Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số phương pháp khởi đông chuyển mục địa lý lớp 10 nhằm kích thích hứng thú, chủ động học của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.18 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
1. Mở đầu

Trang 2

1.1. Lý do chọn đề tài

Trang 2

1.2. Mục đích nghiên cứu

Trang 2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

Trang 3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trang 3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

Trang 3

2.1. Cơ sở lý luận

Trang 3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm


Trang 5

2.3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề

Trang 5

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường
Trang 14
3. Kết luận, khiến nghị

Trang 16

- Kết luận

Trang 16

- Khiến nghị

Trang 17

Danh mục tài liệu tham khảo

Trang 18

Danh sách chữ viết tắt

Trang 18

Trang 1



1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Một trong những vấn đề để nâng cao chất lượng giáo dục thì phải có
phương pháp dạy học (PPDH) tốt. Theo thời gian PPDH phải có sự đổi mới để
phù hợp với kiến thức mới và nhu cầu từng đối tượng học sinh (HS), nên đổi
mới PPDH trong nhà trường phổ thông là một vấn đề cấp thiết hiện nay đang
nhận được sự quan tâm nhiều giới, nhiều cấp trong xã hội nói chung và ngành
giáo dục nói riêng. Khi nói về phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp
dạy học nói riêng, Anhxtanh cho rằng: "Điều tồi tệ nhất đối với một trường học
là làm việc với phương pháp cưỡng bức, quyền uy giả tạo, cách đối xử như vậy
làm hỏng tình cảm đẹp, lòng chân thành và sự tự tin của học sinh. Điều này chỉ
làm sản sinh ra những còn người chỉ biết phục tùng". Cho nên trong một tiết
dạy, điều thành công nhất chính là việc HS tiếp nhận kiến thức như một món quà
có giá trị, chứ không phải là sự phục tùng, gượng ép.
Nắm bắt được những vấn đề đó trong quá trình đứng lớp chỉ 10 năm, dù
thời gian đứng lớp chưa nhiều, và là giáo viên trẻ. Nhưng qua những tiết dạy
trên lớp tôi nhận thấy rằng hầu hết các em học HS không coi trọng môn học Địa
lí, các em cho đó là một môn học phụ.
Hiện nay, nhiều giáo viên (GV) thường bỏ qua, hay coi nhẹ khâu “Khởi
động”, “Chuyển mục” hoặc bỏ qua mà đi thẳng vào tiết dạy mà quên đi phần
“Khởi động”,“Chuyển mục” tiết dạy hay sẽ kích thích hứng thú học tập của học
sinh rất nhiều.
Là người giáo viên trực tiếp đứng lớp tôi đã suy nghĩ rất nhiều, làm sao để
các em yêu thích, hứng học tập môn Địa lí nên tôi đã thử nghiệm nhiều cách dạy
trong đó tôi nhận thấy những tiết tôi sử dụng một số phương pháp mới để “Khởi
động”,“Chuyển mục” tiết dạy hay sẽ kích thích hứng thú học tập của HS, giảm
đi không khí mệt mỏi, căng thẳng trong giờ học, chính vì lí do đó tôi đã mạnh
dạn viết đề tài: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP “ KHỞI ĐỘNG” CHUYỂN MỤC ”

ĐỊA LÍ LỚP 10 NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ, CHỦ ĐỘNG HỌC CỦA
HỌC SINH.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài đề cập đến vấn đề đổi mới PPDH hiện nay ở các trường THPT nói
chung và môn Địa Lí nói riêng. Có rất nhiều những phương pháp dạy học tích
cực ( PPDHTC) hiện nay, nhưng với kinh nghiệm tích lũy được tôi mạnh dạn
đưa ra đề tài trên để từ đó HS vừa chủ động tìm hiểu kiến thức vừa góp phần tạo
sự cuốn hút trong tiết học, tránh gây nhàm chán cho HS. Quan trọng hơn nữa là
phát huy tính tích cực của HS qua việc giáo viên (GV) ra những câu hỏi cho HS
về nhà tìm hiểu thông qua các trang web tin cậy.
1.3.Đối tượng nghiên cứu

Trang 2


Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã tìm hiểu và đi sâu vào các PPDH mới để kích
thích hứng thú học tập, chủ động học của HS trong dạy phân môn Địa lí, đó là
các phương pháp như sau:
Phương pháp trực quan + động não
Phương pháp nêu vấn đề
Phương pháp nêu trò chơi
Phương pháp sử dụng những mẫu chuyện địa lí
Các bài học nghiên cứu trong đề tài là: Địa Lí 10 cơ bản:
Bài 5: Vũ trụ. Mặt Trời và Trái Đất. Hệ quả chuyển động tự quay quanh
trục của Trái Đất
Bài 6: Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt Trời của Trái Đất
Bài 8: Tác động của nội lực đến địa hình bề mặt Trái Đất
Bài 13. Ngưng đọng hơi nước trong khí quyển. Mưa
Bài 15: Thủy quyển, một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông. Một số sông
lớn trên Trái Đất.

