Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Đảng bộ tỉnh yên bái lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1996 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MAI THI TUYẾT

ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MAI THI TUYẾT

ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS TRƢƠNG THỊ MAI HƢƠNG

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn
của TS. Trƣơng Thị Mai Hƣơng.
Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các
tài liệu có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2016
Tác giả

Mai Thị Tuyết


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới Cô giáo
hƣớng dẫn TS. Trƣơng Thị Mai Hƣơng – Giảng viên Viện Lịch sử Quân sự Việt
Nam, Cô đã tận tình chỉ bảo, định hƣớng cho tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ từ các thầy, cô giáo trong trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, các thầy cô trong khoa Lịch Sử, trong bộ môn Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam – những ngƣời thầy đã dạy dỗ, chỉ bảo tôi trong suốt quá
trình học tập.
Tôi cảm ơn cán bộ Trung tâm thông tin thƣ viện Đại học quốc gia Hà Nội,
các lãnh đạo và cán bộ phòng lƣu trữ Tỉnh ủy, Thƣ viện tỉnh Yên Bái đã giúp đỡ tôi
trong quá trình tìm và hệ thống tƣ liệu cần thiết cho luận văn thạc sĩ.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã
luôn động viên khích lệ để tôi hoàn thành khóa học.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực song luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót. Tôi rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2016
Tác giả


Mai Thị Tuyết


BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT

STT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

BCH

Ban chấp hành

2

BCĐ

Ban chỉ đạo

3

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4


CSDT

Chính sách dân tộc

5

DTTS

Dân tộc thiểu số

6

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

7

ĐBKK

Đặc biệt khó khăn

8

HTCTCS

Hệ thống chính trị cơ sở

9


HĐND, UBND

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

10

KHKT

Khoa học kỹ thuật

11

TW

Trung ƣơng

12

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .....................................................9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................9

5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu ...........................................................10
6. Đóng góp của luận văn ..........................................................................................10
7. Kết cấu của luận văn .............................................................................................11
Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000 .............................................12
1.1. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái trƣớc năm 1996 ...........12
1.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc trước năm
1996 ...........................................................................................................................12
1.1.2. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái trước năm 1996 ...............19
1.2. Lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái từ năm 1996 đến năm
2000 ...........................................................................................................................26
1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về thực hiện chính sách dân tộc từ năm
1996 đến năm 2000 ...................................................................................................26
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Yên Bái chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc và những thành
tựu đạt được ..............................................................................................................31
Tiểu kết chƣơng 1:...................................................................................................41
Chƣơng 2: LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
CỦA ĐẢNG BỘ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 ...............................................42
2.1. Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện chính sách dân tộc từ
năm 2001 đến năm 2005 .........................................................................................42
2.1.1. Những yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh về chính sách dân tộc .42
2.1.2. Thực hiện đổi mới chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Yên Bái ..................48


2.2. Chính sách dân tộc ở Yên Bái dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh từ năm
2006 đến năm 2010 ..................................................................................................54
2.2.1. Tiếp tục đổi mới trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh .............54
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả đạt được ...........................................59
Tiểu kết chƣơng 2:...................................................................................................69
Chƣơng 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU.......70

3.1. Nhận xét chung .................................................................................................70
3.1.1. Ưu điểm ...........................................................................................................70
3.1.2. Hạn chế ...........................................................................................................77
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ...........................................................................82
3.2.1. Kinh nghiệm trong xác định chủ trương .........................................................82
3.2.2. Kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện ..............................................................86
Tiểu kết chƣơng 3:...................................................................................................90
KẾT LUẬN ..............................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ
dân tộc - tộc ngƣời, hoạch định và thực thi hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nƣớc qua từng thời kỳ, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc là một vấn đề
có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng nhƣ trong hội nhập và phát triển đất nƣớc hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay, luôn lấy quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc để đề ra các chủ
trƣơng, chính sách dân tộc với nội dụng cơ bản: “Bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ
giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và
Nhà nƣớc luôn coi trọng vấn đề vận động cách mạng, phát huy sức mạnh của đồng
bào các dân tộc thiểu số cũng nhƣ việc hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đại hội lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao –
Trung Quốc (3/1935) nêu rõ: “Đảng đại hội xét rằng, lực lượng đấu tranh của các
dân tộc thiểu số là một lực lượng rất lớn. Công cuộc giải phóng của họ là một bộ
phận quan trọng trong công cuộc cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương,
bộ phận cách mạng thế giới”. Với những quan điểm đúng đắn, Đảng và Nhà nƣớc

ta đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc để hoàn thành những nhiệm vụ
chiến lƣợc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc,
xây dựng xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo vệ và phát triển đất nƣớc ở giai đoạn sau.
Trong tiến trình phát triển của đất nƣớc, công tác dân tộc đã đạt đƣợc nhiều thành
tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của kinh tế - chính trị.
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng mở ra một
trang mới cho lịch sử dân tộc: Đổi mới toàn diện đất nƣớc theo định hƣớng xã hội
chủ nghĩa. Nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc và công tác dân tộc trong điều kiện
mới, Đảng và Nhà nƣớc ban hành nhiều chủ trƣơng, chính sách phát triển kinh tế xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số, chú trọng các khu căn cứ cách mạng, vùng
hải đảo, vùng sâu, vùng xa - nơi còn nhiều khó khăn.

