1. Mở đầu
- Lý do chọn đề tài
Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những
quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và
tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là
những kiến thức cơ bản về nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó
nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học
sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ
động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học
sinh.
Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy
giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm.
Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy
giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để
các em tự lĩnh hội tri thức.
Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã và đang diễn ra, nhất là trong thời gian gần
đây. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép,… người giáo
viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề mang
tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tự nghiên cứu. Thực
trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong
tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ 10 nhằm phát huy
tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách và cần thiết.
Xác định được nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã không ngừng
đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS,
trong đó phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựu chọn.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng phương
pháp đóng vai trong dạy học Bài 12. Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một
số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” góp phần thực hiện yêu cầu đổi
mới nội dung và PPDH theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS ở phổ
thông
1
- Mục đích nghiên cứu
Thiết kế, xây dựng và sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học phần
nông, lâm, ngư nghiệp - Công nghệ 10, nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh, nâng cao hiệu quả dạy học Công nghệ 10.
- Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 10 bậc trung học phổ thông.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu về đổi mới PPDH theo
hướng tích cực hóa việc học của học sinh.
Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 (phần
Nông, Lâm, Ngư nghiệp).
Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp, biện pháp thiết kế và sử
dụng phương pháp đóng vai trong nội dung bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ
thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo hướng
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
+ Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến
làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
+ Phương pháp thực tập sư phạm
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Lê Lai, tiến hành theo quy trình của
đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được.
2
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực
PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ
những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào việc phát huy
tính tích cực của người học. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực
thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
2.1.1.2. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
2.1.2. Ưu điểm của phương pháp đóng vai
- HS được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.
- Khích lệ sự thay đổi hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức
và chính trị xã hội.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các
vai diễn.
- Phát huy được những kinh nghiệm thực tế và tư duy sáng tạo của từng cá
nhân cũng như sự phối hợp chặt chẽ của cá nhân với tập thể, nhóm.
- Lớp học sinh động, người học tiếp thu kiến thức thông qua những hoạt
động tích cực trong "vai diễn" của họ.
2.1.3. Hạn chế của phương pháp đóng vai
- Mất nhiều thời gian.
- Phải suy nghĩ "kịch bản", "diễn viên"...
- Đối tượng học sinh có tỷ lệ khá giỏi phải nhiều.
- Nếu số lượng học sinh nhiều thì hiệu quả sẽ không cao.
2.1.4. Cách thức tổ chức phương pháp đóng vai
Cách thức tiến hành phương pháp đóng vai thường theo các bước sau:
3
- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm một cách
tương đối đơn giản và quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai.
- Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công sắm vai.
- Thứ tự các nhóm đóng vai.
- Các HS khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, đánh giá, bổ sung (nếu cần).
- Cuối cùng GV kết luận chốt lại về cách ứng xử cần thiết trong tình huống,
nêu sự cố gắng của HS và rút kinh nghiệm.
Cách thức tiến hành có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau:
GV chia nhóm, giao nhiệm vụ
Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản
Các nhóm đóng vai
Các nhóm khác theo dõi, nhận xét…
Giáo viên nhận xét, kết luận
Sơ đồ 1. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai
2.1.5. Một số lưu ý khi thực hiện phương pháp đóng vai
- Chọn vấn đề đóng vai có mục tiêu dạy học rõ ràng.
- Chọn người đóng vai có kiến thức hay kinh nghiệm tương tự vai diễn hay
chọn tình huống cho các nhóm đóng vai phải sát thực tế và đáp ứng mục tiêu
dạy học.
- Giáo viên giới thiệu vai diễn rõ mục đích, thống nhất tình huống.
- Tình huống nên để mở, giáo viên không cho trước “kịch bản”, lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ nhiệm vụ của mình ttrong bài tập đóng vai để
không lạc đề.
- Nên có các biện pháp khích lệ những học sinh nhút nhát tham gia.
- Nên hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng
vai.
4
- Rút ra được kết luận sư phạm: ý đồ đưa ra tình huống để đóng vai, mục
đích của kịch bản, kết quả sư phạm thu được v.v...
2.2. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trường THPT hiện nay
2.2.1. Thực trạng dạy học công nghệ 10 ở trường THPT hiện nay
2.2.1.1. Về phía giáo viên
Thực tế giảng dạy môn Công nghệ 10 ở trường THPT đã có giáo viên riêng
nhưng phần lớn vẫn do giáo viên ở các bộ môn khác đảm nhận nên sự “đầu tư”
giảng dạy chưa cao. Việc sử dụng các PPDH truyền thống càng làm cho HS có
cách nhìn tiêu cực về môn học này, và nhiều HS ngày càng “ngán” môn Công
nghệ. Để tránh hiện tượng nhàm chán cho HS việc mạnh dạn sử dụng phương
pháp đóng vai vào dạy học Công nghệ 10 là rất cần thiết, đặc biệt trong những
năm gần đây với chương trình thay sách, đóng vai là phương pháp được áp dụng
khá phổ biến.