Bài 41: Môi trường và tài nguyên thiên nhiên
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: tìm hiểu các nội dung
trong các tài liệu có liên quan đến nội dung của đề tài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích nội dung sách giáo khoa địa
lí 10, thành lập bảng số liệu thống kê, sơ đồ, thành lập biểu đồ
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm : Tiến hành thực nghiệm ở các lớp
10C2, 10 C3 và đối chứng với lớp so sánh ở lớp 10 C5, 10 C6.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Thế nào là tính tích cực, chủ động học tập?
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn
tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi trường tự
nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri
thức. TTC nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ
học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng
thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư
duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong
Trang 3


cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng
động cơ học tập, TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: Hăng hái trả lời
các câu hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của
mình trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn
đề chưa đủ rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề
mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không

nản trước những tình huống khó khăn…
- Sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu TTC học tập thể
hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: Gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: Độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau
về một số vấn đề…
2.1.2. Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC) là một thuật ngữ rút gọn, được
dùng ở nhiều nước để chỉ những PP giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính TTC của người học chứ
không phải là tập trung vào phát huy TTC của người dạy, tuy nhiên để dạy học
theo PPDHTC thì GV phải nỗ lực nhiều so với dạy theo PP thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của
thầy.Chẳng hạn, có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng
giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng
PPDHTC nhưng không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với lối học
tập thụ động. Vì vậy, GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây
dựng cho học sinh PP học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong
đổi mới PPDH phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng
hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật
ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động". Trên cơ sở lí
luận đó, ở đề tài này, tôi xin đưa ra một số PP để “Khởi động”, “Chuyển mục”
nhằm phát huy tính tích cực chủ động học của HS
2.1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực được sử dụng trong đề tài.

Phương pháp trực quan + động não
Phương pháp nêu vấn đề
Phương pháp nêu trò chơi
Trang 4


Phương pháp sử dụng những mẫu chuyện địa lí
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Theo tâm lí chung của đa số HS môn Địa lí vẫn là môn phụ, không cần
phải đầu tư hay quan tâm quá nhiều. Chính vì tâm lí đó mà các em học bài cũ
đối phó, ở trường thì thụ động tiếp thu kiến thức theo kiểu cô hỏi - trò trả lời.
Lâu dần các em không hứng thú học môn Địa lí và kiến thức Địa lí bên ngoài
cũng từ đó mà hạn hẹp. Đặc biệt hơn, trong chương trình Địa lí 10 học về Địa lí
tự nhiên và kinh tế xã hội các nước trên thế giới, phải cung cấp cho các em
ngoài kiến thức tự nhiên , kinh tế - xã hội trong sách giáo khoa, trong chuẩn kiến
thức – kỹ năng, GV còn phải mở rộng thêm kiến thức bên ngoài về các nước.
Tôi nghĩ, việc sử dụng các PP “Khởi động”, “Chuyển mục” khác nhau sẽ kích
thích hứng thú học tập ở các em, đầu tiên phải làm sao để các em chịu nghe lời
thầy cô giáo, rồi sau đó mới lôi cuốn được các em hứng thú học tập vừa giúp các
em khai thác kiến thức Địa lí 10.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Mục đích, ý nghĩa:
Ngoài việc đảm bảo các kiến thức, thời gian chuẩn trong bài học cho HS, việc sử
dụng các PP “Khởi động”,“Chuyển mục” trong bài học sẽ giúp HS Phát huy TTC chủ
động tìm tòi kiến thức ở HS thông qua việc khai thác kiến thức, vừa làm cho tiết học
sinh động, lớp học sôi nổi vừa tránh tình trạng HS ngủ gật trong tiết học.
Cung cấp và giúp các em khắc sâu hơn, có cái nhìn tổng quát những kiến
thức về bài học từ đó giáo dục cho HS có tinh thần học tập tích cực, chủ động,
sáng tạo tìm ra kiến thức mới
2.3.2. Chuẩn bị:

- Giáo viên:
+ Giáo viên sưu tầm, nghiên cứu, chọn lọc các kiến thức, các tài liệu: Tranh
ảnh, câu thơ, câu hát, đoạn clip..
+ Giáo viên soạn giáo án điện tử cho tiết dạy có sử dụng công nghệ thông
tin
+Trước đó 1 tuần, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị các thông
tin, các câu hỏi liên quan đến nội dung bài học.
- Học sinh:
+ Tìm hiểu trước nội dung bài học, xem các câu hỏi trong bài.
+ Lên mạng tìm hiểu các thông tin về bài học có liên quan
2.3.3. Tổ chức thực hiện:
Trên cơ sở vận dụng các PP tích cực khác, tùy vào nội dung từng bài học,
phần trong bài học mà giáo viên vận dụng các các PP nhằm giúp HS khai thác