1


Điểm lại việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta trong
nhiều thập kỉ qua, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, có thể thấy nó không
chỉ mang tính tổng hợp, toàn diện và quán xuyến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng mà nó còn hàm chứa nhiều nội dung sâu
sắc. Qua đó, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số, đời
sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa đã
từng bƣớc đƣợc cải thiện rõ rệt, trong đó có tỉnh Yên Bái. Đó là một tỉnh miền núi
nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và trung du Bắc Bộ, có vị trí trọng
yếu về quân sự, kinh tế của nƣớc ta, là nơi quần tụ của hơn 30 dân tộc anh em.
Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, mảnh đất Yên Bái đã không ngừng thay
da đổi thịt, từng bƣớc phát triển đi lên. Trong lao động sản xuất, trong kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, đồng bào các dân tộc ở Yên Bái đã có nhiều đóng góp to lớn.
Yên Bái cũng là một trong những vùng trọng điểm của khu vực miền núi
phía Bắc trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc. Những năm
qua, Yên Bái đã đạt đƣợc nhiều thành tựu trong thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng, các lĩnh vực của đời sống xã hội có sự chuyển biến rõ rệt theo hƣớng tiến bộ,

đời sống nhân dân cơ bản đƣợc ổn định và nhiều nơi đƣợc cải thiện rõ rệt, an ninh
trật tự, xã hội đƣợc giữ vững. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách dân tộc vẫn
còn nhiều bất cập, hạn chế, hiệu quả của một số chƣơng trình, dự án chƣa cao… Do
đó, nghiên cứu chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới nói chung, đặc biệt là quá
trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, để thấy đƣợc những mặt tích cực
cần phát huy; những mặt tiêu cực cần phải khắc phục; đồng thời đúc rút kinh
nghiệm, nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc, góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ
tăng trƣởng mọi mặt ở địa phƣơng. Từ đó, tạo tiền đề cơ sở cho việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn tiếp theo, để Yên Bái
vững tin trên con đƣờng phát triển và hội nhập.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Yên Bái
lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1996 đến năm 2010” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, chuyên nghành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Yên Bái là tỉnh có vị trị chiến lƣợc quan trọng về kinh tế, quốc phòng, an
ninh, là trọng điểm của việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc và giải quyết
các vấn đề về dân tộc, miền núi, ở vùng Tây Bắc nói riêng và phía Bắc nƣớc ta nói
chung. Do đó, các vấn đề liên quan đến thực hiện chính sách dân tộc, vấn đề công
tác dân tộc và miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Yên Bái đã và đang đƣợc
nhiều ngƣời quan tâm, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề trên
đƣợc công bố, xuất bản thành sách, tiêu biểu nhƣ:
Các công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước Việt Nam
Từ cuối những năm 1990 đến nay, chính sách dân tộc đã đƣợc các viện,

nhóm học giả trong và ngoài nƣớc nghiên cứu nhƣ cuốn sách Vấn đề dân tộc và
định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá (2002) của Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tuy nhiên, công trình này không tránh khỏi những hạn
chế khi đánh giá về kết quả thực hiện chính sách dân tộc trong thời gian qua.
Đề cập tới vấn đề bình đẳng dân tộc có các công trình: Hoàng Chí Bảo (2009),
Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trịnh Quốc Tuấn
(1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các công trình này đã khẳng định: “Thực hiện bình đẳng
dân tộc là một nhu cầu rất to lớn trong tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam”. Đồng
thời chỉ rõ, đó còn là một nhân tố quan trọng đảm bảo cho xã hội Việt Nam ổn định và
phát triển. Trên cơ sở nêu rõ những nhận thức lý luận mới về dân tộc, quan hệ dân tộc
và chính sách dân tộc; đánh giá thực trạng tình hình kinh tế - xã hội và các quan hệ dân
tộc; làm rõ những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm trong quá trình thực hiện chính
sách dân tộc, các tác giả của các nghiên cứu này đã nhận định: Những bất cập, hạn chế
trong việc giải quyết các quan hệ dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc đều có thể làm
phát sinh những mâu thuẫn, những xung đột dân tộc và giữa các tộc ngƣời trong quá
trình phát triển. Từ việc tổng kết thực tiễn để phát hiện mâu thuẫn và tình huống, tác