2.2.1.2. Về phía học sinh
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ 10
chiếm tỷ lệ trung bình rất cao. Hoạt động của các em chủ yếu là nghe giảng, ghi
chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng
trong giờ học, có khi lớp 48-52 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung
4-5 em phát biểu xây dựng bài. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học
tập bộ môn Công nghệ 10.
Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi
ít, khá và trung bình nhiều, yếu vẫn còn.
2.2.2. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở
trường THPT hiện nay
Một là giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học.
Bởi để dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của HS
đòi hỏi phải đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án. Đồng thời giáo viên
phải có năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với
giáo viên hiện nay vì một số trường chưa có giáo viên chuyên ngành kỹ thuật
nông nghiệp.
Hai là ở một số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt
động học tập của bộ môn như: chưa có phòng thực hành bộ môn, chưa có các đồ
dùng dạy học cần thiết…
5
Ba là môn học này không được học sinh coi là môn học chính, vì không thi
tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông lỏng, thả
trôi trong ý thức học tập của học sinh.
2.3. Sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy học bài 12. “Đặc điểm,
tính chất , kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường” – Công
nghệ 10.
2.3.1. Các cách đóng vai khi dạy bài “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử
dụng một số loại phân bón thông thường”
Đối với bài này có thể sử dụng phương pháp đóng vai theo một số cách sau
đây:
Cách 1: Học sinh đóng vai mình chính là các loại phân bón.
Cách 2: Học sinh đóng vai là bà con nông dân sử dụng các loại phân bón.
Cách 3: Học sinh đóng vai là cán bộ khuyến nông về xã để giới thiệu các
loại phân bón.
Cách 4: Học sinh đóng vai là người đi mua phân bón ở các cửa hàng.
2.3.2. Tổ chức dạy bài 12 - “Đặc điểm, tính chất , kỹ thuật sử dụng một
số loại phân bón thông thường” theo phương pháp đóng vai tại trường
THPT Lê Lai
Đối với bài này tôi sử dụng đóng vai theo các cách: Học sinh đóng vai
người nông dân đi mua phân bón, người nông dân sử dụng phân bón và một
cán bộ khuyến nông giới thiệu về một loại phân bón mới.
Cách này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm (14-15 người)
+ Nhóm 1: Người nông dân đi mua phân bón hóa học tại 1 cửa hàng phân bón.
+ Nhóm 2: Bác nông dân A đến vườn nhà bác nông dân B học hỏi bí quyết sản
xuất để có thể cho năng suất cao mà chất lượng nông sản lại tốt (bí quyết chính
là bác nông dân B sử dụng phân bón hữu cơ).
+ Nhóm 3: Một cán bộ khuyến nông về xã nọ để giới thiệu về loại phân bón mới
đó là Phân vi sinh vật.
GV sẽ phân công nhiệm vụ cho các nhóm sau khi học xong bài 11 để các
nhóm có thời gian xây dựng kịch bản, phân công diễn viên, tập lời thoại và
chuẩn bị các mẫu vật cần thiết như các loại phân bón.
Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
6
Bước 3: Thứ tự các nhóm lên đóng vai.
Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần).
Bước 5: Giáo viên nhận xét, đánh giá, kết luận.
Lưu ý: phải cho HS chuẩn bị trước vì nếu chỉ với thời gian 45 phút ở lớp không
thể kịp để các nhóm có thể xây dựng kịch bản, phân công diễn viên, học thuộc
lời thoại và trình bày.
Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của 2 nhóm học sinh lớp 10A1
trường THPT Lê Lai lên đóng vai:
+ Nhóm 1: Tình huống như sau: “Một anh công nhân viên chức sinh ra
trong gia đình làm nông, nhưng từ nhỏ đến lớn chỉ lo học hành nên chưa bao giờ
phải tham gia vào việc đồng áng. Hôm nay là ngày nghỉ, bố anh lại đi vắng nên
mẹ anh đã nhờ anh đi mua phân bón, trước khi đi mẹ anh chỉ nhớ dặn con là đi
mua phân hóa học”. tình huống diễn ra như thế nào mời cô và các bạn cùng
xem.
Người mua(NM): Chào các bác, hôm nay là ngày nghỉ em tranh thủ giúp
mẹ đi mua phân bón. Sao mà nhiều cửa hàng bán phân thế nhỉ, mình biết chọn
cửa hàng nào đây, thôi mình cứ vào thử cửa hàng này xem sao.
Người bán(NB): Chào chú em, chú em mua phân à?
NM: Cái bà này vô duyên thật, vào cửa hàng bán phân mà không mua phân
thì mua gì?