Trang 5


kiến thức phù hợp với đề mục đó. Đồng thời kết hợp chiếu các slide ảnh cho học
sinh quan sát và dễ khắc sâu kiến thức.
* Biện pháp 1: Sưu tầm tài liệu
- Từ kinh nghiệm giảng dạy, GV sưu tầm các câu chuyện, câu thơ, hay các
câu hỏi mang tính kích thích sự tìm tòi thông qua các trang mạng, các cuốn sách,
tạp chí liên quan đến bài học
- Giáo viên giao việc cho HS về sưu tầm tài liệu thông qua các trang mạng
đáng tin cậy mà giáo viên cung cấp
* Biện pháp 2: Khai thác và xử lí thông tin phù hợp nội dung bài học
- Sau khi sưu tầm, giáo viên tiến hành chọn lọc các thông tin, câu hỏi ...
ngắn gọn, dể hiểu và phù hợp với từng nội dung bài học
* Biện pháp 3: Đưa các tư liệu cần thiết vào bài dạy
- Sau bước khai thác và xử lí thông tin, giáo viên tiến hành đưa các tư liệu

vào giáo án bài học
2.3.4. Vận dụng:
Bài 5: Vũ trụ . Hệ Mặt Trời và Trái Đất. Hệ quả chuyển động tự quay
quanh trục của Trái Đất
*Khởi động: GV kể cho HS nghe về câu chuyện chứng minh Trái Đất tự
quay
Ngày nay, hiện tượng Trái Đất tự quay quanh trục như là một chân lí hiển
nhiên. Nhưng trước đây khi con người chưa hiểu được chân lí này họ dựa vào sự
quan sát mọc lặn của Mặt Trời, Mặt Trăng và các vị tinh tú của nó mà cho rằng
Trái Đất đứng yên, còn chính bầu Trời quay quanh Trái Đất. Nhà thiên văn học
Hi Lạp cổ đại Ptoleme đã thể hiện quan niệm trên bằng thuyết Địa tâm hệ.
Thuyết này được các thế lực phong kiến và tôn giáo công nhận là chân lí tồn tại
mãi đến thế kỉ XV. Người đầu tiên dám vạch ra sự sai lầm của thuyết Địa tâm hệ
là nhà thiên văn học người Ba Lan Copecnic (1473-1543) Ông đề xướng ra học
thuyết mới cho rằng Mặt Trời là trung tâm vũ trụ và Trái Đất tự quay quanh
mình, đó là thuyết Nhật tâm hệ, phát hiện vĩ đại của Copecnic trái ngược lại thế
giới quan thần bí và uy quyền của tôn giáo lúc bấy giờ, vì vậy thuyết của ông
cấm lưu hành. Sau Copecnic các nhà thiên văn học người Ý G. Bruno và G.
Galile (1564-1642) cũng bị lên án và kết tội vì họ công nhận và truyền bá thuyết
Địa tâm hệ. Tuy là chân lí nhưng phải đợi đến thế kỉ XIX, nhờ sự phát triển của
khoa học vật lí, người ta mới đưa ra được những chứng minh để cũng cố quan
điểm của Copecnic.
Năm 1858, nhà vật lí học người Pháp Phucon đã chứng minh hiện tượng tự
quay quanh trục của Trái Đất bằng một thí nghiệm với con lắc, sau này được gọi
là con lắc Phucon. Con lắc này nặng 28kg, dài 40m được treo lơ lửng trong vòm

