ thể như việc tuyên truyền giáo dục về
thực hiện an toàn giao thông, việc thực hiện bảo vệ môi trường của các lớp, việc
vui chơi của các em trong tuần …
Các hoạt động ngoài giờ lên lớp do Đội thiếu niên tổ chức như : thi vẽ tranh
tuyên truyền về ma túy – HIV, bảo vệ môi trường, trò chơi dân gian …
Tuy nhiên qua thực tế nhiều hoạt động còn chưa có chiều sâu:
Ví dụ: Trong giáo dục an toàn giao thông: Giáo viên tổng phụ trách thực
hiện trong giờ chào cờ đầu tuần của thì chủ yếu là dùng lời nói để vận động mà
chưa có những tiểu phẩm, chưa tổ chức được các cuộc thi, các tình huống thực tế
để giáo dục các em; Giáo viên chủ nhiệm sau khi dạy học sinh các tiết an toàn
giao thông trên lớp chưa tổ chức thực hành được cho các em bằng các tình huống
cụ thể ngoài giờ lên lớp.
Trong giáo dục lao động cho học sinh của một số lớp: Đôi khi giáo viên suy
nghĩ đây là những việc đơn giản em nào cũng biết làm rồi giao khoán cho các em
thực hiện như việc lau bàn ghế, quét dọn lớp học, lau sàn lớp học ….mà không
hướng dẫn các em cách làm sao cho đúng cách dẫn đến có trường hợp các em lau
cửa xong mà vẫn không sạch. Thực tế không phải học sinh nào cũng biết làm
5


những công việc này, thậm chí có em từ nhỏ đến khi học tiểu học các em chưa
bao giờ phải cầm tới cái chổi, chưa từng phải quét nhà.
Việc hướng dẫn học sinh đi vệ sinh đúng cách: Hầu hết giáo viên chỉ thực
hiện bằng lời nói mà rất ít giáo viên dẫn các em vào nhà vệ sinh để hướng dẫn cụ
thể các em thực hiện việc đi vệ sinh đúng cách.
Trong quá trình theo dõi thực tế sinh hoạt và việc tham gia các hoạt động
của các em học sinh tại trường thông qua quan sát thực tế thì về cơ bản các em
học sinh đều ngoan ngoãn vâng lời thầy cô, cha mẹ, lắng nghe và tiếp thu khá tốt
những nội dung tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện của giáo viên chủ nhiệm, tổng

phụ trách Đội, nội qui, quy định của nhà trường.
Các em tham gia khá nhiệt tình các hoạt động xã hội, từ thiện, văn hóa, văn
nghệ …Đa số các em biết vui chơi đúng cách không để xảy ra tai nạn thương tích.
Mặc dù vậy trong thực tế một số em còn có những hạn chế nhất định trong
việc thực hiện các nội dung . Cụ thể như hầu hết khi hỏi các em học sinh “ Để giữ
gìn trường lớp sạch, đẹp em phải làm gì?” thì các em đều trả lời được là không
được vứt rác bừa bãi, vẽ bậy lên tường … tuy nhiên thực tế các em biết nhưng
một số em vẫn không thực hành những nội dung các em đã trả lời hay một số em
ăn quà xong bỏ vỏ ni lông vào bồn hoa thay vì bỏ vào thùng rác, một số em còn vẽ
bậy lên tường, ăn kẹo cao su nhả bã kẹo bừa bãi…. . tương tự như vậy trong việc
thực hiện Luật giao thông đường bộ, khi hỏi các em là “ Em hãy cho biết đi bộ
tham gia giao thông như thế nào là đúng?” , các em trả lời đúng hết và rất nhanh
tuy nhiên khi ra các đường các em vẫn đi theo hàng hai, hàng ba, đùa nghịch trên
đường…Một số em còn mua những đồ chơi nguy hiểm để chơi mà các em không
biết được sự nguy hiểm khi chơi các trò chơi này ví dụ như súng bắn đạn cao su,
kiếm, gươm… hoặc những loại có thể gây thương tích, mất an toàn khi chơi. Một
số em còn mua các loại bánh kẹo màu mè, không có nhãn mác của Trung Quốc
hoặc của những cơ sở không đảm bảo chất lượng. Các em chưa có khả năng nhận
biết để bảo vệ sức khỏe bản thân.
Nói tóm lại: Việc giáo dục giáo dục kỹ năng sống của giáo viên bên cạnh
những ưu điểm cũng còn có những mặt hạn chế nhất định mà khâu yếu nhất của
giáo viên trong giáo dục kỹ năng sống đó là còn mang nặng tính lý thuyết, cụ thể
là giáo viên chưa trú trọng đến giáo dục hành vi thực tế ngoài cuộc sống cho các
em học sinh dẫn đến khả năng thực hành của các em trong một số trường hợp còn
hạn chế.
Để có những nhận xét đánh giá tương đối chính xác về thực trạng vấn đề,
tôi đã tiến hành khảo sát giáo viên và học sinh tại trường Tiểu học Nga Điền I
thông qua một số phiếu hỏi( Nội dung phiếu hỏi ở phần phụ lục). Kết quả khảo
sát như sau:
* Nhận thức của học sinh

Số học sinh chưa
Số học sinh có nền
Số học sinh còn mơ
Tổng số học
có nhận thức về kỹ
tảng để phát triển
hồ về kỹ năng sống
sinh được
năng sống
kỹ năng sống
khảo sát
SL
TL
SL
TL
SL
TL
292
250
85,7%
27
9,2%
15
5,1%
6


* Nhận thức của giáo viên:
Kết quả điều tra cho thấy đại đa số giáo viên kể cả có làm công tác chủ
nhiệm hay không đều có nhận thức đầy đủ và chính xác về công tác giáo dục kỹ

năng sống cho học sinh. Phần trình bày ý kiến riêng có đa số nhận thức về sự
thiếu hụt KNS của học sinh phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở khảo sát nắm bắt tình hình thực tế của nhà trường trong việc
thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tôi đã tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến thực trạng trên với mục đích đưa ra một số biện pháp trọng tâm
nhằm thúc đẩy, phát huy hết các ưu điểm mà nhà trường đã đạt được và khắc phục
các tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện nội dung này.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng.
- Về phía BGH: chưa quan tâm đầy đủ đến công tác giáo dục KNS cho học sinh,
chưa đưa công tác này thành kế hoạch cụ thể, chưa có công tác tổ chức và hướng dẫn thực
hiện đầy đủ cho GV.
- Về phía GV: Chưa được trang bị đầy đủ về KNS và tầm quan trọng của công tác
giáo dục KNS cho học sinh phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Chưa biết cách tổ chức
cho HS các hoạt động hướng tới nhận thức và giáo dục KNS phù hợp với lứa tuổi.
- Về phía HS: Chưa được trang bị các kỹ năng cần thiết để nhận thức bản thân và
đối phó với các nguy cơ đến từ các mối quan hệ xã hội và sự biến đổi tâm sinh lý bản thân
và sự biến đổi trong các mối quan hệ.
- Về phía PHHS: Chưa có nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ giáo dục đạo đức học
sinh, chưa thực sự gương mẫu cho các con noi theo. Phó mặc nhiệm vụ giáo dục học sinh
giáo viên và nhà trường.
- Về phía môi trường xã hội: Sự phát triển nhanh về kinh tế - văn hóa – xã hội tại
địa phương đồng thời đem lại nhiều vấn đề xã hội. Các tụ điểm vui chơi giải trí (Internet;
Bi-a; Karaoke…) thu hút HS rời xa học tập đồng thời tạo ra nhiều nguy cơ tấn công vào
tâm lý, sức khỏe của HS.
Với thực tiễn và những nguyên nhân như trên, là người cán bộ quản lí nhà
trường, tôi đã có nhiều trăn trở, suy nghĩ tìm các biện pháp khắc phục bằng cách
nỗ lực tôi đã tiến hành nghiên cứu tài liệu, và đã đưa ra “Một số giải pháp để chỉ
đạo giáo viên dạy kĩ năng sống cho học sinh”.
3. Các giải pháp chỉ đạo các hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong
trường Tiểu học Nga Điền I.