3


giả đã dự báo các xu hƣớng, đề xuất các giải pháp và nêu lên những khuyến nghị về
chính sách và các vấn đề có liên quan tới sự phát triển của các tộc ngƣời, các quan
hệ dân tộc, đoàn kết dân tộc ở nƣớc ta.
Những kết quả nghiên cứu nêu trên góp phần tạo tiền đề, luận cứ khoa học
cho những quyết sách mới của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề quan hệ dân tộc và
chính sách dân tộc hiện nay cũng nhƣ tƣơng lai.
Chuyên khảo Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay
(2006) của đồng tác giả Phan Xuân Sơn, Lƣu Văn Quảng, Nhà xuất bản Lý luận

Chính trị, Hà Nội; một mặt, giúp ngƣời đọc nhìn nhận hệ thống về chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam từ năm 1930 đến nay; mặt khác, thông qua
khảo sát thực tế tại vùng dân tộc nhƣ Tây Bắc, Tây Nguyên, đã rút ra những kết
luận, làm rõ những thành công và hạn chế trong quá trình hoạch định và thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam. Từ đó, xác định những quan
điểm, phƣơng hƣớng lớn về chính sách dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong
thực tiễn nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ lẫn nhau cùng
phát triển, đặc biệt là xử lý các vấn đề bức xúc nhƣ: tranh chấp nguồn lợi, xung đột
tộc ngƣời, vấn đề nghèo đói, tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch...
Về giải quyết mối quan hệ dân tộc trong giai đoạn hiện nay có các công trình
nghiên cứu tiêu biểu nhƣ Phan Hữu Dật (chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm - Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội. Các công trình tiếp cận vấn đề chính sách dân tộc từ lý luận phát triển của chủ
nghĩa Mác -Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; phác hoạ bức tranh tổng thể về xung đột
dân tộc đang diễn ra trên thế giới; đồng thời, nêu lên các bài học kinh nghiệm và
phƣơng hƣớng giải quyết để hạn chế những xung đột tộc ngƣời. Đối với Việt Nam,
các tác giả đã nêu lên thực trạng mối quan hệ dân tộc ở nƣớc ta hiện nay vẫn còn
tiểm ẩn những yếu tố có thể gây mất ổn định, đồng thời đề xuất một số khuyến nghị
để thực hiện tốt đƣờng lối, chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.

4


Nhìn chung, các đề tài và các bài viết đã cung cấp một cách khách quan, toàn
diện tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở các địa bàn nghiên cứu. Các công
trình, bài viết cho thấy, ngoài những chính sách quốc gia phục vụ nhƣ những hƣớng
dẫn và chiến lƣợc chung cho phát triển, còn có những chính sách riêng cho các vùng

nhằm vào các khu vực địa lý cụ thể dựa trên những điều kiện riêng biệt của từng
vùng. Với nhận định, kết luận và bài học kinh nghiệm đƣợc rút ra trong quá trình
nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện các giải
pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc của Đảng trong tình hình mới.
Các công trình khoa học nghiên cứu về dân tộc và chính sách dân tộc ở miền
núi nói chung
Có nhiều công trình, bài viết của các tác giả nghiên cứu về dân tộc và chính
sách dân tộc, trong đó đề cập đến các vấn đề nhƣ dân số, đặc trƣng văn hoá, kinh
tế… của 54 dân tộc trong cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam. Những công trình
tiêu biểu đề cập đến vấn đề này nhƣ: Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc
gia dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh;
Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội.
Bàn về những xu hƣớng tác động đến quản lý phát triển xã hội các vùng dân
tộc thiểu số nƣớc ta hiện nay, trong bài viết Những xu hướng tác động đến quản lý
phát triển xã hội các vùng dân tộc thiểu số nước ta (2009) của Đoàn Minh Huấn,
Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8; tác giả đã đề cập tới một số xu hƣớng chủ yếu nhƣ:
Xu hƣớng toàn cầu hoá, khu vực hoá, tự do hoá kinh tế; xu hƣớng dân chủ hoá; xu
hƣớng đan xen vấn đề dân tộc với tôn giáo; xu hƣớng đan xen giữa xung đột xã hội
với hợp tác xã hội trong quan hệ tộc ngƣời; xu hƣớng hợp tác hóa lãnh thổ. Đồng
thời, tác giả khẳng định: Các xu hƣớng trên đang và sẽ tác động đến quản lý phát
triển xã hội vùng dân tộc thiểu số Việt Nam trong thập niên tới, bao gồm cả tích
cực, tiêu cực và lƣỡng cực. Vì vậy, các giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý phát
triển xã hội vùng dân tộc thiểu số trong đó đòi hỏi phải phát huy mặt tích cực, hoá
giải mặt tiêu cực, kiểm soát đƣợc các tác động lƣỡng cực.