Trang 6


điện Phateong ở Pari. Ông đặt dưới con lắc một cái bàn tròn, rồi cho con lắc

dao động theo một hướng nhất định. Đầu nhọn của con lắc chạm vào một cái la
bàn cát và lúc đầu đã vạch ra một đường thẳng theo hướng dao động của con
lắc. Sau một thời gian, mặt phẳng của con lắc hình như chuyển hướng, vạch
thêm những đường thẳng chéo với đường thẳng ban đầu lệch dần theo hướng
Đông –Tây. Theo nguyên lí cơ học thì mặt phẳng dao động của con lắc không
bao giờ đổi hướng. Vậy chỉ có thể kết luận là mặt bàn cát chuyển động hay đúng
hơn là bề mặt Trái Đất ở dưới la bàn cát đã chuyển động. Như vậy điều đó
chứng tỏ Trái Đất đã quay quanh trục theo hướng ngược lại từ Tây sang Đông
(GV vào bài mới) {3}
* Chuyển mục: Ở mục II của bài Hệ quả chuyển động tự quay quanh
trục của Trái Đất để tìm hiểu mục này GV chuẩn bị một quả địa cầu (Trái Đất)
một ngọn nến (Mặt Trời) và khi học đến mục này GV cho HS tắt hết điện sáng.
GV gọi một HS thực hiện cho quả địa cầu quay xung quanh ngọn nến (Quả địa
cầu là Trái đất, ngọn nến là Mặt trời, Trái đất tự chuyển động, và chuyển động
xung quanh mặt trời theo hướng từ Tây sang Đông) khi GV cho HS làm thí
nghiệm này HS sẽ rất hứng thú và các em sẽ rút ra được kiến thức từ thí nghiệm
đó là các hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của Trái đất là: Sự luân phiên
ngày đêm, giờ trên Trái đất và đường chuyển ngày quốc tế, Sự lệch hướng
chuyển động của các vật thể. Như vậy là các em đã có kiến thức mà các em tự
tìm ra.
Bài 6: Hệ quả chuyển động quay xung quanh Mặt Trời của Trái Đất
* Khởi động: Để tìm hiểu mục này GV kể cho HS nghe về Cuộc thám
hiểm của MAGIENLAN : Cuộc hành trình của Magenlan vào ngày 20/9 năm
1519 đã xuất phát từ Tây Ban Nha và luôn luôn đi về hướng Tây. Sau gần 3
năm, đoàn thám hiểm đã trở về nơi xuất phát vào ngày 7 tháng 9 năm 1522.
Nhưng nhật kí của đoàn tàu lại ghi ngày đó là ngày 6/9/1922, nghĩa là chậm so
với lịch ở Tây Ban Nha một ngày. Tại sao vậy? Có sự nhẫm lẫn chăng?
Ở đây không có sự nhầm lẫn nào cả. Lịch Tây Ban Nha và nhật kí của đoàn
thám hiểm đều đúng sở dĩ có sự chênh lệch một ngày là vì lúc đó đoàn thám
hiểm của Magienlan đã không nắm rõ quy tắc chuyển ngày khi thực hiện những

cuộc vòng quanh Trái Đất.
Hiện nay theo quy ước, người ta đã lấy kinh tuyến 180 0 ở giữa Thái Bình
Dương làm đường chuyển ngày quốc tế. Bất cứ tàu thuyền nào khi đi qua kinh
tuyến này đều phải chuyển nhanh hoặc chậm một ngày tùy theo tàu đi về hướng
Đông hay hướng Tây.
Trong mục 2.3.4. từ đoạn: ” Ngày nay, hiện tượng ... đến từ tây sang Đông” được tác giả tham khảo từ tài liệu
tham khảo (TLTK) Số 3

Trang 7


Giả sử vào ngày mồng 7 tháng 9, khi đồng hồ ở múi giờ gốc (múi giờ có
kinh tuyến 00 đi qua chính giữa) chỉ đúng 12h, thì ở múi giờ đối diện (có kinh
tuyến 1800 qua chính giữa) đồng hồ đã chỉ 24h (tức là 12h đêm), ngày 7/9 (nếu
tính giờ tăng dần theo các múi giờ phía Đông) nhưng nếu tính giờ lùi dần theo
các múi giờ phía Tây thì ở đây lại là 24h ngày 6/9.
Vì vậy, nếu một chiếc tàu vượt qua kinh tuyến 180 0 từ hướng Đông sang
Tây thì lịch phải lùi lại một ngày. Đây chính là trường hợp đoàn tàu của
Magienlan khi vượt qua Thái Bình Dương từ châu Mĩ sang châu Á. {4}
* Hoặc Khởi động: GV hỏi HS có em nào biết câu ca dao hay câu thơ nào
nói về thời gian ngắn, dài của ngày và đêm không? HS sẽ phải suy nghĩ và thu
hút ngay từ đầu, các em có thể dẽ dàng đọc câu ca dao sau:
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối
Vì sao lại có hiện tượng được phản ánh trong câu ca dao trên? Tại sao có
tháng thì ngày dài, đêm ngắn, có tháng thì ngày ngắn đêm dài? Các em sẽ tìm
thấy lời giải đáp qua bài học hôm (GV vào bài mới) {1}
Bài 8: Tác động của nội lực đến địa hình bề mặt trái đất
GV phóng to hình dưới đây: Quan sát hình sau thật kĩ và hãy cho biết đây
là hiện tượng gì? Địa hào, địa lũy được hình thành do tác động của yếu tố nội

lực hay ngoại lực? để tìm hiểu vấn đề này sâu hơn thầy trò chúng ta sẽ biết được
trong bài học này? (GV vào bài mới)

{7}
- Trong mục 2.3.4. từ đoạn: ” Cuộc hành trình ... đến từ châu Mĩ sang châu Á” được tác giả tham khảo
nguyên văn từ TLTK Số 4
- Từ đoạn” GV hỏi HS.. đến lời giải đáp qua bài học hôm nay” được tác giả tham khảo qua TLTK số 1
- Hình ảnh được tác giả tham khảo từ TLTK số 7

Trang 8


* Chuyển mục sang mục II tác động của nội lực GV cho HS đọc sau đó chia
lớp thành 4 nhóm( 2 nhóm hoàn thành mục 1, 2 nhóm hoàn thành mục 2) thời
gian 4’ bằng sơ đồ sau:
Tác động của nội lực

Vận động theo phương
………………………….
…………………………..