NB: xin lỗi, thế chú em mua phân gì?
NM: Thế bác có những loại phân gì?
NB: chú thông cảm nhé, ở đây chị chỉ bán phân hóa học thôi.
NM: Đúng thứ mình đang cần, nhưng mà chị ơi phân hóa học là phân như
thế nào?
NB: “ phân hóa học là loại phân bón được sản xuất theo quy trình công
nghiệp, có sử dụng nguyên liệu tự nhiên hoặc tổng hợp”.
NM: À….
NB: Thế chú em mua phân đơn hay phân đa?
NM: Phân đơn và phân đa là phân như thế nào?
NB: à, phân đơn là phân có chứa 1 nguyên tố dinh dưỡng ví dụ như: đạm,
lân, kali…, chú em nhìn này, đây chính là phân đơn đấy (đưa mẫu phân bón).
NM: Ồ, chúng có màu sắc đẹp thế nhỉ?
7
NB chỉ vào phân bón và giới thiệu: dạng tinh thể màu trắng là phân đạm,
màu xanh xám là phân lân và màu đỏ là phân kali.
NM: Trông này, phân lân giống xi măng quá, còn phân kali thì giống muối
ớt, thế còn phân đa thì sao?
NB: phân đa là phân có chứa 2 nguyên tố dinh dưỡng trở lên ví dụ như
NPK...,
NM: là phân có nhiều màu sắc kia đúng không? (NM chỉ vào phân NPK)
NB: đúng rồi
NM: Ồ, thế loại phân hóa học này có những đặc điểm gì?
NB: Loại phân này có những đặc điểm sau: thứ nhất, chứa ít nguyên tố dinh
dưỡng nhưng tỷ lệ chất dinh dưỡng cao VD: phân đạm chứa 46% là Nitơ, phân
lân chứa 60% là P2O5…. Thứ hai, phần lớn dễ tan (trừ lân) nên cây dễ hấp thụ
và cho hiệu quả nhanh.
NM: Thế nó có nhược điểm gì không?
NB: À, loại phân này có nhược điểm là bón nhiều và liên tục nhiều năm sẽ
làm đất chua.
NM: Tôi hiểu rồi, thế còn cách sử dụng có dễ không hả chị?
NB: Rất dễ, đối với Đạm và kali do dễ tan nên dùng để bón thúc là chính
(tức là bón lúc nào cây cần). Phân Lân khó tan nên chủ yếu dùng để bón lót (bón
trước khi gieo hạt), còn NPK thì có thể bón lót hoặc bón thúc cũng được.
NM: Có cách nào để hạn chế nhược điểm của loại phân này không?
NB: Có chứ, đất dễ bị chua hóa nên cần kết hợp bón vôi cải tạo.
NM: À.
NB: Chú em còn thắc mắc gì nữa không nào?
NM: dạ đủ rồi ạ.
NB: Thế giở chú em mua loại nào, mua bao nhiêu để chị lấy.
NM: Mua loại nào bây giờ nhỉ, mẹ mình có dặn đâu. Chị ơi, chị bán quen
hay là chị tự lấy cho em đi.
NB (ngạc nhiên): chú em dở hơi à, mua phân thì phải tùy thuộc vào loại cây
trồng, loại đất và diện tích nữa chứ.
NM (suy nghĩ): hay là thế này nhá chị, em sẽ về hỏi lại mẹ rồi trở lại mua,
chào chị.
NB: ơ này, từ từ đã, thế là không mua à? Trời ơi! Xỉu……………
8
Ghi chú: Từ in nghiêng là nội dung chính được HS trình bày trên giấy A0.
+ Nhóm 2: Tình huống như sau: 1 chị nông dân nghe tin người bà con của
mình ở xóm trên vụ mùa vừa qua thắng lợi lớn, năng suất cao mà chất lượng
nông sản lại rất tốt. Chị quyết định lên thăm người bà con của mình.
Bác hai đang ở ngoài vườn rau, vừa dọn vườn bác vừa hát nghêu ngao: trên
đất vồng mình trồng khoai lang, trên đất vồng mình trồng ngô khoai…. Thì nghe
tiếng gọi:
Cô ba: anh hai ơi anh hai, có ở nhà không anh hai.
Bác hai: tui ở ngoài vườn, ai đó?
Cô ba: không nhận ra em sao anh hai?
Bác hai: ủa, sao hôm nay rồng lại đến nhà tôm chơi thế này.
Cô ba: Lâu ngày đến thăm anh hai không được hay sao, mà không biết ai là
rồng, ai là tôm đâu đó nha.
Bác hai: Đùa với cô ba tí thôi, vào nhà đi cô ba.
Cô ba: Thôi ở ngoài này nói chuyện cho mát.
Bác hai: Dạo này vườn cô ba thế nào, thu hoạch khá không?