5


Cuốn sách Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội ở miền núi

của Bế Viết Đẳng (1996), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã dành một chƣơng
đánh giá vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam. Trên cơ
sở khái quát thực trạng kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, tác giả đƣa ra những
nhận thức và quan điểm cơ bản về chính sách dân tộc trong thời kỳ mới, trong đó
khẳng định: phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở để thực hiện chính sách dân tộc.
Phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chính là khâu then chốt - giải pháp
có tính đột phá cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nƣớc ta nói chung, sự
phát triển của vùng đồng bào dân tộc thiểu số nƣớc ta nói riêng - đó là nhận định
đƣợc rút ra từ cuốn sách Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số Việt
Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Sách
chuyên khảo) của Nguyễn Đăng Thành (2012), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật.
Tác giả khẳng định: Vùng dân tộc thiểu số là địa bàn chiến lƣợc về kinh tế - xã hội,
môi trƣờng, văn hoá, chính trị, an ninh, quốc phòng, tôn giáo, dân tộc và quan hệ
quốc tế của đất nƣớc. Vùng dân tộc thiểu số chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên
thiên nhiên, xã hội, lịch sử, văn hoá vô giá phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nƣớc. Tiềm năng và cơ hội phát triển của vùng dân tộc thiểu số
không chỉ mang ý nghĩa tự thân mà còn cho cả đất nƣớc. Bên cạnh đó, vùng dân tộc
thiểu số đang phải đƣơng đầu với những thách thức to lớn về phát triển, trƣớc hết là
thách thức về số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng nguồn nhân lực. Trình độ dân trí thấp,
thiếu hiểu biết, thiếu thông tin của ngƣời dân tộc thiểu số chính là mảnh đất màu mỡ
cho các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để xuyên tạc, chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc. Với nhận thức đó, cuốn sách chuyên khảo đã trình bày luận cứ
lý thuyết và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nƣớc ta đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó, nêu lên kinh nghiệm
phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số của một số nƣớc trên thế giới nhƣ
Canada, Trung Quốc.
Tóm lại, có thể thống kê nhiều hơn nữa các công trình loại này, song đây là
những nghiên cứu tổng hợp, mang đến những nhận định khái quát về đặc điểm địa
lý, văn hoá xã hội, về thành phần dân tộc và sự phân bố các dân tộc thiểu số ở Việt


6


Nam. Từ đó, rút ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn về đời sống
của đồng bào các dân tộc thiểu số; đồng thời, đóng góp cơ sở khoa học cho việc
thực hiện tốt hơn chính sách bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điểm
thống nhất cơ bản của các nghiên cứu này là tiếp cận, nhìn nhận, giải quyết vấn đề
dân tộc ở Việt Nam từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, khi kiến giải từng vấn đề cũng có những khác biệt. Những công
trình nghiên cứu trên cung cấp cơ sở lý thuyết, phƣơng pháp luận và phần nào dữ
liệu để triển khai nghiên cứu luận văn.
Các công trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc ở
các địa phương
Chuyên khảo Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta hiện nay của Lô Quốc Toản (2010), Nxb Chính trị Quốc gia; trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công tác cán
bộ, đã đánh giá thực trạng số lƣợng, chất lƣợng, cơ cấu của đội ngũ cán bộ, gồm cả
cán bộ tuyến tỉnh, tuyến huyện và tuyến xã, cả cán bộ hệ thống chính trị và viên
chức các đơn vị sự nghiệp. Trên cơ sở đó đã đƣa ra một số giải pháp mang tính can
thiệp chính sách để gia tăng về số lƣợng, điều chỉnh về cơ cấu, đặc biệt là nâng cao
chất lƣợng cán bộ. Các vấn đề đƣợc đề cập sâu sắc là giải quyết cán bộ từ khâu tạo
nguồn bằng mô hình đào tạo đặc thù cho các dân tộc thiểu số, trong đó phát triển
trƣờng dân tộc nội trú và chính sách cử tuyển đƣợc xem là một trọng tâm.
Kỷ yếu hội thảo Xoá đói giảm nghèo vấn đề và giải pháp ở vùng dân tộc
thiểu số phía Bắc Việt Nam (2004) của Viện Dân tộc học, Ngân hàng thế giới, Nhà
xuất bản Nông nghiệp, tập hợp nhiều bài viết liên quan đến các vấn đề về đói
nghèo, chuẩn nghèo, đánh giá và đƣa ra các giải pháp góp phần đẩy mạnh công tác
xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam. Đáng chú
ý là các đánh giá về nguyên nhân của đói nghèo, gồm cả nguyên nhân do di tồn lịch
sử, rào cản của yếu tố địa lý - tự nhiên và tập quán canh tác... đã đe dọa đến sinh kế

tộc ngƣời. Ngoài ra, chính sách dân tộc chú trọng về hỗ trợ thay vì đầu tƣ phát triển
cũng dễ gây tâm lý ỷ lại, trông chờ của một bộ phận không nhỏ đồng bào các dân
tộc thiểu số. Do đó, một số tác giả khuyến nghị phải kết hợp cả chính sách hỗ trợ