Vận động
………………
……………….
{2}

Vận động
………………
……………….


Vận động theo phương
………………………….
…………………………..

Hiện tượng
………………
……………….

Hiện tượng
………………
……………….

Bài 13: Ngưng đọng hơi nước trong khí quyển. Mưa
Khởi động: GV cho HS quan sát 2 hình ảnh sau

a. Hình ảnh cốc nước đá

{5}

-

Trong trang này sơ đồ tác động nội lực được tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK Số 2

-

Hình ảnh cốc nước đá từ TLTK số 5

Trang 9



b. Hình ảnh máy bay bay trên bầu trời {5}
GV giới thiệu: Hình ảnh a. phải chăng cốc nước đá mà các em quan sát trong
hình a. Sẽ thấy lượng nước nhất định bao quanh cốc nứơc đá đó là do nước từ
trong cốc ra. Không phải mà đó là sự ngưng đọng hơi nước từ không khí tạo
nên, vì trong không khí luôn có lượng hơi nước nhất định, hơi nước đó gặp điều
kiện thuận lợi sẽ ngưng đọng lại thành những dọt nước .
Hình ảnh b. Khi máy bay bay trên bầu trời các em nhìn thấy những vệt dài
kéo theo đuôi máy bay, vậy nó có phải là khói của máy bay hay là lượng hơi
nước bám theo những hạt bụi khi máy bay di chuyển .
Thành của cốc nước đá ngưng tụ do những điều kiện nào, có phải là khói hay
hơi nước ngưng tụ lại, nội dung đó sẽ được các em tìm hiểu qua nội dung bài
học hôm nay.
* Hoặc khởi động: Trò chơi ô chữ
GV: Giới thiệu trò chơi gồm 9 hàng ngang, học sinh tìm ra từ khóa khi đã lật
mở tối thiểu 1 ô chữ , Câu hỏi từ khóa: Đây là một hiện tượng tự nhiên trong
khí quyển
-

Tổ chức: GV chia lớp thành 4 nhóm .

Các nhóm cử đại diện chọn một ô chữ và trả lời câu hỏi cho ô chữ đó, ô chữ nào
HS trả lời sai ô chữ đó vẫn giữ nguyên.

Trong trang này Hình ảnh máy bay bay trên bầu trời từ TLTK số 5

Trang 10


Câu 1: Ô chữ có 7 chữ cái.
Điền từ còn thiếu vào dấu .. Độ ẩm bão hòa tăng khi……không khí tăng.

Câu 2: Ô chữ có 7 chữ cái
Hiện tượng thời tiết này thường xuất hiện vào buổi sáng của mùa đông và mùa
xuân
Câu 3: Ô chữ có 6 chữ cái
Hiện tượng mưa có khả năng gây ăn mòn kim loại, cháy lá cây, gây bỏng da ở
người….
Câu 4: Ô chữ có 4 chữ cái.
Đây là loại mây có màu xám, lơ lửng ở độ cao< 2000m, có hình thù giống như
một bức màn giăng liên tục trên bầu trời vào những ngày thời tiết xấu?
Câu 5: Ô chữ có 6 chữ cái.
Loại gió này thổi theo mùa ở nước ta ?
Câu 6: Ô chữ có 5 chữ cái
Tỉ lệ hơi nước có trong không khí được gọi là gì?
Câu 7: Đây là ô chữ có 3 chữ cái
Đây là hiện tượng mưa xảy ra vào mùa hạ ?
Câu 8: Ô chữ có 6 chữ cái.
Đây là vùng núi phía động bắc Lạng Sơn thường có hiện tượng tuyết rơi vào
thời kì mùa đông?
Câu 9: Đây là ô chữ có 3 chữ cái
Đây là đơn vị tính lượng hơi nước trong không khí ở độ ẩm tuyệt đối?