Cô ba: Chán lắm, năng suất nhà em dạo này thấp quá, đất đai lại cứ xấu dần
đi, em đang nẫu cả ruột đây này. Chà nhìn vườn nhà anh hai thấy đã ghê ta, rau
thì xanh mướt, đất trồng thì tơi xốp, màu mỡ, chẳng bù cho đất nhà em (thở
dài).
Bác hai: Tại cô ba lạm dụng phân hóa học nhiều quá đó thôi, tôi đã nói rồi
mà cô ba không nghe.
Cô ba: Thì còn cách nào khác đâu, đất thiếu dinh dưỡng thì mình phải bón
chứ sao. À mà này, anh hai làm thế nào mà đất anh ngon thế, chỉ em bí quyết
với.
Bác hai: Có bí quyết gì đâu cô ba, tui sử dụng phân hữu cơ đấy.
Cô ba: Phân hữu cơ là gì vậy anh hai?
Bác hai: Phân hữu cơ là loại phân bón có nguồn gốc từ chất hữu cơ.
Cô ba: Là sao hả anh hai?
Bác hai: Thật ra phân hữu cơ rất quen thuộc với cô mà cô không biết đấy
thôi.
Cô ba: Có nghĩa là nó biết em mà em không biết nó sao?
Bác hai: Cô nhìn xem đây là gì? (bác hai đưa cô ba ra chỗ có mớ lá cây bác
9
vừa dọn lại lúc nãy)
Cô ba: Thân, lá cây đậu, cây mía, cây cỏ hôi, cây điền thanh.
Bác hai: Chưa hết đâu còn đây nữa này (bác hai lại chỉ đến đống phân bò,
phân dê)
Cô ba: Những thứ này để làm gì vậy anh hai?
Bác hai: Đây chính là phân hữu cơ đó cô ba.
Cô ba: Vậy hả, thế mà từ trước tới giờ những thứ này em toàn đem bỏ đi
không à, đúng là lãng phí quá. Mà anh hai này, loại phân này có những đặc điểm
gì anh biết không?
Bác hai: À có chứ, cô ba biết không loại phân này có đặc điểm thứ nhất là
Chứa nhiều nguyên tố dinh dưỡng nhưng thành phần và tỷ lệ không ổn định, thứ
hai là cần phải có thời gian phân hủy nên hiệu quả chậm (lâu dài). Nhưng đáng
nói nhất là phân này bón nhiều không hại đất mà còn có khả năng cải tạo đất
tốt. Chính vì vậy mà đất nhà tôi mới ngày càng tơi xốp và màu mỡ đó chứ.
Cô ba: Thế sử dụng như thế nào, có hôi không anh hai, với lại em chỉ sợ
trên cây còn mầm bệnh, trong phân động vật có các loại giun, sán gây bệnh thì
sao?
Bác hai: Phân này sử dụng rất đơn giản cô sử dụng để bón lót, vùi vào đất
trước khi gieo hạt thế là xong, còn mầm bệnh và các loại ký sinh gây bệnh thì cô
xử lý chúng bằng cách ủ cho hoai mục với một ít vôi sống trước khi bón vào
đất.
Cô ba: Thế thôi hả anh hai, dễ quá. Thế thôi em chào anh nhé, em phải về
làm liền đây.
Bác hai: Ơ, này vào nhà uống nước đã cô ba…..
Chú ý: nhóm đã chuẩn bị một số mẫu phân hữu cơ như đã nêu trong tiểu phẩm.
+ Nhóm 3: tiểu phẩm của nhóm 3 là một cán bộ kiểm lâm về xã để giới thiệu
về loại phân bón mới đó là Phân vi sinh vật, và nội dung tiểu phẩm là những câu
hỏi và câu trả lời làm rõ khái niệm, đặc điểm và kỹ thuật sử dụng phân vi sinh
giống như các tình huống trên.
10
GIÁO ÁN
Tiết PPCT 11. Bài 12: ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT, KỸ THUẬT SỬ DỤNG
MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN THÔNG THƯỜNG
I. MỤC TIÊU
Sau bài học này, học sinh phải:
1. Về kiến thức:
- Kể tên được một số loại phân bón thường dùng trong nông, lâm nghiệp.
Cho ví dụ từng loại.
- Nêu được đặc điểm và tính chất của một số loại phân bón thường dùng
trong nông, lâm nghiệp.
- Mô tả được cách sử dụng các loại phân bón và giải thích được cơ sở khoa
học của việc sử dụng. Nêu được ví dụ minh họa.
- Phân biệt được cách sử dụng phân hữu cơ và phân vi sinh.
2. Về kỹ năng:
- Rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm, trình bày trước lớp.