3.1. Tổ chức quán triệt, triển khai chủ trương, kế hoạch và phối hợp
thực hiện:
Việc quán triệt , triển khai chủ trương, kế hoạch và phối hợp thực hiện là
bước đi đầu tiên rất quan trọng, là định hướng trọng tâm để thực hiện thành công
nội dung giáo dục Kỹ năng sống trong nhà trường.
Nội dung giáo dục Kỹ năng sống là một trong những nội dung của phong
trào “xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”, đồng thời đây cũng là
một trong những nội dung quan trọng được tích hợp vào các môn học và kết hợp
giáo dục thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Về mặt tổ chức, Hiệu trưởng nhà trực tiếp phụ trách tiêu chí “ Rèn luyện
kỹ năng sống” trong Ban chỉ đạo phong trào “xây dựng trường học thân thiện học
sinh tích cực” và phụ trách công tác chỉ đạo các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
7


lớp. Đồng chí Tổng phụ trách Đội là nòng cốt chịu trách nhiệm tổ chức, quản lí
các hoạt động.
Các lực lượng phối hợp gồm Công đoàn, Đoàn thanh niên, phụ huynh học
sinh, một số các ban ngành đoàn thể của xã. Các tổ khối trưởng có trách nhiệm
đôn đốc chỉ đạo giáo viên trong tổ thực hiện theo kế hoạch.
Hoạt động giáo dục Kỹ năng sống được định hướng trong kế hoạch năm
học của nhà trường, và được đưa ra bàn bạc thống nhất nội dung trong đội ngũ
cán bộ cốt cán để xây dựng thành kế hoạch hoạt động NGLL của cả năm học,
trong kế hoạch tập trung sâu vào các nội dung nhằm giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Tiếp theo tiến hành phổ biến, quán triệt trong hội đồng giáo viên, học
sinh và trong cuộc họp cha mẹ học sinh về mục đích, ý nghĩa và vai trò của hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong việc hình thành kỹ năng sống cho học sinh.
Hàng tháng tổng phụ trách Đội lập kế hoạch hoạt động từng tháng theo chủ
đề, chủ điểm của tháng, đồng thời lập kế hoạch tổ chức hoạt động tuần của tháng
đó. Hiệu trưởng là người trực tiếp duyệt các kế hoạch tháng, tuần. Sau khi duyệt

xong các kế hoạch thì khoảng ngày 25 của tháng sẽ gửi lên mail dùng chung của
trường và niêm yết tại văn phòng để tất cả các tổ, các giáo viên nắm bắt và thực
hiện. Ngoài ra căn cứ vào tình hình cụ thể từng tổ, từng lớp trong việc thực hiện
nội dung giáo dục kỹ năng sống thì tổ khối và giáo viên trong tổ sẽ trao đổi và
đưa thêm các nội dung phù hợp với tổ, với lớp vào để giáo dục học sinh.
3.2.Tổ chức buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần thành sân chơi bổ ích.
Trước đây giờ chào cờ chủ yếu do tổng phụ trách Đội và Ban giám hiệu
nhà trường triển khai thực hiện thầy nói, trò nghe. Thực tế mang lại hiệu quả
không cao, học sinh không hứng thú với giờ sinh hoạt đầu tuần. Các em ngồi
dưới sân nói chuyện hoặc làm việc riêng nhiều.
Để khắc phục hạn chế này thì nhà trường xen kẽ việc triển khai của thầy cô
bằng hình thức tuyên truyền miệng kết hợp với những hình thức sinh động hơn.
Ví dụ: Để tuyên truyền về luật giao thông, phòng chống tai nạn, chống bạo
lực trong nhà trường, phòng chống đuối nước… thì bên cạnh việc thầy tuyên
truyền nhắc nhở thì nhà trường tổ chức cho các em theo dõi các tiểu phẩm từ
khoảng 5 – 10 phút ( Tiểu phẩm do tổng phụ trách Đội kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm, những giáo viên có năng khiếu dàn dựng. diễn viên là các em học sinh,
đôi khi có cả thầy cô cùng tham gia) .
Sau khi kết thúc tiểu phẩm thì gọi các em đứng lên trả lời các câu hỏi, chia
sẻ những suy nghĩ của mình với hành động của các nhân vật trong tiểu phẩm, các
em tự phân tích hành vi đúng, sai.
Để thu hút các em thì nhà trường chuẩn bị những phần quà nhỏ ( bánh,
kẹo, đồ dùng học tập …) để làm phần thưởng cho các câu trả lời.

8


Học sinh đóng tiểu phẩm
Để tổ chức giáo dục lòng yêu nước, biết ơn những người có công với cách
mạng, các anh hùng liệt sĩ kết hợp với việc tuyên truyền, triển khai bằng lời nói

của thầy cô nhà trường tổ chức “ Tìm hiểu lịch sử Đoàn, Đội” với hình thức thi
hái hoa dân chủ dười cờ; tổ chức hoạt cảnh dưới cờ; tổ chức kể chuyện các tấm
gương anh hùng liệt sĩ …
Ở nội dung này để thực hiện được nhà trường giao sự chủ động, sáng tạo
cho tổng phụ trách Đội, Tổng phụ trách Đội trực tiếp phối hợp với giáo viên chủ
nhiệm tổ chức thực hiện căn cứ theo chủ đề, chủ điểm hoạt động hàng tháng, tuần
của Đội để có nội dung tổ chức thực hiện phù hợp. Đồng thời hiệu trưởng cũng
quán triệt trong hội đồng sư phạm, yêu cầu tất cả giáo viên và các bộ phận liên
quan phối hợp thực hiện theo kế hoạch của Đội.
Trong sinh hoạt đầu tuần nhà trường tập trung chỉ đạo Tổng phụ trách Đội
phải kết hợp với công tác tuyên dương khen thưởng . Sinh hoạt chào cờ đầu đầu
tuần có thể nói là nơi lý tưởng để giáo dục học sinh: trước tất cả con mắt của thầy
cô, bạn bè, thật hãnh diện nếu được động viên, khen thưởng … vì vậy nhà trường
chỉ đạo Tổng phụ trách Đội chú ý đặc biệt tới nội dung này. Tuyên dương khen
thưởng những cá nhân, tập thể thực hiện tốt dưới cờ có thể là được nêu tên, được
tặng một tràng vỗ tay, một phần thưởng nhỏ như cây bút, quyển vở….cho các em
thực hiện tốt đó là một niềm hành diện cho học sinh.
Tóm lại: Sinh hoạt dười cờ là một hình thức mang lại hiệu quả giáo dục
cao nếu Tổng phụ trách đội nếu biết khai thác hết thế mạnh của hình thức này.
Phải làm cho các em háo hức, chờ đợi buổi sinh hoạt dưới cờ. Muốn vậy phải
biến buổi sinh hoạt dưới cờ thành sân chơi cho các em. Để thực hiện được điều
này ngoài sự sáng tạo, chủ động của Tổng phụ trách đội thì phải cần có sự phối
hợp chặt chẽ, nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, vì thế nhà
trường phải thường xuyên quan tâm, chỉ đạo, tạo mọi điều kiện thì tổng phụ trách
đội mới có thể thực hiện tốt nội dung này.
3.3.Tổ chức việc giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động xã hội,
đền ơn đáp nghĩa.
Truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn” , “ Lá lành đùm lá rách” …. Là
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện tốt hoạt động này góp phần
9



giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, trách nhiệm của
các em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời hình thành nhân
cách cho các em. Trong nhiều năm học qua, tôi đã tổ chức thường xuyên các

phong trào Mùa Xuân tình bạn, Giúp bạn vượt khó học tốt ....Ngoài ra, khi
có những thông tin cần sự giúp đỡ của cộng đồng, chúng tôi luôn tổ chức
những buôi ngoại khóa để tuyên truyền, vận động các em tham gia. Bởi
theo chúng tôi suy nghĩ, cái lớn nhất trong việc vận động này không phải là
được thật nhiều tiền để giúp đỡ các em nhỏ, cụ già có hoàn cảnh khó khăn
mà là giáo dục cái tình người ở trong mỗi các em.
Bên cạnh đó, khi đã vận động được một khoản kinh phí để giúp đỡ các địa
chỉ đang cần sự sẻ chia của cộng đồng, chúng tôi luôn cho các em cùng
tham gia. Qua những việc làm thực tế, được tận mắt chứng kiến sự kém
may mắn của các em nhỏ, các bạn cùng trang lứa với mình thì các em mới
cảm nhận hết được niềm hạnh phúc mà mình đang có khi được sống trong
tình yêu thương của ba mẹ, gia đình. Có như vậy các em sẽ yêu hơn cha
mẹ, người thân và hình thành trong các em trách nhiệm đối với mọi người.
Đây cũng là một kĩ năng cần thiết phải rèn cho các em.

Trao quà tết cho học sinh nghèo

10


Vào những ngày kỷ niệm như thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam
22/12, để nhớ ơn công lao của các anh hùng liệt sĩ, những thế hệ cha anh đi trước,
tôi giao nhiệm vụ cho tổng phụ trách đội tuyên truyền ý nghĩa các ngày này dưới
cờ, giáo viên chủ nhiệm tuyên truyền trong sinh tiết sinh hoạt ngoài giờ lên

lớp …..
Sau khi tuyên truyền thì trường tổ chức cho một số lớp tới thăm gia đình
thương binh liệt sĩ trong xã, dâng hương viếng tượng đài liệt sĩ….
Qua cách tổ chức này thì đã phối hợp giữa giáo dục qua tuyên truyền với
việc các em có hành động thực tế để thể hiện lòng biết ơn của mình với các thế hệ
cha anh đi trước.

Chăm sóc tượng đài liệt sĩ
Tóm lại: Để tổ chức tốt hoạt động GDKNS qua các hoạt động xã hội, đền
ơn đáp nghĩa cho học sinh thì phải phối hợp chặt chẽ giữa công tác tuyên truyền
vận động kết hợp với hành động thực tế. Trong đó phải đặc biệt chú ý đến cách
thức thực hiện sao cho đạt hiệu quả cao.
3.4 Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua việc tổ chức các Câu lạc bộ
năng khiếu:
Sinh hoạt Câu lạc bộ năng khiếu cũng là một hình thức hoạt động tập thể.
góp phần hết sức quan trọng đối với kỹ năng giao tiếp của học sinh, thông qua
hoạt động giao tiếp bộc lộ khả năng, tính cách của từng học sinh. Khi sinh hoạt
trong Câu lạc bộ các em có nhiều cơ hội giao tiếp với nhau, có thể chia thành 2
dạng: cá nhân với cá nhân, tập thể với tập thể. Tổ chức các Câu lạc bộ trong nhà
trường cần thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Thành lập Câu lạc bộ năng khiếu
Để thành lập các Câu lạc bộ, đầu tiên tôi phối hợp với Tổng phụ trách Đội,
giáo viên dạy các môn năng khiếu (Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục), giáo viên chủ
nhiệm lớp chọn những học sinh có năng khiếu từng lĩnh vực, từng bộ môn qua
các giờ học chính khoá của các môn năng khiếu. Các Câu lạc bộ năng khiếu được
thành lập: Câu lạc bộ bóng đá, Câu lạc bộ đá cầu, Câu lạc bộ cờ Vua, Câu lạc bộ
văn nghệ, Câu lạc bộ vẽ tranh...
Khi có nhân sự của các Câu lạc bộ, tôi phân công Tổng phụ trách Đội xây
dựng kế hoạch và một số quy định của Câu lạc bộ. Trong quy định có nội dung
11



về cách xưng hô, tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong Câu lạc bộ với nhau,
cụ thể:
Quy định về cách xưng hô: Các thành viên trong các Câu lạc bộ nếu học
lớp dưới thì phải gọi phải gọi các bạn lớp trên bằng “anh, chị” và xưng là “em
hoặc tên”; bạn cùng khối lớp thì gọi “bạn”, xưng “tên”; các bạn lớp trên đối với
các em lớp dưới thì xưng là “anh, chị” và gọi là “em”.
Quy định về tinh thần hợp tác: Các thành viên phải biết đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau thông qua việc giao việc cho nhóm, ít khi giao việc cá nhân mục tiêu là
rèn kỹ năng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau.
Bước 2. Công tác tổ chức
Trước khi tổ chức các em sinh hoạt, nhà trường phối hợp với cha mẹ học
sinh trang bị cho các em những dụng cụ cần thiết như: bóng, cờ vua, giấy vẽ...
Mỗi Câu lạc bộ đều có Đội trưởng, Đội phó để hướng dẫn các bạn trong
câu lạc bộ sinh hoạt. Đội trưởng và Đội phó là những em có năng khiếu vượt trội,
mạnh dạn, có năng lực điều hành. Nhiệm vụ này được thay đổi luân phiên 2 hoặc
3 lần/năm. Thời gian đầu mới thành lập, Tổng phụ trách Đội hoặc giáo viên dạy
môn chuyên sinh hoạt cùng với các em để hướng dẫn về hình thức, nội dung sinh
hoạt. Bản thân tôi theo dõi, quan sát các hoạt động của các em.
Theo kế hoạch định kỳ, các Câu lạc bộ sinh hoạt 2 tuần/lần với thời gian từ
1 đến 2 giờ/lần trái buổi học chính khoá của các em hoặc vào ngày thứ bảy. Địa
điểm sinh hoạt tại sân trường.
Bước 3. “Rèn kỹ năng giao tiếp” qua sinh hoạt của các Câu lạc bộ
Đây là hoạt động trọng tâm của việc “Rèn kỹ năng giao tiếp” cho các em.
Vì qua hoạt động với các thành viên trong Câu lạc bộ, các em mới bộc lộ hết khả
năng, tính cách trong giao tiếp của từng cá nhân. Vì thế, hoạt động này tôi thường
xuyên tham dự cùng các em, để kịp thời giáo dục, nhắc nhở các em những hành
vi, ngôn phong trong giao tiếp. Tuỳ theo từng Câu lạc bộ, tổ chức nội dung sinh
hoạt phù hợp.