Trang 11


S

Ư

Ơ
T


N

H

I

N

G

M

U

M

Ư

A

Â

N

G

G
Đ
M


Ư

A

R

A

O

M

Â

U

S

Ơ

N
G

Ê

T

Đ


A

X

I

T

I

O

M

U

A

Ô

Â

M

A

M

Ô


Từ khóa: NGƯNG ĐỌNG
Bài 15: Thủy quyển, một số nhân tố ảnh hưởng tới chế độ nước sông.
Một số sông lớn trên Trái Đất
* Khởi động: GV đọc cho HS nghe một đoạn thơ trong bài thơ Thề non
nước của Tản Đà:
“Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non”
Nước đi, đi mãi không về cùng non, vậy nước chảy đi đâu? Có phải trăm
sông đổ về biển không? Tại sao trên toàn thế giới hầu như ngày nào, tháng nào,
năm nào cũng có mưa, nhưng nước biển lại không thay đổi là bao. Bài học hôm
nay chúng ta cùng giải quyết (GV vào bài)
Bài 18. Sinh quyển: Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển và phân
bố của sinh vật
* Khởi động: Sự tồn tại và phát triển của sinh vật đã làm nên sự khác biệt quan
trọng nhất của Trái Đất và các hành tinh khác trong vũ trụ. Trong bài học hôm
nay chúng ta sẽ nghiên cứu về sinh quyển, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển và phân bố sinh vật trên Trái Đất (Vào bài)
* Chuyển mục: Khi học đến phần II Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát
triển và phân bố của sinh vật. GV cho học sinh hoạt động trò chơi mang tên
Về Đâu như sau để các em tự tìm ra kiến thức mới, từ đó các em có hứng thú
với học tập hơn.
Phạm vi sử dụng:
- Tiết 21 bài 18
- Thời gian: 4 - 5 phút
- Phạm vi ở trong lớp học.

Trang 12


Mục đích trò chơi

Giúp học sinh:
- Hình thành được các yêu cầu về kiến thức trong sách giáo khoa.
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, năng lực tư duy sâu sắc.
- Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ sự
đa dạng sinh học.
Chuẩn bị:
- HS 6 tấm bìa mang tên các con vật
- Cần 7 HS tham gia (HS đóng vai các con vật)
Tiến hành: Trò chơi bắt đầu: Em điều khiển trò chơi rãi 6 tấm báo 6 con
vật đi vòng quanh khi nhân vật điều khiển hô 123 tất cả đều nhảy vào tờ báo,
Như vậy là 6 nhân vật đó đều có chỗ để đứng. Sau đó em điều khiển rút đi 2 tờ
báo và tiếp tục hô to 123, 6 nhân vật lại nhảy vào tờ báo. Như vậy lúc này sẽ có
2 nhân vật không có tờ báo để đứng vào. Bây giờ GV mới hỏi cả lớp 6 nhân vật
là ai? sau đó GV yêu cầu 6 em lật những nhân vật mà mình mang tên đang dấu
đó ra la: Sao la, hổ, báo, Gấu, Tê Giác , trĩ. Sau đó GV lại hỏi cả lớp tiếp là:
Nhân vật rút tấm báo là ai, khi đó HS sẽ dễ dàng nhận ra nhân vật rút tấm báo đó
là Lâm tặc. Tiếp tục em điều khiển bỏ thêm 4 tấm báo nữa và tiếp tục hô 123 và
6 con vật sẽ nhảy vào tấm báo. Như vậy, lần này 6 con vật nào cũng được đứng
vào tấm báo, thậm chí còn chỗ dư, nhìn vào không gian thấy thoáng đãng. Như
vậy, lúc này GV mới hỏi cả lớp là qua câu chuyện các em rút ra được những bài
học gì. Như vậy qua trò chơi này HS dễ dàng rút ra được kiến thức như sau: Con
người có thể có hai mặt đó là mặt tích cực và mặt tiêu cực trong việc thu hẹp
hay mở rộng phạm vi phân bố của sinh vật, ở đây GV cũng cần nhấn mạnh cho
HS nhận thức được rằng là con người chúng ta nên phát huy mặt tích cực mà
hạn chế mặt. ( GV vào bài )
BÀI 41. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên
* Khởi động: GV cho HS xem một đoạn clip Truyền thông về bảo vệ
môi trường (Clip kèm theo) {5}
* Hoặc khởi động GV cho học sinh hoạt động trò chơi mang tên AI
NHANH HƠN

Phạm vi sử dụng:
- Tiết 49 bài 41
- Thời gian: 4 - 5 phút
- Phạm vi ở trong lớp học.
Mục đích trò chơi:
Giúp học sinh
Trang 13