7


mang tính an sinh xã hội với chính sách đầu tƣ phát triển, phải chuyển hóa đƣợc
nguồn lực ƣu tiên đầu tƣ của nhà nƣớc thành nội động lực cho quá trình tự phát
triển của đồng bào các dân tộc.
Liên quan trực tiếp tới việc thực hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái, đáng lƣu
ý có các luận văn, luận án sau: “Một số suy nghĩ về vấn đề dân tộc ở tỉnh Yên Bái”
của tác giả Hà Văn Định (1995). Qua phân tích thực trạng ở địa phƣơng, tác giả đã
đề xuất một số giải pháp để thực hiện chính sách dân tộc trong thời gian tới. Công
trình nghiên cứu trên khẳng định vai trò to lớn và sự đúng đắn, nhất quán của Đảng
trong việc đề ra và lãnh đạo thực hiện chính sách đối với các dân tộc thiểu số trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng nhƣ
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Luận văn “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện
nay” (2005) của Lâm Thị Bích Nguyệt đã nghiên cứu sự vận dụng các quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc để đƣa ra các
chủ trƣơng, chính sách phù hợp. Trong bối cảnh chung với nhiều biến động thì yêu
cầu đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong cả nƣớc nói chung, ở Yên Bái
nói riêng là cần thiết để công cuộc đổi mới đất nƣớc thắng lợi. Luận án cũng đƣa ra
các giải pháp để tiến hành đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái.
Luận văn “Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam ở
Yên Bái thời kỳ 1986 – 2010” (2012) của Đỗ Đức Đông đã nghiên cứu quan điểm
về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc trên một số mặt cơ bản, quá trình thực
hiện từ năm 1986 đến năm 2010 ở Yên Bái, kết quả thực hiện chính sách dân tộc ở
Yên Bái trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội, an ninh quốc phòng. Trên cơ sở đó tác giả cũng nêu ra các tác động khi thực
hiện chính sách dân tộc ở địa phƣơng.
Điểm lại những công trình, bài viết có liên quan đến vấn đề dân tộc và thực
hiện chính sách dân tộc ở vùng miền núi phía Bắc nói chung, Yên Bái nói riêng,
chúng tôi thấy, mặc dù đã các tác giả có đề cập đến một số khía cạnh mà đề tài luận
văn này quan tâm, song cho đến nay, chƣa có công trình nghiên cứu nào đề cập một
cách trực tiếp và có hệ thống về: “Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc từ năm 1996 đến năm 2010”.

8


Những nghiên cứu, tài liệu trên sẽ là nguồn tƣ liệu quý để tác giả kế thừa,
tham khảo khi thực hiện đề tài luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc trên địa bàn tỉnh từ năm 1996 đến năm 2010.
Trên cơ sở đó đƣa ra nhận xét và một số kinh nghiệm chủ yếu trong việc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích đặt ra, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc
- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng từ năm 1996 đến năm 2010.
- Khẳng định những thành tựu, chỉ ra những hạn chế trong quá trình lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1996 đến năm 2010.
- Đúc rút một số kinh nghiệm chủ yếu từ năm 1996 đến năm 2010 Đảng bộ
tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về
chính sách dân tộc từ năm 1996 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về nội dung:
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái bao gồm việc vận dụng các chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng, các biện pháp cụ thể tùy vào đặc điểm của địa phƣơng
nhằm thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1996 đến năm 2010
- Quá trình thực hiện chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh và kết quả thực hiện
chính sách dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục đào tạo, chính sách cán
bộ, thực hiện an sinh xã hội, phát huy các giá trị văn hóa tộc ngƣời, tăng cƣờng đại
đoàn kết dân tộc . . .

9


* Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo thực
hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ năm 1996 đến năm 2010. Tuy nhiên để
làm rõ vấn đề, chúng tôi đề cập khái quát việc thực hiện chính sách dân tộc trƣớc
năm 1996.
* Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Yên Bái (bao gồm Thành phố Yên Bái,
thị xã Nghĩa Lộ và 7 huyện).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
5.1 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng 2 phƣơng pháp: phƣơng pháp lịch sử và phƣơng
pháp logic. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ
thể khác nhƣ: tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích tƣ liệu, kết hợp phƣơng pháp
điều tra xã hội học – dân tộc học...
5.2. Nguồn tư liệu
Luận văn khai thác chủ yếu từ các nguồn tƣ liệu nhƣ:

- Các văn kiện, văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng bộ tỉnh Yên Bái về chính sách dân tộc từ năm 1996 đến năm 2010.
- Các văn bản cụ thể hóa việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
bộ tỉnh Yên Bái.
- Các báo cáo tổng kết của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về thực hiện chính sách dân
tộc từ năm 1996 đến năm 2010
- Các sách chuyên khảo, các đề tài khoa học, bài nghiên cứu, sách viết về
Yên Bái nói chung, về những vấn đề có liên quan đến chính sách dân tộc và thực
hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái nói riêng.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Đóng góp về khoa học
- Khẳng định sự đúng đắn của các quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự lãnh đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về
chính sách dân tộc.