Cụ thể:
Câu lạc bộ Cờ vua, đá cầu: các em thi đấu giao hữu với hình thức cá nhân.
Câu lạc bộ vẽ tranh: các em hoạt động cá nhân hoặc nhóm.
Câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, TDTT: hoạt động theo nhóm.
Thông qua các câu lạc bộ này có thể rèn kỹ năng giao tiếp trong xưng hô.
Ví dụ: Khi vào sinh hoạt, Đội trưởng kiểm diện các thành viên trong Câu
lạc bộ và nêu nội dung sinh hoạt. Lúc đầu, phần kiểm diện có số ít em xưng hô
“cộc lốc”, chẳng hạn: Đội trưởng gọi tên bạn A, bạn A vắng thì có một vài em trả
lời “chưa đến”, “không có” hoặc “bệnh rồi, không đi”. Sau khi kết thúc phần
kiểm diện, tôi nhắc nhở các em khi có bạn vắng mặt thì các em phải báo với Đội
trưởng rõ ràng hơn, ví dụ: bạn A vắng, thì bạn nào gần nhà hoặc cùng xóm, biết
lý do bạn A vắng thì các em báo “Bạn (anh, em) A, hôm nay (ốm, xe hư...) vắng
mặt hoặc đến muộn”. Khi mới đến điểm sinh hoạt, các em cần chào hỏi nhau,
như: “Chào bạn! Bạn đến khi nào?”; “Chào anh!”; ...

12


Câu lạc bộ TDTT dành giải Nhì môn Bóng đá cấp huyện
Thông qua các Câu lạc bộ rèn kỹ năng giao tiếp trong ứng xử: (cá nhân
với cá nhân, cá nhân với nhóm, nhóm với nhóm). Khi vào nội dung hoạt động
chính của Câu lạc bộ là luyện tập, thi đấu giữa các thành viên hoặc giữa các
nhóm. Đây là hoạt động thể hiện rõ tính cách của từng em trong giao tiếp ứng xử.
Mục đích nhà trường tổ chức Câu lạc bộ nhằm bồi dưỡng năng khiếu cho học
sinh có điều kiện để các em trao đổi, học tập, rèn luyện và phát huy năng khiếu cá
nhân. Tuy nhiên, khi vào thi đấu, tập luyện có số ít em do “cay cú” về “thắng,
thua” nên các em không nhớ những quy định về phát biểu, xưng hô với nhau,
nhất là ở môn bóng đá, môn cờ vua thường xảy ra trường hợp này. Đối với các
em trong Câu lạc bộ văn nghệ, kể chuyện thì còn một số các em chưa thể hiện tốt
tính hợp tác với các thành viên trong nhóm, tham gia qua loa, ít tập trung diễn

xuất, không giúp các bạn trong nhóm khi gặp khó khăn như: không nhớ lời thoại,
diễn xuất chưa đạt yêu cầu, thể hiện giọng chưa đúng vai nhân vật... Những lúc
như thế, tôi yêu cầu giáo viên phụ trách ra hiệu lệnh tạm dừng cuộc chơi, buổi
tập, gọi các em vào nghỉ giải lao, hội ý. Cùng với giáo viên phụ trách đến nhắc
nhở kỹ thuật, chiến thuật, tình tiết câu chuyện hoặc các động tác múa, lời ca chưa
thể hiện đúng giọng điệu... và nhắc lại một vài chuyện ngắn đã học về tinh thần
đoàn kết, tính kiên trì, nhẫn nại như: Câu chuyện bó đũa, chuyện “Có công
mài sắt”, chuyện “Chiếc đồng hồ” của Bác Hồ... để các em nhận xét và đưa ra kết
luận về cách ứng xử, hành vi và thái độ đúng. Lúc này, các em mạnh dạn nhận
xét những hành vi ứng xử trên là chưa tốt, chưa hay và các em tự hứa nhắc nhở
nhau để không có những hành vi, cách xưng hô chưa hay, chưa đúng như thế
trong mọi tình huống. Những lần sinh hoạt sau đó, tôi đến quan sát các em, nhận
13


thấy các em có chuyển biến rõ rệt trong cách giao tiếp xưng hô, tính hợp tác.
Nhưng vẫn còn một vài em có những cử chỉ, thái độ, xưng hô chưa đúng, chưa
thật sự hợp tác giúp đỡ bạn thì được các thành viên trong nhóm nhẹ nhàng nhắc
nhở, góp ý. Khi đó, học sinh được nhắc nhở, góp ý đã mạnh dạn nhận sai sót với
các bạn và hứa sẽ khắc phục.

Biểu diễn văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11
Câu lạc bộ còn là nơi rèn kỹ năng giao tiếp qua các hoạt động tổng kết,
đánh giá. Hàng tháng, Câu lạc bộ tổ chức sơ kết đánh giá, nhận xét kết quả hoạt
động trong tháng, do Đội trưởng điều khiển, nhằm giúp các em luyện nói để các
em mạnh dạn nói năng gọn gàng trước tập thể. Với mục đích như thế nên em phụ
trách Đội trưởng được luân phiên 2 tháng/lần/em. Nội dung đánh giá, nhận xét
gồm: sự tiến bộ về năng khiếu của từng cá nhân trong Câu lạc bộ, việc thực hiện
quy định trong sinh hoạt, cách giao tiếp ứng xử khi sinh hoạt, việc hợp tác giữa
các thành viên trong Câu lạc bộ... Phần nhận xét ưu điểm (nêu những bạn có tiến

bộ), những hạn chế (không nêu tên cụ thể thành viên chưa tốt). Sau khi Đội
trưởng nhận xét, các thành viên trong Câu lạc bộ có ý kiến. Sau cùng là phần
nhận xét chung của giáo viên phụ trách hoặc Tổng phụ trách Đội. Trong hoạt
động này, tôi kiên trì và kịp thời uốn nắn, sửa sai cho các em giữ nhiệm vụ Đội
trưởng để các em trình bày hay, ví dụ: “Thay mặt Câu lạc bộ, mình xin đánh giá
hoạt động của Câu lạc bộ trong tháng như sau: ...”. Hoặc “Trong tháng qua Câu
lạc bộ đã đạt được một số kết quả sau...”. Nếu các em trình bày trước tập thể chưa
thành công thì tôi giúp các em luyện nói, tập nói ngay tại chỗ khi nào hoàn thành
mới dừng lại. Tôi không phê bình các em khi trình bày còn lủng củng, chưa đủ ý,
đủ câu...
14