- Rút ra được kiến thức trong sách giáo khoa.
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, năng lực tư duy sâu sắc.
Chuẩn bị:
- HS 5 tấm bìa mang tên các con vật, 9 ghế tựa
- Cần 6 HS tham gia (5 HS đóng vai các con vật: Công, trĩ, Sao La, Hổ, Báo)
Tiến hành
- Bắt đầu trò chơi: GV cho HS xếp 5 ghế tựa vào nhau, cho 5 HS (5 em
tương ứng với các con vật: Công, trĩ, Sao La, Hổ, Báo, còn 1 nhân vật điều
khiển trò chơi ở ngoài) cho 5 nhân vật đi vòng quanh chiếc ghế vừa đi vừa hát,
khi bài hát kết thúc thì ngồi vào ghế, như vậy, kết thúc bài hát thứ nhất 5 con vật
sẽ có chỗ ở, sang bài hát thứ hai nhân vật vòng ngoài rút một ghế, như vậy, khi
kết thúc bài hát thứ hai một con vật sẽ không có chỗ ở, đến bài hát thứ 3 nhân
vật vòng ngoài tiếp tục rút hai ghế nữa, như vậy khi bài hát thứ 3 kết thúc sẽ có
2 con vật nữa không có chỗ ở, cứ thế đến bài hát thứ 4 tiếp tục rút 2 ghế nữa.
Như vậy lúc này 5 con vật sẽ không có chỗ ở. Tiếp đến nhân vật vòng ngoài xếp
9 cái ghế tựa vào nhau và cũng hát một bài hát ngắn, khi bài hát kết thúc 5 con
vật không chỉ có chỗ ở mà không gian sẽ thoáng đãng hơn rất nhiều. Kết thúc
trò chơi lúc này GV mới hỏi cả lớp, nhân vật vòng ngoài là ai? (HS biết ngay đó
là Lâm tặc) và qua trò chơi này các em rút ra được kiến thức gì?
Như vậy qua trò chơi này HS có thể dễ dàng rút ra kiến thức là: Rừng là tài
nguyên có thể phục hồi, và con người có hai mặt trong việc bảo vệ tài nguyên,

bảo vệ môi trường. GV chốt lại thêm con người chúng nên hạn chế tối đa mặt
tiêu cực mà phát huy hơn nữa mặt (vào bài mới)

2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Đầu năm học 2016 -2017 tôi được phân công giảng dạy ở các lớp 10 C2, 10 C6,
Tôi đã áp dụng các biện pháp trên vào giờ học Địa lí 10. Trong quá trình giảng
dạy các em, tôi nhận thấy các em đã có những tiến bộ rõ rệt. Trong mỗi giờ học,
các em chú ý hăng say phát biểu hơn, mạnh dạn hỏi những vấn đề chưa hiểu.
Tôi lại làm khảo sát, kết quả thu được như sau:
Lớp thực nghiệm (10 C2)
Lớp

Số học sinh Có hứng thú với Không có hứng thú
với phân Địa lí
được khảo phân môn Địa lí
sát
Số lượng Tỉ lệ
Số lượng Tỉ lệ

10 C2

34

28

82,4%

06


17,6%

Đối chiếu và so sánh với kết quả tỉ lệ học sinh thích học tiết Địa lí ở lớp 10 C2
(Lớp thực nghiêm), 10 C6 (Lớp đối chứng) khi tôi chưa áp dụng phương pháp

Trang 14


MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP “KHỞI ĐỘNG”,"CHUYỂN MỤC” ĐỊA LÍ 10
NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ, CHỦ ĐỘNG HỌC CỦA HỌC SINH
tôi lại tiếp tục làm một đợt phiếu thăm dò và thu được kết quả như sau:
Lớp đối chứng (10 C6)
Lớp

Không có hứng thú
Số học sinh Có hứng thú với với phân môn Địa
được khảo phân môn Địa lí

sát
Số lượng Tỉ lệ
Số lượng Tỉ lệ

10 C6

32

19

59,4 %


13

40,6 %

Có thể biểu diễn bằng biểu đồ như sau:

(Biểu đồ thể hiện lớp thực nghiệm 10 C2 và lớp đối chứng 10 C6)
* KẾT QUẢ SAU KHI KHẢO SÁT (qua bài kiểm tra 15')
- Kết quả của lớp không vận dụng:
ĐIỂM KIỂM TRA

Lớp 10 C6
Số lượng (32)

Tỉ lệ (%)

Giỏi (> hoặc = 8)

10

31,2

Khá (từ 6.5 đến 7.9)

15

46,9

Trung bình (từ 5.0 đến 6.4)


7

21,9

Yếu (< hoặc = 4.9)

0

0

Trang 15


- Kết quả của lớp có vận dụng
ĐIỂM KIỂM TRA

Lớp 10 C2
Số lượng (34)

Tỉ lệ (%)

Giỏi (> hoặc = 8)

16

47,1

Khá (từ 6.5 đến 7.9)

16


47,1

Trung bình (từ 5.0 đến 6.4)

2

5,8

Yếu (< hoặc = 4.9)

0

0

Sau khi hoàn thành bài kiểm tra đánh giá mực độ hiểu và nắm vững kiến thức
của học sinh, tác giả có làm phiếu điều tra về thái độ của học sinh đối với
phương pháp thực nghiệm này thì thấy được kết quả như sau:
- Học sinh không còn cảm giác buồn ngủ đối với tiết Địa Lí, vốn dĩ được xem
là môn phụ nhờ những câu chuyện mới lạ, hấp dẫn liên quan nội dung bài học.
- Lớp học nghiêm túc khi học sinh lắng nghe GV dạy, đồng thời phát huy tính
tích cực cho học sinh khi các em chủ động khai thác kiến thức từ các mẩu
chuyện ấy. Lớp tránh được tình trạng nhàm chán ngủ gật trong tiết học.
3. Kết luận, khiến nghị
* Kết luận
Khi sử dụng phương pháp “Khởi động” và “Chuyển mục” chúng ta có một
thuận lợi là nguồn tư liệu rất phong phú và đa dạng. Các nội dung có thể lấy từ
nhiều nguồn khác nhau: Câu thơ, câu hát, clip, trò chơi...và cũng qua đó học
sinh nhớ bài dễ dàng hơn, và nhớ bài lâu hơn nữa…
Một ưu thế nữa mà PP trên mang lại đó là, do nguồn nội dung phong phú