3. Về thái độ:
- Có ý thức vận dụng được những hiểu biết về phân bón để tham gia và
vận động mọi người sử dụng phân bón hợp lý, tăng năng suất cây trồng, tăng độ
phì nhiêu cho đất, đồng thời bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người.
II. CHUẨN BỊ BÀI DẠY
- Mẫu một số loại phân bón thường dùng (đạm, lân, kali, NPK…).
- Tranh ảnh liên quan đến bài dạy.
- 3 tờ giấy A0 , 3 tờ nguồn, 3 bút xạ, 3 cốc (hoặc bình tam giác).
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- Thảo luận nhóm – phương pháp đóng vai.
- Làm việc với sách giáo khoa.
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức (2 phút)
2. Vào bài mới (4 phút)
GV hỏi: Trong việc cải tạo các loại đất trồng đã học, muốn cung cấp chất
dinh dưỡng cho đất người ta thường sử dụng biện pháp nào? (HS: Bón phân).
GV giảng thêm: Tại Hội nghị phân bón thế giới (1937) từng nói: “Cơ sở
sản xuất nông nghiệp là độ phì nhiêu. Cơ sở độ phì nhiêu là phân bón, nhờ phân
bón mà đất xấu cũng trở thành đất tốt…”
? Vậy phân bón gồm những loại nào?
HS trả lời → GV sắp xếp ở bảng
11
Phân hoá học
Phân bón
Phân hữu cơ
Phân đạm, lân, kali
Phân hỗn hợp NPK
Phân vi lượng
Phân xanh: bèo…
Phân chuồng…
Phân rác, phân bùn…
Phân vi sinh vật
GV kết luận và vào bài mới: Như vậy, có rất nhiều loại phân bón khác nhau.
Muốn sử dụng có hiệu quả thì chúng ta phải hiểu đặc điểm, tính chất và cách sử
dụng của các loại phân bón đó. Để hiểu rõ các loại phân này chúng ta nghiên
cứu bài hôm nay (ghi bảng).
Thời
Hoạt động của
Nội dung
gian
giáo viên – học sinh
10 GV chia lớp làm 3 nhóm, cử
phút nhóm trưởng, thư ký và phát cho
mỗi nhóm 1 bút dạ + 1 tờ giấy A0
Nhóm 1: Tìm hiểu khái niệm,
phân loại, đặc điểm và cách sử
dụng phân hoá học.
Nhóm 2: Tìm hiểu khái niệm,
phân loại, đặc điểm và cách sử
dụng phân hữu cơ.
Nhóm 3: Tìm hiểu khái niệm,
phân loại, đặc điểm và cách sử
dụng phân vi sinh vật.
HS: làm việc theo nhóm, viết vào
giấy A0, cử người đóng vai.
8
- Đại diện nhóm 1 lên bảng I. PHÂN HOÁ HỌC
phút “đóng vai”
1. Khái niệm
HS khác bổ sung → GV tổng kết - Là loại phân bón được sản xuất
theo quy trình công nghiệp, có sử
? Em hãy kể tên một số loại phân dụng một số nguyên liệu tự nhiên
hoá học mà em biết.
hoặc tổng hợp.
? Kể tên một số nhà máy sản xuất 2. Phân loại
phân bón.
- Phân đơn nguyên tố: N, P, K…
- Phân đa nguyên tố: NPK…
12
GV lấy ví dụ:
Đạm urê có 46% Nitơ nguyên
chất.
Đạm Cloruaamon có 25% Nitơ
nguyên chất
GV biễu diễn thí nghiệm: hoà tan
một ít đạm, kali và lân vào 3 cốc
nước.
3. Đặc điểm
- Chứa ít nguyên tố nhưng tỷ lệ
chất dinh dưỡng cao.
- Phần lớn dễ tan (trừ lân) → cây
dễ hấp thụ và cho hiệu quả nhanh.
- Bón nhiều và liên tục nhiều năm
→ đất chua hoá.
GV lấy ví dụ:
H+
4K+
4. Cách sử dụng
+ KCl →
+ AlCl 3 + - Đạm, kali bón thúc là chính.
K
K
HCl
Đ
- Lân chủ yếu bón lót.
3+
Đ
Al
- Đất dễ chua hóa → bón vôi cải
AlCl3 + 3H20 → Al(0H)3 + 3HCl
tạo.
GV hỏi thêm: Vì sao đạm, kali VD:
bón lót lượng nhỏ? Bón lượng CaCO3 + 2H2O → Ca(OH)2 +H2CO3
Ca(OH)2 + 2HCl → CaCl2 + H2O
lớn thì sao?
GV lấy ví dụ: Bón đạm nhiều sẽ
cháy lá
- Đại diện nhóm 2 lên bảng
8
“đóng vai”
phút HS khác bổ sung → GV tổng kết
? Kể tên một số loại phân hữu cơ
mà em biết.