tránh để các em mất tự tin, trở nên tự ty, mặc cảm. Cứ như thế tạo cơ hội cho các
em có tự tin để luyện nói và được trình bày ý kiến của mình trước tập thể. Riêng
các thành viên dự sinh hoạt, khi muốn có ý kiến thì phải giơ tay theo đúng quy
định đã được thực hiện trong lớp học và khi được mời có ý kiến thì mới trình bày
ý kiến của mình. Khi các em phát biểu ý kiến, tôi theo dõi và kịp thời uốn nắn,
sửa sai về dùng từ, câu cho các em và tập cho các em có cử chỉ, thái độ lịch sự
khi phát biểu như: đúng thẳng người, ngay ngắn, vui vẻ, mắt nhìn thẳng về
trước... Còn các thành viên khác lắng nghe, không được nói ngang hoặc nhận
xét khi bạn trình bày và chưa được Đội trưởng mời có ý kiến.
Tóm lại: Qua thời gian tổ chức thực hiện sinh hoạt ở Câu lạc bộ tôi nhận
thấy các em có chuyển biến rõ rệt trong quan hệ giao tiếp, ứng xử với các bạn
trong Câu lạc bộ kể cả các bạn khác trong lớp, trong nhà trường. Các em xưng
hô, giao tiếp với thầy, cô, người lớn đúng chuẩn mực, thái độ kính trọng, lễ phép;
với bạn bè, các em nhỏ thì hoà nhã, gần gũi, thân thiện. Các em còn biết hợp tác,
giúp đỡ nhau mọi lúc, mọi nơi, mạnh dan, tự tin không chỉ trong hoạt động học
tập mà còn trong các hoạt động giáo dục khác do nhà trường tổ chức.
3.5 Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục kỹ

năng sống.
Giáo viên chủ nhiệm đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh.
Nhà trường chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm đầu tư nâng cao chất lượng giờ
sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đội –Sao hằng tuần theo Quyết định 16/2006/QĐBGDĐT, ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về
việc Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phố thông cấp tiểu học, mỗi lớp
sẽ có 02 tiết sinh hoạt tập thể. Trong đó một tiết được Ban HĐGDNGLL tổ chức
vào sáng thứ hai và một tiết do giáo viên chủ nhiệm tổ chức vào thứ sáu hằng
tuần. Tôi đã chỉ đạo cho giáo viên chủ nhiệm tổ chức sinh hoạt lớp vào tuần 1,
tuần 3; tuần 2, tuần 4 tổ chức cho các em sinh hoạt Đội –Sao. Kế hoạch của các
tiết này được thiết kế theo hình thức tổ chức các hoạt động do học sinh điều hành
dưới sự theo dõi, giúp đỡ của giáo viên. Tôi đã tăng cường dự giờ kiểm tra
thường xuyên các tiết này để giúp giáo viên thực hiện tốt hơn. Đặc biệt, tôi chỉ
đạo tất cả giáo viên trong trường phải thực hiện nghiêm việc luân phiên thay đổi
lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó để nhiều em trong lớp được có cơ hội rèn
luyện kĩ năng giao tiếp, điều hành tập thể. Trước đây, những nhiệm vụ này, giáo
viên chủ nhiệm thường giao cho một em làm suốt năm học. Cùng với việc tích
cực đổi mới phương pháp dạy học, lựa chọn tổ chức tốt các hội thi, chúng tôi còn
chỉ đạo Ban Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của nhà trường, giáo viên chủ
nhiệm các lớp tổ chức tốt các buổi sinh hoạt ngoại khóa, tham quan học tập,
tuyên truyền, vận động nhằm giáo dục được nhiều kĩ năng sống cho học sinh. Kĩ
năng chia sẻ, cảm thông cũng là một trong những kĩ năng chúng tôi cũng đã chọn
để giáo dục cho các em. Bởi lẽ, theo chúng tôi, giáo dục cho các em biết vui với
niềm vui của người khác, buồn với nổi buồn của bạn bè, người thân cũng chính là
giáo dục cho các em một nhân cách sống. Vì sự ích kỉ sẽ làm cho tâm hồn trẻ
không trong sáng. Để làm tốt việc này, ngoài việc tổ chức cho giáo viên thực
15


hiện hiệu quả các tiết học Đạo đức, chúng tôi còn tăng cường tổ chức các hoạt

động nhân đạo, từ thiện trong nhà trường.
Tóm lại: Đối với học sinh tiểu học thì giáo viên chủ nhiệm có thể coi là
người mẹ thứ hai của các em, là người gần gũi và có thể hiểu tính cách, hành vi
của từng em trong lớp. Vì thế giáo viên chủ nhiệm là một trong những nhân tố
quan trọng để thực hiện hiệu quả công tác giáo dục KNS cho các em. Vì vậy nhà
trường phải thường xuyên quan tâm, chỉ đạo, và có những định hướng cụ thể để
giáo viên thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp của mình.
3.6 Tổ chức giáo dục lao động cho học sinh
Đây là một loại hình đặc trưng của rèn kỹ năng sống. Thông qua lao động
công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích
còn góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức
lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời sống
như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp
trường, lớp.
Ngay từ đầu năm học nhà trường xây dựng kế hoạch lao động. Phân công
trách nhiệm cụ thể cho từng lớp phụ trách từng khu vực, giáo viên chủ nhiệm
chịu trách nhiệm trước nhà trường về nhiệm vụ được giao.
Các lớp vừa có trách nhiệm lao động, vệ sinh khu vực được phân công
hàng ngày, đồng thời cũng thực hiện nhiệm vụ kịp thời phát hiện và báo cáo sao
đỏ, tổng phụ trách Đội nếu có học sinh lớp khác làm mất vệ sinh khu vực của lớp
mình quản lý.
Ngoài ra 1 tháng/lần các lớp thực hiện vệ sinh toàn bộ lớp học như lau bàn
ghế, lau tủ và tất cả học sinh thực hiện tổng vệ sinh chung toàn trường. Giao cho
khối 3 tới khối 5 thực hiện dãy cỏ, quét dọn toàn bộ khuôn viên trường, khối 1&2
thực hiện nhặt cỏ trong các bồn hoa, đội Thanh thiếu niên Chữ thập đỏ xung kích
chăm sóc khu vực tượng đài liệt sĩ…

Phân công mỗi lớp phụ trách một bồn hoa, lớp phụ trách vườn cây thuốc
nam: Đây là một phần trong những kế hoạch của trường để giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh, giúp các em biết cách chăm sóc cây ra sao và biết để được

một bồn hoa xanh tốt thì phải trải qua quá trình vất vả, chăm sóc thế nào. Qua đó
16