10


- Bƣớc đầu hệ thống hóa một cách toàn diện về chủ trƣơng, chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc; công tác triển khai của địa phƣơng và của các bộ ngành trong
việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái trong thời kì đổi mới.
- Đúc rút một số kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng tại địa phƣơng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
6.2. Đóng góp về tư liệu
- Luận văn hoàn thành sẽ góp phần bổ sung thêm tri thức địa phƣơng - nguồn
tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu về Yên Bái, dƣới góc độ lịch sử
và dân tộc học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm 3 chƣơng 6 tiết.


11


Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000
1.1. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở Yên Bái trƣớc năm 1996
1.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc
trước năm 1996
Quan niệm chung về chính sách dân tộc
Dân tộc là một hình thái cộng đồng ngƣời đƣợc hình thành trong quá trình
phát triển của lịch sử. Thuật ngữ “dân tộc” (Nation) và thời điểm xuất hiện của dân
tộc là vấn đề tranh luận khoa học kéo dài nhiều thập kỷ, cho mãi tới ngày nay. Trên
quan điểm Mác - xit, dựa vào đặc thù của sự hình thành và phát triển của các dân
tộc Việt Nam, có thể hiểu dân tộc theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng nhƣ sau:
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là một cộng đồng ngƣời tƣơng đối ổn định hoặc ổn
định, đƣợc hình thành và phát triển trong lịch sử với ba đặc điểm đặc trƣng chủ yếu:
có chung tiếng nói (ngôn ngữ), có đặc điểm chung cùng bản sắc văn hóa, có tập
quán và trình độ sản xuất và phát triển tƣơng tự nhau và có ý thức tự giác chung về
tộc ngƣời.
Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm chỉ một cộng đồng chính trị - xã hội
rộng lớn bao gồm nhiều cộng đồng ngƣời, tộc ngƣời trong một quốc gia đa dân tộc.
Cộng đồng dân tộc việt Nam gồm 54 dân tộc anh em. Dân tộc kinh chiếm đa số, còn
các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 13% dân số trong cả nƣớc.
Trong đời sống chính trị, chúng ta quen gọi dân tộc Việt Nam gồm 54 dân
tộc anh em. Trƣớc thực tiễn xã hội và điều kiện thế giới hiện nay, việc giữ nguyên
cách gọi nhƣ vậy là cần thiết. Chính sách dân tộc, theo khái niệm đó nhằm đảm bảo
lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.
Chính sách dân tộc là hệ thống quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vấn đề
dân tộc, quan hệ dân tộc và các giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm

thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ giữa các dân tộc.
Về chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nƣớc Việt Nam có nội
dung sâu sắc và toàn diện, là chính sách tổng hợp, đa ngành liên quan đến mọi tầng
lớp, giai cấp, mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng ở nhiều tộc

12


ngƣời trong một quốc gia. Do đó, tất cả các cấp các, ngành đều phải quan tâm thực
hiện chính sách dân tộc, quán triệt nội dung, yêu cầu của CSDT trong hoạt động của
mình. Đồng thời, khi xây dựng CSDT phải bao hàm trong đó các chính sách ngành,
lĩnh vực cụ thể, để có thể thực hiện một cách toàn diện CSDT. Nói cách khác, cần
cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng và kế hoạch của Nhà nƣớc phù hợp với từng
vùng, từng dân tộc.
Nhƣ vậy, chính sách dân tộc là chính sách tổng hợp, bao quát trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc
phòng, bảo vệ môi trƣờng sinh thái. Chính sách dân tộc đúng đắn không những thúc
đẩy kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa của đồng bào các dân tộc
thiểu số, mà còn là một phƣơng hƣớng tích cực nhất, chủ động nhất, có hiệu quả
nhất đối với các âm mƣu, hoạt động chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
củng cố thế trận an ninh - quốc phòng, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc trước năm 1996
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập một cách toàn diện vấn đề dân tộc và đề
ra những giải pháp triệt để giải quyết vấn đề dân tộc. Chỉ rõ vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau, khẳng định sự áp bức bóc lột của giai cấp này
với giai cấp khác là nguồn gốc của sự áp bức dân tộc này lên dân tộc khác. C.Mác,
Ph.Ăngghen đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: một dân tộc đi áp bức những dân tộc
khác thì dân tộc ấy không thể có tự do. Khẩu hiệu hành động đƣợc đề ra là “Vô sản
tất cả các nước, đoàn kết lại”.
Sau này, V.I.Lênin đã phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen về

vấn đề dân tộc và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đề ra Cƣơng lĩnh dân tộc với 3
điểm cơ bản nhất, có quan hệ mật thiết với nhau: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng;
các dân tộc đƣợc quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. Đó là
Cƣơng lĩnh dân tộc mà Chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm
của nƣớc Nga dạy cho công nhân” [95, tr.375]. Đây là tƣ tƣởng chỉ đạo, nội dung
cốt lõi của Chủ nghĩa Mác – Lênin về chính sách dân tộc.
Tiếp thu và thực hiện Cƣơng lĩnh dân tộc của V.I.Lênin là một nguyên tắc
nhất quán trong chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