II. PHÂN HỮU CƠ
1. Khái niệm
- Là loại phân bón có nguồn gốc
từ chất hữu cơ.
2.Phân loại: chia làm 2 loại chính
- Phân xanh: bèo, thân lạc, đậu…
- Phân chuồng: phân bò, phân dê...
Ngoài ra còn có các loại phân bùn,
phân rác...
3. Đặc điểm
- Chứa nhiều nguyên tố dinh dưỡng
- Thành phần và tỷ lệ không ổn định
- Quá trình phân hóa chậm nên hiệu
quả chậm (lâu dài).
- Bón nhiều không hại đất mà có
khả năng cải tạo đất tốt.
13
? Vì sao phân hữu cơ dùng bón
lót là chính? Bón thúc được
không?
- Vì sao phải ủ hoai? Tác dụng?
- Nhiều nước nên khó sử dụng và vận chuyển
do đó phải ủ.
4. Sử dụng
- Bón lót là chính.
VD: Bón lúc cày → bừa lấp đất.
- Bón thúc phải ủ hoai mục.
- Đại diện nhóm 3 lên bảng III. PHÂN VI SINH VẬT
“đóng vai”
1. Khái niệm
HS khác bổ sung → GV tổng kết - Là loại phân bón có chứa các loài
vi sinh vật sống.
2. Phân loại
- Phân VSV cố định đạm:
+ Nitragin (cây họ đậu)
+ Azogin (hội sinh cây lúa)
- Phân VSV chuyển hóa lân:
+ Photpho bacterin
+ Phân lân hữu cơ vi sinh
8
- Phân VSV phân giải chất hữu cơ:
phút
+ Estrasol (Nhật)
+ Mana (Nga)
3. Đặc điểm
- Có chứa VSV sống, thời hạn sử
dụng ngắn.
- Mỗi loại phân chỉ thích hợp với
một hoặc một nhóm cây nhất định.
- Không làm hại đất.
? Đặc điểm có liên quan gì đến 4. Sử dụng
cách sử dụng.
- Sử dụng ngay, không để lâu.
- Trộn hoặc tẩm vào hạt, rễ trước
khi gieo.
- Có thể bón trực tiếp vào đất.
V. CỦNG CỐ VÀ DẶN DÒ (5 phút)
1. Củng cố (sử dụng tình huống dạy học): Bác An có làm 3 sào ruộng,
nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bác đang phân vân lựa chọn phân
bón nào cho phù hợp (biết bác An có chăn nuôi trâu và lợn).
14
- Dựa vào kiến thức đã học về các loại phân bón em hãy cho bác An lời
khuyên?
2. Dặn dò: Về nhà học bài và chuẩn bị bài mới.
2.4. Hiệu quả của đề tài
Qua quá trình thực nghiệm, tôi đã sử dụng phương pháp đóng vai theo các
cách 2, 3 và 4 vào dạy học bài 12. “Đặc điểm, tính chất và kỹ thuật sử dụng một
số loại phân bón thông thường – Công nghệ 10”.
Bài này được dạy song song cùng thời gian và chéo nhau với 2 loại giáo án:
- Giáo án thực nghiệm có sử dụng phương pháp đóng vai vào soạn bài và
giảng dạy.
- Giáo án đối chứng không sử dụng phương pháp đóng vai.
Sau khi dạy xong bài, tôi tiến hành kiểm tra khả năng lĩnh hội kiến thức và
thái độ học tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi (đề kiểm tra 15 phút).
Bước đầu thu được kết quả cụ thể như sau:
2.4.1. Kết quả định lượng
- Lớp đối chứng (ĐC): 10A2, 10A3
- Lớp thực nghiệm (TN): 10A1, 10A5
Lớp
Lớp
ĐC
Lớp
TN
10A2
10A3
10A1
10A5
Số
HS
47
43
42
51
1
0
0
0
0
2
0
1
0
0
3
1
3
0
0
Số học sinh đạt điểm xi
4
5
6
7
8
4
10
11
10
7
3
7
12
8
6
0
5
6
8
8
2
3
6
19
12
9
4
3
13
8
10
0
0
2
1
8
9
10
Bảng 1. Bảng tần suất
Lớp
Lớp ĐC
10A2,A3
Lớp TN
10A1,A5
Số
HS
Số học sinh đạt điểm xi
4
5
6
7
1
2
3
90
0
1
4
7
17
23
18
13
7
0
93
0
0
0
2
8
12
27
20
21
3
9
10
Bảng 2. Bảng tổng hợp tần suất
xi
1
2
3
4
5
6
7
8
15
Lớp ĐC (%)
0
Lớp TN (%)
0
1,11 4,44 7,78 18,89
0
0
2,15
8,60
25,5
6
20,00 14,44
7,78
0
21,5
1
22,5
8
3,23
12,90 29,03
Bảng 3. Bảng phân phối tần suất
Biểu đồ 1. So sánh tỷ lệ phân phối tần suất giữa TN và ĐC
Qua kết quả nghiên cứu ta thấy rằng, ở 2 lớp thực nghiệm tỷ lệ đạt điểm
khá giỏi đều cao hơn 2 lớp đồi chứng. Ngược lại, tỷ lệ điểm trung bình và dưới
trung bình của 2 lớp đối chứng lại cao hơn. Điều đó phần nào cho thấy học sinh
2 lớp thực nghiệm tiếp thu kiến thức nhiều hơn và tốt hơn. Một trong những
nguyên nhân đó là: Ở lớp thực nghiệm, lớp học diễn ra nghiêm túc, học sinh
hứng thú học tập, tích cực, chủ động “đóng vai”, số lượng học sinh tham gia xây
dựng bài nhiều làm cho không khí lớp học sôi nổi kích thích sự sáng tạo, chủ
động nên khả năng hiểu và nhớ bài tốt hơn.