để hiểu thêm về công việc của người lao động, biết trân trọng sức lao động và
thành quả lao động.
Phát động phong trào “ Sân trường em không có rác”: Sân trường có thể
nói là bộ mặt của nhà trường, sân trường sạch hay bẩn nó phản ánh một phần nội
dung giáo dục môi trường, giáo dục KNS của trường đó đã đạt hiệu quả hay
chưa.
Nội dung này nhà trường giao cho Đội thiếu niên và giáo viên chủ nhiệm
trực tiếp thực hiện.
Để thực hiện phong trào này nhà trường bố trí hợp lý các giỏ, thùng đựng
rác tại sân trường, trên các phòng học, hành lang. Ở từng thùng đựng rác được
dán các khẩu hiệu tuyên truyền như “ Hãy bỏ rác đúng nơi qui định”, “Bỏ rác vào
thùng”, “ Hãy bảo vệ môi trường” …
Liên đội tổ chức cho đội viên đăng ký không vứt rác bừa bãi. Đội sao đỏ
làm nhiệm vụ theo dõi, giám sát, theo dõi tình hình thực hiện của các bạn mình.
Kịp thời phát hiện, nhắc nhở những bạn thực hiện chưa tốt, tổng hợp báo cáo báo
cáo tổng phụ trách, báo cáo giáo viên chủ nhiệm có học sinh vi phạm.
Hàng ngày giao cho đội sao đỏ có nhiệm vụ kiểm tra và thúc nhắc các lớp
làm vệ sinh đúng thời gian, đúng khu vực quy định, nếu ngày nào sân trường dơ
bẩn liên đội sẽ trừ điểm thi đua của lớp chịu trách nhiệm khu vực được giao.
Tóm lại: Qua việc thực tổ chức thực hiện giáo dục lao động cho học sinh
đã mang lại hiệu quả thiết thực, các em thấy được ích lợi của việc lao động; có ý
thức tốt trong việc giữ gìn vệ sinh chung, học sinh bỏ rác đúng nơi qui định;
khuôn viên trường luôn được giữ gìn sạch đẹp.
3.7 Tổ chức giáo dục sức khỏe, hướng dẫn học sinh vui chơi đúng cách,
phòng tránh tai nạn thương tích.
Giáo dục sức khỏe, phòng chống tai nạn thương tích cho học sinh là nghĩa

vụ và trách nhiệm của nhà trường đối với các em học sinh và cha mẹ của các em.
Một số nội dung trọng tâm được nhà trường đặc biệt quan tâm thực hiện giáo dục
các em trong các năm qua đó là:
Trường tiểu học Nga Điền I nằm ngay cạnh tuyến đường liên tỉnh do đó
tôi xác định nội dung quan trọng hàng đầu để thực hiện tốt phong trào đó là thực
hiện an toàn khu vực cổng trường. Vì vậy tôi tập trung thực hiện các biện pháp cụ
thể sau:
Qui định tất cả học sinh đi xe đạp khi ra khu vực cổng trường giờ tan học
không được chạy xe mà phải dắt xe qua khu vực đông người mới được phép lên
xe đi. Không đi bộ tràn ra lòng lề đường khi tan học. Giao cho tổng phụ trách Đội
và giáo viên chủ nhiệm triển khai thực hiện.
Thành lập đội trật tự cổng trường: hàng ngày các em có trách nhiệm nhắc
nhở mọi người thực hiện hành vi ứng xử văn hóa, chấp hành an toàn giao thông,
không làm ùn tắc cổng trường.
Giao cho bảo vệ trực tiếp thường trực và thực hiện công tác ổn định trật tự
giao thông khu vực cổng trường vào giờ đưa, rước học sinh.
Ngoài ra, tôi cũng đã chỉ đạo Đội TNTP Hồ Chí Minh nhà trường thực
hiện chương trình phát thanh măng non “Chúng em với an toàn giao thông" (mỗi
17


tuần 02 lần) vào giờ tan trường để nhắc nhở học sinh và phụ huynh cùng thực
hiện.
Nhờ thực hiện các biện pháp trên mà trong năm học khu vực cổng trường
an toàn, không có tai nạn giao thông xảy ra.
Ngoài việc chú trọng thực hiện nội dung trên thì nhà trường cũng thường
xuyên hướng dẫn các em kỹ năng vui chơi, sinh hoạt đúng cách để không để xảy
ra tai nạn. Công việc này được giao cho Tổng phụ trách Đội và giáo viên chủ
nhiệm phối hợp tuyên truyền, hướng dẫn, nhắc nhở các em thực hiện.
Ví dụ: Nhắc nhở học sinh không sờ tay vào lỗ ổ cắm điện; không leo lên

lan can của nhà cao tầng; không xô đẩy nhau khi đi lên xuống cầu thang; không
chơi dao, kéo và các đồ vật sắc nhọn …
Ví dụ: Giáo dục học sinh một số tình huống thường gặp trong trường như
kỹ năng xử lý tình huống khi thấy bạn bị té chảy máu chẳng hạn. Gặp tình huống
trên thì thứ nhất các em phải báo ngay cho thầy cô biết, thứ hai là phải khẩn
trương đưa bạn vào phòng y tế. Như vậy khi gặp các tình huống này xảy ra vì các
em đã học nên các em có thể xử lý được ngay.
Ngoài ra, hàng tháng thì Hội chữ thập đỏ phối hợp cùng với tổng phụ trách
Đội, giáo viên chủ nhiệm thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục sức khỏe như:
tuyên truyền về bệnh cúm H1N1, H5N1; dịch tay chân miệng; phòng tránh đuối
nước; mặc quần áo phù hợp với thời tiết… với các hình thức như tuyên truyền
dưới cờ, trong sinh hoạt Đội, sinh hoạt sao, tổ chức tập huấn 5 kỹ thuật sơ cấp
cứu, phát tờ rơi …. cho học sinh. Chính qua việc thực hiện nội dung này giúp các
em có một lượng kiến thức nhất định giúp các em có thể bảo vệ sức khỏe của cá
nhân.
Tóm lại: Qua việc giáo dục sức khỏe, hướng dẫn các em vui chơi đúng
cách, phòng chống tai nạn thương tích thì các em đã tiếp thu và thực hiện khá tốt
các nội dung giáo dục. Trong các năm học vừa qua không xảy ra tai nạn thương
tích nghiêm trọng trong trường; các em chấp hành khá tốt Luật giao thông; từng
bước có hiểu biết và biết cách bảo vệ sức khỏe của bản thân …
3.8 Tăng cường công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường, xã hội
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Phụ huynh học sinh là một thành tố không thể thiếu trong ba thành tố để
thực hiện công tác giáo dục học sinh đó là Nhà trường – Gia đình – Xã hội.
Thực tế nhiều cha mẹ vì quá yêu thương mà bao bọc, làm hết tất cả mọi
việc cho các em mà không biết rằng điều đó vô tình dẫn đến việc trẻ thiếu hụt kỹ
năng sống, không biết cách tự phục vụ bản thân, đôi khi việc giáo dục kỹ năng
sống cũng chưa được phụ huynh học sinh quan tâm đúng mức điều này khiến các
em gặp phải khó khăn khi trưởng thành.
Vì vậy trong các cuộc họp phụ huynh học sinh lớp, họp phụ huynh học