13


về giải phóng dân tộc cũng là biểu hiện tập trung của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển Chủ nghĩa Mác – Lênin trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XX.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn Việt Nam là một
quốc gia đa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn dặn về việc quan tâm
đến cuộc sống của đồng bào các dân tộc. Ngƣời nói: “Chủ nghĩa Mác - Lênin đã
giúp Đảng nhận thấy rõ rằng trong điều kiện một nƣớc nông nghiệp lạc hậu nhƣ
nƣớc ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân. Cách mạng dân tộc thực
chất là cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo và chính quyền
nhân dân thực chất là chính quyền của công nông [94, tr.17-18]”.
Ngƣời luôn kêu gọi đoàn kết các dân tộc, bởi đoàn kết là một yếu tố cực kỳ
quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam. Ngƣời chỉ rõ:
“Nhờ sức đoàn kết đấu tranh chung của tất cả các dân tộc, nƣớc Việt Nam ngày nay
đƣợc độc lập, các đân tộc thiểu số đƣợc bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả
đều nhƣ anh chị em trong một nhà, không còn sự phân chia nòi giống, tiếng nói làm
gì nữa. Trƣớc kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền
độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa [94, tr.110]”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nƣớc ta, Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến việc hoạch định và thực hiện đƣờng lối, chính sách chung của nƣớc

nhà. Ngƣời nhắc nhở phải tìm cách vận dụng đƣờng lối chính sách chung ấy sao
cho phù hợp với điều kiện của các dân tộc, đồng thời Ngƣời cũng quan tâm đến việc
hoạch định và thực hiện những chính sách riêng cho đồng bào các dân tộc thiểu số,
cho riêng miền núi.
Trƣớc lúc đi xa, trong “Di Chúc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nhân
dân lao động ta ở miền xuôi cũng nhƣ ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ bị
chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại qua nhiều năm chiến tranh. Tuy
vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân
dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân [47, tr.511]”.

14


Đặc điểm nổi bật trong quan hệ dân tộc – tộc ngƣời ở Việt Nam là các dân
tộc luôn gắn kết trên cơ sở tôn trọng nhau, bó bện nhau trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Do đặc điểm và yêu cầu của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc
nghiệt và chống giặc ngoại xâm, các dân tộc Việt Nam, thiểu số cũng nhƣ đa số, dù
trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán…có khác nhau, nhƣng đều có
chung truyền thống đoàn kết thống nhất, tƣơng thân, tƣơng ái, đồng cam cộng khổ
trong công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc. Truyền thống đó đã đƣợc phát huy cao độ
trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nƣớc và đang đƣợc phát
huy trong công cuộc xây dựng đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, mà
nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc
cơ bản đến năm 2020, nƣớc ta trở thành một nƣớc công nghiệp hiện đại.
Dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc, xuất phát từ đặc
điểm tình hình các dân tộc ở nƣớc ta, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra chính
sách dân tộc đúng đắn, thể hiện Cƣơng lĩnh đầu tiên của Đảng và tiếp tục đƣợc hoàn

thiện và thể hiện cụ thể trong các Nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc
thời kỳ sau, cũng nhƣ trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và đƣợc ghi nhận
trong Hiến pháp. Chính sách dân tộc của Đảng mang tính toàn diện, tổng hợp tất cả
các lĩnh vực đời sống xã hội của các dân tộc và quan hệ dân tộc trong cộng đồng
quốc gia; trong đó phát triển kinh tế là nền tảng để phát triển các mặt của đời sống
đồng bào các dân tộc.
Chính sách dân tộc đƣợc thể hiện trong các giai đoạn, trên cơ sở cụ thể hóa
những nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Nghị quyết của Bộ Chính trị về
công tác dân tộc của Đảng tháng 2 – 1951, đã chỉ rõ: “Các dân tộc sống trên đất
nƣớc Việt Nam đều đƣợc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc”.
Sau khi miền Bắc đƣợc giải phóng, đất nƣớc thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lƣợc cách mạng, miền Bắc trở thành hậu phƣơng lớn của cả nƣớc, Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ III (1960) đã đề ra chủ trƣơng: “Đảng và Nhà nƣớc cần có kế