Còn ở lớp đối chứng, lớp học vẫn diễn ra nghiêm túc, học sinh vẫn chăm
chú tiếp thu bài giảng, nhưng các em tiếp thu thụ động về kiến thức, giáo viên sử
dụng phương pháp truyền thống như thông báo, giải thích nên quá trình làm việc
thường nghiêng về giáo viên.
2.4.2. Kết quả định tính
16
Qua quá trình phân tích bài kiểm tra ở 2 lớp thực nghiệm và 2 lớp đối
chứng kết hợp với việc theo dõi trong suốt quá trình giảng dạy, tôi có những
nhận xét sau:
- Ở 2 lớp đối chứng:
+ Phần lớn học sinh chỉ dừng lại ở mức độ nhớ và tái hiện kiến thức. Tính
độc lập nhận thức không thể hiện rõ, cách trình bày rập khuôn trong SGK hoặc
vở ghi của giáo viên.
+ Nhiều khái niệm các em chưa hiểu sâu nên trình bày chưa chính xác,
thiếu chặt chẽ.
+ Việc vận dụng tri thức đối với đa số các em còn khó khăn, khả năng khái
quát hóa và hệ thống hóa bài học chưa cao.
+ Giờ học trầm lắng, kém hứng thú, các em vẫn trả lời câu hỏi nhưng chưa
nhiệt tình.
Tuy nhiên, vẫn có một số học sinh hiểu bài khá tốt, trình bày khá lô gic,
chặt chẽ.
- Ở 2 lớp thực nghiệm:
+ Phần lớn học sinh hiểu bài tương đối chính xác và đầy đủ.
+ Lập luận rõ ràng, chặt chẽ.
+ Độc lập nhận thức, có khả năng “đóng vai”, trình bày vấn đề một cách
chủ động theo quan điểm riêng, không theo nguyên mẫu SGK hoặc của giáo
viên. Ví dụ: như học sinh Nguyễn Trịnh Phương Thảo ở lớp 10A 1, Nguyễn Văn
Long ở lớp 10A5 ...“đóng vai” lưu loát, sáng tạo…
+ Đa số các em có khả năng vận dụng những kiến thức đã học và kiến thức
thực tế để vào tình huống “đóng vai”.
+ Các em tham gia “đóng vai”, đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi với tinh thần
say mê, hào hứng, không khí giờ học thoải mái.
+ Tuy nhiên, vẫn còn một số ít học sinh chưa nắm vững nội dung bài học,
khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và vận dụng kiến thức chưa tốt.
2.4.3. Kết luận chung về thực nghiệm
Với kết quả thực nghiệm này, tôi có thêm cơ sở thực tiễn để tin tưởng vào
khả năng ứng dụng của phương pháp đóng vai theo hướng mà đề tài đã chọn.
Qua thực nghiệm dạy học có sử dụng phương pháp đóng vai, tôi nhận thấy:
17
- Hứng thú học tập của học sinh cao hơn, hoạt động thảo luận sôi nổi hơn
và hiệu quả cao hơn, HS tập trung để quan sát và phân tích, phát biểu xây dựng
bài tốt hơn.
- Tăng cường thêm một số kỹ năng hoạt động học tập cho HS như quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, kỹ năng làm việc độc lập, “đóng vai” và trình bày
một vấn đề trước tập thể.
- Hoạt động của giáo viên nhẹ nhàng, thuận lợi hơn để có thể tập trung vào
việc đưa HS vào trung tâm của hoạt động dạy học. Thông qua phương pháp
đóng vai, HS trong nhóm và giữa các nhóm phát biểu ý kiến, tranh luận, bổ sung
cho những người “đóng vai” tạo không khí học tập rất tích cực, nâng cao hiệu
quả tiếp thu, lĩnh hội tri thức của HS.