sinh trường cùng với việc triển khai các nội dung khác thì nhà trường đặc biệt
chú ý đến vấn đề phối hợp để giáo dục kỹ năng sống cho các em. Có thể nói rằng
gia đình là cái nôi giáo dục tối quan trọng để hình thành kỹ năng sống cho các
em. Một số nội dung nhà trường trao đổi, phối hợp để phụ huynh thực hiện như:
Giáo viên chủ nhiệm gợi ý phụ huynh học sinh xây dựng và kiểm tra
việc thực hiện thời gian biểu ở nhà : Trao đổi với phụ huynh học sinh về quy định
18


thời gian biểu trong ngày cho các em. Giáo viên chủ nhiệm sẽ chịu trách nhiệm
hướng dẫn các em thực hiện thời gian biểu phù hợp. Ví dụ thời gian biểu buổi
sáng ngày bình thường của một học sinh như sáng 6 giờ dậy, đánh răng, rửa mặt,
quét nhà, ăn sáng sau đó đi học … sẽ phối hợp theo dõi, động viên, nhắc nhở các
em thực hiện theo thời gian biểu. Vào ngày thứ bảy, chủ nhật các em được nghỉ
thì cùng với mẹ nhặt rau nấu cơm, các em học sinh lớp lớn hơn có thể cắm cơm
phụ cha mẹ, chế biến một số món ăn đơn giản; dọn dẹp nhà cửa, lau bàn ghế …
Phối hợp giáo dục các em về các ứng xử văn hóa. Ví dụ như có khách
đến nhà, hoặc đi chơi nhà người khác các em phải thưa người lớn tuổi hoặc đơn
giản ở gia đình khi ăn cơm các em phải so đũa cho mọi người, cha mẹ ăn xong
phải lấy tăm cho cha mẹ …
Phối hợp trong việc tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động
ngoại khóa: Vận động cha mẹ học sinh hỗ trợ và đồng ý cho các em tham gia các
hoạt động ngoại khóa như Hội khỏe Phù Đổng, biễu diễn văn nghệ, tham gia các
Câu lạc bộ….

Học sinh tham gia Hội khỏe Phù Đổng cấp trường
Ngoài việc phối hợp với gia đình thì việc phối hợp với các ban ngành
đoàn thể của xã để thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho các em cũng được nhà
trường chú trọng: Ví dụ phối hợp với Đoàn thanh niên xã để tổ chức các hoạt
động vui chơi trong hè cho các em học sinh, phối hợp với trạm y tế của xã để

tuyên truyền về các bệnh theo mùa, hướng dẫn học sinh 5 kỹ thuật sơ cấp cứu,
khám sức khỏe định kỳ và tư vấn sức khỏe cho các em học sinh; …
19


Tóm lại: Công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội góp phần
quan trọng trong sự thành công của việc giáo dục KNS cho học sinh. Nhà
trường phải xác định rõ mình là lực lượng then chốt trong công tác phối hợp này
và để đạt được hiệu quả thì nhà trường phải có những định hướng cụ thể trong
công tác phối hợp trong đó công tác tuyên truyền, vận động Ban đại diện cha mẹ
học sinh, phụ huynh học sinh đóng vai trò tối quan trọng để thực hiện các mục
tiêu đã đề ra. Ngoài ra cần phối hợp triệt để với các ban ngành đoàn thể ở địa
phương trong đó cần chú trọng việc tham mưu lãnh đạo chính quyền địa phương
để chỉ đạo các ban ngành đoàn thể giúp cho công tác phối hợp đạt hiệu quả cao
hơn.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua học tập và nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng công tác giáo dục KNS ở
trường , tôi mạnh dạn đưa một số biện pháp như đã nêu trên. Do điều kiện thời gian nghiên
cứu hạn chế cũng như thời gian áp dụng trong thực tế công tác chưa được nhiều nên để xác
định hiệu quả của SKKN tôi đã xây dựng phiếu điều tra để lấy trưng cầu ý kiến của 20 cán
bộ, giáo viên và 290 học sinh trong trường. Kết quả cụ thể như sau:
* Về phía nhà trường, giáo viên
Đội ngũ giáo viên nắm bắt khá đầy đủ nội dung GDKNS và từng bước biết
vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục thích hợp để hình thành
cho học sinh thái độ, hành vi trong cuộc sống.
Hoạt động GDNGLL từng bước đa dạng về hình thức tổ chức, nội dung
giáo dục sâu hơn và được tập trung khai thác với mục tiêu GDKNS cho học sinh.
* Về phía phụ huynh học sinh
Thông qua các cuộc họp phụ huynh học sinh hoặc gặp gỡ trao đổi riêng thì
phụ huynh học sinh đã nắm bắt rõ thêm sự cần thiết phải GDKNS cho các em và

cách giáo dục phù hợp. Phụ huynh học sinh đã quan tâm hơn đến việc GDKNS
cho con em của mình khi các em ở gia đình, phụ huynh không chỉ nhắc các em
học văn hóa mà còn chú ý đến việc GDKNS cho các em.
* Về phía học sinh
Thông qua các biện pháp giáo dục thì các em từng bước được bồi dưỡng
thêm các kỹ năng sống.
Học sinh nhà trường từ chỗ đa số các em chỉ biết đã đi đến hành động
bằng những việc làm cụ thể, các em đã biết biến cái "biết" thành cái "làm" trong
thực tế cuộc sông một cách tích cực, hài hòa, hiệu quả. Kĩ năng làm các công việc
lao động đơn giản; kĩ năng thực hiện nếp sống văn minh nơi công cộng; kĩ năng
tham gia giao thông an toàn; kĩ năng phòng tránh tai nạn, thương tích của học
sinh … có những chuyển biến mạnh mẽ.
Kết quà về nhận thức của học sinh
Số học sinh chưa
Số học sinh có nền
Số học sinh còn mơ
tảng để phát triển
Tổng số học có nhận thức về kỹ
hồ về kỹ năng sống
năng sống
kỹ năng sống
sinh
SL
TL
SL
TL
SL
TL
292
0

0
42
14,3%
250
85,7%
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
20


Hình thành KNS cho học sinh chính là hình thành nhân cách cho các em.
Vì vậy nội dung này cần được chú trọng thực hiện và giáo dục một cách thường
xuyên, liên tục. Vai trò của thầy cô giáo là vô cùng quan trọng và với sự kết hợp
hợp lý, nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế tôi tin tưởng các em sẽ có những
KNS theo mục tiêu của giáo dục và đào tạo.
Qua thực tế quá trình quản lý, chỉ đạo thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh thông qua các hoạt động giáo dục trong và ngoài giờ lên lớp
cùng với những kinh nghiệm của bản thân và sự nghiên cứu học hỏi đồng nghiệp,
tôi nhận thấy phần trình bày trên còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy tôi rất
mong sự góp ý chân thành của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để cho đề
tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị:
2.1. Với Bộ GD&ĐT: Cần biên soạn them nhiều sách, tài liệu tham khảo
hướng dẫn CBQL, GV và Cha mẹ học sinh về nội dung, biện pháp, các hình thức
tổ chức Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phù hợp với giai đoạn hiện nay.
2.2. Với Sở GD&ĐT: Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề,
hội thảo về giáo dục kỹ năng sống và quản lý việc giáo dục kỹ năng sống để cán
bộ Quản lý và Giái viên các đơn vị tham dự học tập.
2.3. Với Phòng GD&ĐT: Hằng năm, tổ chức kiểm tra, đánh giá công tác giáo
dục kỹ năng sống ở các trường học, nhân điển hình các trường tiên tiến trong

công tác giáo dục kỹ năng sống để các ngfkhacs học tập, rút kinh nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Thị Tuyển – Cẩm nang giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học –
Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
2. Bộ giáo dục và đào tạo – Chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu
học,ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT của Bộ
Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3. Đặng Quốc Bảo – Nguyễn Thị Bảy – Bùi Ngọc Diệp – Bùi Đức Thiệp –
Ngô Thị Tuyên. Cẩm nang xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cuwjcc. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam,2009.
4. Ngô Thị Tuyên (Chủ biên). Hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dung thân
thiện môi trường dành cho các trường Tiểu học.
XÁC NHẬN