nên chúng ta có thể sưu tập nhiều với mục đích khác nhau: dùng để minh họa
cho bài giảng, hoặc là dùng các câu chuyện để thu hút sự chú ý của học sinh khi
lớp học trầm, dùng kích thích sáng tạo của HS khi các em buồn ngủ...
Bên cạnh những ưu điểm thì phương pháp “Khởi động”,“Chuyển mục” còn
mang những nhược điểm nhất định, khi sử dụng phương pháp này đòi hỏi GV
cần phải chú ý đến các nhược điểm đó.
Lượng kiến thức trong mỗi tiết học đều đã được định trước về mặt thời
gian có nghĩa là nó phù hợp với thời gian cho phép (45 phút). Do đó khi sử dụng
phương pháp mà không chú ý đến vấn đề này có thể sẽ không mang lại kết quả
như ý muốn. Nhất là các nội dung dài thì rất mất thời gian.
Qua phần trên ta thấy, phương pháp “Khởi động”,“Chuyển mục” trong dạy
học mang lại nhiều ưu điểm, song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những nhược
điểm. Như vậy, khi sử dụng phương pháp này trong dạy học người dạy phải làm
như thế nào để tận dụng được các ưu điểm và hạn chế tối đa nhược điểm của
Trang 16


nó? Có lẽ sẽ có nhiều ý kiến khác nhau để trả lời câu hỏi này, đối với riêng cá
nhân, tác giả xin có một số ý kiến như sau:
+ Trước hết, người sử dụng phương pháp này phải chọn lọc các các nội
dung sao cho phải phù hợp với nội dung bài giảng
+ Thứ hai, người sử dụng phải định hướng, xác định rõ mục đích khi sử
dụng các phương pháp.
+ Thứ ba, người dạy phải chú ý đến hoàn cảnh cụ thể của từng lớp học,
từng đối tượng học sinh mà áp dụng các phương pháp cho phù hợp. Ví dụ như,
chúng ta không thể sử dụng tất cả các phương pháp trong một tiết dạy có nội
dung bài học giống nhau, và cũng không nên áp dụng một phương pháp cho tất
cả các lớp dạy.
Nói tóm lại, theo tác giả thì người dạy sử dụng phương pháp này phải chọn
lọc nội dung, sử dụng khéo léo, nhuần nhuyễn để nội dung bài giảng sinh động

hơn. Đây có thể coi là một nghệ thuật trong dạy học của người giáo viên
* Khiến nghị
- Muốn thực hiện được phương pháp “Khởi động”, “chuyển mục” này,
giáo viên phải thật sự yêu thích tiết dạy, từ đó mới truyền hứng thú học tập cho
học sinh.
- Giáo viên phải cô đọng kiến thức trong sách giáo khoa, đảm bảo chuẩn
kiến thức kĩ năng để dành thời gian lồng ghép cho học sinh khai thác kiến thức.
Trên đây là toàn bộ quan điểm và nghiên cứu của tác giả về phương pháp
Khởi động, chuyển mục. Đề tài tác giả nghiên cứu có lẽ cũng có nhiều giáo viên
áp dụng, nhưng trong bài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong các đồng nghiệp góp ý, chia sẻ để xây dựng sáng kiến hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 29 tháng 05 năm
2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lê Ngọc Thi

Trang 17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên Địa lí 10 - NXB Giáo dục
2. Luyện tập và tự kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng – NXB Giáo
dục Việt Nam 2010
3. Thiết kế bài giảng Địa lí 10 – NXB Hà Nội – 2006

4.10 vạn câu hỏi vì sao – NXB Giáo dục - 1997
5. Google.com, violet.vn
6. Kĩ thuật dạy học địa lí ở trường phổ thông – NXB Giáo dục – 2007
7. Sách giáo khoa địa lí lớp 10- NXB Giáo dục

DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1

SGK

Sách giáo khoa

2

SGV

Sách giáo viên

3

HS

Học sinh

4

GV

Giáo viên


5

PTDH

Phương tiện dạy học

6

PPDH

Phương pháp dạy học

7

SKKN

Sáng kiến kinh nghiệm

8

PPDHTC

Phương pháp dạy học tích cực

9

PP

Phương pháp


10

NXB

Nhà xuất bản

11



Hoạt động

12

TLTK

Tài liệu tham khảo

Trang 18


Trang 19



×