- Kiến thức được cung cấp thêm, bổ sung và làm rõ SGK, đồng thời gắn với
thực tiễn nhiều hơn.
Do giới hạn về thời gian cũng như các điều kiện khác nên tôi chưa tiến
hành thực nghiệm được trên quy mô lớn hơn. Chính vì thế mà kết quả thực
nghiệm chắc chắn chưa phải là tốt nhất.
Mặc dù vậy, qua thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy rằng, việc sử dụng
phương pháp đóng vai vào dạy học Công nghệ 10 là điều rất cần thiết, góp phần
nâng cao hiệu quả giảng dạy, phát huy tính tích cực học tập của học sinh, đáp
ứng được yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp trong dạy học hiện nay.
18
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Từ những kết quả nghiên cứu tôi rút ra những kết luận chính sau:
- Bước đầu hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
phương pháp đóng vai trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử
dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10”. Nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Hệ thống, phân tích được khái niệm, vai trò, ưu - nhược điểm và một số
lưu ý khi sử dụng phương pháp đóng vai trong tổ chức dạy học Bài 12. “Đặc
điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công
nghệ 10”.
- Xây dựng được quy trình thiết kế và sử dụng phương pháp đóng vai gồm
5 bước trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại
phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo 4 cách khác nhau.
- Tiến hành thực nghiệm ở 4 lớp 10 A 1, A2, A3, A5. Những kết quả bước đầu
đã đánh giá được hiệu quả của phương pháp đóng vai trong dạy học vừa nêu
trên. Từ đó kết luận được phương pháp đóng vai đã mang lại hiệu quả cao trong
dạy học môn Công nghệ 10.
- Trong dạy học hiện nay việc sử dụng phương pháp đóng vai theo hướng
nghiên cứu của đề tài này có thể áp dụng rộng rãi.
3.2. Kiến nghị
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi có một số kiến nghị như sau:
- Cần phát huy tối đa vai trò của phương pháp đóng vai.
- Giáo viên cần có biện pháp cụ thể để rèn luyện kỹ năng “đóng vai” cho
HS lĩnh hội tri thức trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng
một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10”.
- Cần nghiên cứu sử dụng phương pháp đóng vai cụ thể phù hợp đối với
từng đối tượng học sinh (trình độ trung bình hay khá, giỏi).
- Do số lượng HS ở lớp tôi nghiên cứu quá đông (42-51 HS) nên hiệu quả
chưa cao, do đó cần nghiên cứu thêm phương pháp này ở các lớp có số lượng
HS ít hơn (25-35 HS).
19
- Do trình độ HS nơi nghiên cứu đề tài thấp nên hiệu quả còn hạn chế vì
vậy cần nghiên cứu thêm ở những nơi có trình độ HS khá, giỏi để so sánh hiệu
quả.
- Khi sử dụng phương pháp đóng vai cần dành thời gian phù hợp cho việc
xây dựng “kịch bản” và “đóng vai”. Đồng thời có biện pháp kích thích những
học sinh khác tham gia “chất vấn”, đặc biệt là những học sinh nhút nhát.
- Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy
học Công nghệ 10, đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư thiết kế để tạo cho học
sinh hứng thú và học tập tốt hơn.
- Ngoài ra có thể nghiên cứu áp dụng phương pháp đóng vai vào dạy học
bài 13. “Ứng dụng công nghệ vi sinh trong sản xuất phân bón” - Công nghệ 10
Do khả năng và thời gian có hạn nên kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở
những kết luận ban đầu và nhiều vấn đề chưa đi sâu. Vì vậy không thể tránh
khỏi những thiếu sót, do đó tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý vị để đề tài
dần hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày30 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến do tôi tự
viết, không sao chép của ai.
Trịnh Thị Quyên
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyên Văn Khôi và các tác giả, công nghệ 10, NXB giáo dục 2006.
2. Nguyên Văn Khôi và các tác giả, Sách giáo viên công nghệ 10, NXB giáo dục
2006.
3. Nguyễn Ngọc Hiếu, Một số biện pháp tổ chức học sinh làm việc độc lập với
SGK để nâng cao hiệu quả dạy học Lâm nghiệp - Trồng trọt ở trường THPT,
khóa luận tốt nghiệp đại học sư phạm Huế.
4. Nguyễn Minh Đồng và các tác giả, Thiết kế bài giảng công nghệ 10, quyển 1,
NXB Hà Nội, 2006.
5. Hoàng Văn Đạt(2006), Sở GD và ĐT tỉnh Hải Dương với đề tài: Vận dụng
phương pháp thảo luận đóng vai.
6. Đinh Thị Phương Thảo, Vận dụng phương pháp đóng vai trong giảng
dạy môn Tâm lí học ở trường Đại học Hải Phòng.
21