Nga Sơn, ngày 01 tháng 4 năm 2016

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Văn Sơn

Phạm Thị Hạnh

21


PHỤ LỤC 1

PHIẾU ĐIỀU TRA
DÀNH CHO HỌC SINIH TRƯỜNG TH NGA ĐIỀN I
Phiếu này nhằm mục tiêu tìm hiểu, đánh giá thực trạng, tìm giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh. Phiếu không cần các thông tin cá nhân,
mong các em cung cấp những nhận định khách quan nhất để công tác này triển
khai được thành công. Xin chân thành cảm ơn.
Em hãy lựa chọn chỉ một phương án trả lời phù hợp nhất với bản thân mình
cho mỗi câu hỏi sau:
Câu 1: Ở trường học hoặc khi vui chơi, em có hay bị bắt nạt không?
a. Thường xuyên.
b. Đôi khi.
c. Không bao giờ.
Câu 2: Khi bị bắt nạt phản ứng của em như thế nào?
a. Chịu đựng.
b. Chống lại bằng bất cứ giá nào?
c. Cầu cứu người lớn (thầy cô, bố mẹ)
Câu 3: Giả sử em bị thầy giáo mắng oan, em sẽ:
a. Im lặng, vì thầy giáo có quyền như vậy.
b. Phản ứng quyết liệt, vì em không mắc lỗi gì?
c. Đề nghị giáo viên nghe em trình bày rõ sự việc.
Câu 4: Em có thể thuyết trình mà không cần giấy tờ gì trước đám đông
(trong giờ chào cờ chẳng hạn) hay không?
a. Em chịu thôi, run lắm.
b. Tùy theo vấn đề cần trình bày.
c. Em làm được.
Câu 5: Em có thích sinh hoạt ngoài giờ lên lớp không?
a. Em có trách nhiệm tham gia.
b. Cũng vui vẻ.
c. Rất bổ ích.
Câu 6: Em thích hình thức Hoạt động nào nhất?

a. Gì cũng được.
b. Sinh hoạt truyền thống.
c. Sắm vai (diễn kịch, văn nghệ)
Câu 7: Em có cảm giác bức bối vì bị cha mẹ và thầy cô giám sát chặt chẽ
không?
a. Không có vấn đề gì?
b. Đôi khi.
c. Khó chịu quá.
Câu 8: Em thích giữ vai trò gì khi tham gia thảo luận trong nhóm học tập?
a. Gì cũng được.
b. Thư kí nhóm.
c. Nhóm trưởng.
22


Câu 9: Nếu có cơ hội lựa chọn, em sẽ chọn sinh hoạt dạng câu lạc bộ nào?
a. Em bận học lắm.
b. Câu lạc bộ môn học ưa thích.
c. Câu lạc bộ thể thao.
Câu 10. Em đang ở nhà một mình, một người tự xưng là nhân viên tiếp thị
đến và giới thiệu quảng cáo sản phẩm. Hành động của em là:
a. Kệ họ, nói hết họ sẽ đi.
b. Chọn hàng và mua hàng.
c. Mời họ đi luôn vì em không có nhu cầu mua.
Xin chân thành cảm ơn các bạn!
Cách đánh giá: Nếu phiếu chọn đa số đáp án a: Học sinh thiếu hiểu biết
tối thiểu về KNS, không có hiểu biết cần thiết về các vấn đề xung quanh nhận
thức về KNS. Nếu học sinh đa số chọn phương án b có thể nói độ tin cậy của
phiếu không đảm bảo vì nó nói lên sự lưỡng lự của học sinh giữa cách chọn một
phương án thực tế như suy nghĩ của em với một cách chọn phương án mà các em

thấy hay. Khi học sinh chọn đa số phương án c, có thể nói học sinh có nền tảng
cần thiết để phát triển các KNS phù hợp với lứa tuổi, học sinh ham hiểu biết, có
nhận thức về bản thân và các mối quan hệ xã hội.

23


PHỤ LỤC 2
PHIẾU ĐIỀU TRA
DÀNH CHO GIÁO VIÊN TRƯỜNG TH NGA ĐIỀN I
Thầy (cô) hãy chọn câu trả lời nào mà thầy (cô) cho là đúng nhất (từ câu
1 tới câu 9; Câu 10: Thầy (cô) hãy trả lời theo quan điểm riêng của thầy (cô).
1. Theo thầy (cô), ở trường phổ thông có cần thiết phải có hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp không?
A. Rất cần
B. Cần
C. Không cần
2. Theo thầy (cô), hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có giúp cho việc học
tập trên lớp được tốt hơn không?
A. Có
B. Bình thường
C. Không
3. Thầy (cô) nghĩ hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là:
A. Rất bổ ích cho việc học tập và nâng cao kiến thức
B. Là hoạt động vui chơi không liên quan tơi việc học văn hoá
C. Là hoạt động tốn thời gian
4. Được giao trách nhiệm phải tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
thầy (cô) cảm thấy:
A. Rất hào hứng
B. Bình thường

C. Mệt mỏi
5. Có ý kiến cho rằng: “Học tập không cần thiết phải có hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp”, theo thầy (cô) ý kiến này là:
A. Hoàn toàn sai
B. Bình thường
C. Sáng suốt
6. Theo thầy (cô), có phải tất cả các môn học đều cần có hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp?
A. Cần cho tất cả các môn
B. Chỉ cần cho một số môn
C. Hoàn toàn không cần cho bất cứ môn học nào
7. Nếu có kế hoạch bỏ hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, thầy (cô) sẽ:
A. Dứt khoát phản đối
B. Còn tuỳ
C. Đồng ý ngay
8. Nếu được giảm một số tiết học trên lớp để tăng thời lượng cho hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp, thầy (cô) sẽ:
A. Đồng ý ngay
B. Sao cũng được C. Không đồng ý
9. Thầy (cô) có tổ chức đầy đủ các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho
học sinh theo kế hoạch không?
A. Đầy đủ
B. Không đầy đủ C. Hoàn toàn không
10. Xin thầy (cô) hãy vui lòng cho biết suy nghĩ của thầy (cô) về vấn đề giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của học
sinh phổ thông hiện nay là như thế nào?
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................

Họ và tên giáo viên
LỜI CẢM ƠN:
(có thể ghi hoặc không)
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy (cô)
24


đã giúp đỡ tôi hoàn thành phiếu điều tra này.
(

25


×