15


hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi, làm cho miền
núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các dân tộc
phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình” [35, tr.193].
Sau khi miền Nam đƣợc giải phóng, cả nƣớc thống nhất đi lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta chủ trƣơng tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nƣớc
của toàn dân, đồng thời, coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong
những nhiệm vụ có tính chất chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam. Báo cáo Chính
trị lần thứ IV (1976) của Đảng đã chỉ ra một cách cụ thể hơn về chính sách dân tộc
của Đảng: “Chính sách dân tộc của Đảng là triệt để thực hiện quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, tạo ra những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về
trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít ngƣời và đông ngƣời, đƣa miền núi tiến

kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc
sống ấm no, văn minh và hạnh phúc phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ” [25, tr.164].
Đến Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đƣợc xem
là đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới. Đại hội nêu ra phƣơng châm thực hiện CSDT cụ
thể nhƣ sau: “Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đồng bào thiểu
số, cần thể hiện đầy đủ CSDT, phát triển mối quan hệ gắn bó giữa các dân tộc trên
tinh thần đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau”. Phƣơng chân thực hiện CSDT là:
“Tăng cƣờng công tác nghiên cứu về dân tộc học và công tác điều tra xã hội học.
Hiểu biết đầy đủ những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc.Trên cơ sở đó
thực hiện tốt CSDT bằng cụ thể hóa, tránh sai lầm, chủ quan, áp dụng những hình
thức không phù hợp trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa
ở các vùng dân tộc”.
Dƣới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VI, công tác dân tộc ở miền núi đƣợc
định hƣớng cụ thể qua hai văn kiện quan trọng của Bộ chính trị và Hội đồng bộ
trƣởng, đó là Nghị quyết 22/NQ – TW năm 1989 của Bộ Chính trị ban hành về
những chủ trƣơng, chính sách lớn phát triển kinh tế, xã hội miền núi. Tiếp đó, đến
tháng 3/1990 Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 72- HĐBT
về chủ trƣơng, chính sách cụ thể phát triển kinh tế, xã hội miền núi. Quy định rõ

16


những nội dung đổi mới cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất ở miền núi theo hƣớng
chuyển sang kinh tế hàng hóa, phù hợp với đặc điểm kinh tế từng vùng. Gắn phát
triển kinh tế với củng cố an ninh quốc phòng. Với hai văn kiện quan trọng này,
đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào các dân tộc Yên Bái nói riêng đã
trực tiếp đƣợc hƣởng những chế độ ƣu tiên trong hệ thống chính sách chung của
Nhà nƣớc về dân tộc và thực hiện CSDT.
Tiếp đó, ngày 4/3/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng ra Quyết định số 69 –

CT về lập chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội vùng cao phía Bắc. Trong đó đặt
nhiệm vụ, kế hoạch đến năm 2000 thành một chƣơng trình đồng bộ, có mục tiêu và
đƣợc sự ƣu tiên của Nhà nƣớc, gọi tắt là “chƣơng trình tổng thể vùng cao phía Bắc”.
Với chƣơng trình này, các tỉnh miền núi phía Bắc trong đó có Yên Bái đƣợc bộ
ngành trung ƣơng quan tâm trực tiếp từ phát triển kết cấu hạ tầng (giao thông, viễn
thông…) đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…Các đồng chí lãnh đạo cấp cao
của Đảng, Nhà nƣớc đã lên khảo sát thực tế hiện trạng, đóng góp ý kiến, nêu chủ
trƣơng, giải pháp thiết thực để giúp các địa phƣơng tháo gỡ khó khăn trƣớc mắt và
cho những ý kiến chỉ đạo kịp thời giúp các cấp chính quyền thực hiện tốt công tác
dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng.
Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc, tại Đại hội lần thứ VII
(1991) của Đảng đã chỉ rõ con đƣờng phát triển của các dân tộc và hƣớng tăng
cƣờng mối quan hệ giữa các dân tộc: “Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền
với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nƣớc ta. Sự tăng cƣờng tính
cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhƣng tính cộng đồng,
tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo của mỗi
dân tộc” [26, tr.16]. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ VII của Đảng đã chỉ
rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng đoàn kết tƣơng trợ giữa các dân tộc, tạo mọi
điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đƣờng văn minh, tiến bộ, gắn bó với
sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam” [26, tr.16].
Có thể thấy, thông qua các hệ thống văn bản, văn kiện của Đảng, chủ trƣơng
của Chính phủ và pháp luật của Nhà nƣớc cũng nhƣ các văn bản dƣới luật, CSDT
của Đảng và Nhà nƣớc ta ngày càng đƣợc quan tâm ngay cả trong phƣơng diện
hoạch định chính sách đến việc thể chế hóa và thực hiện trong đời sống xã hội.

17


CSDT không chỉ nêu lên những nội dung xuyên suốt, bao trùm cả một thời
kỳ dài (thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc) mà còn đƣợc xác

định rõ những nhiệm vụ cụ thể, những mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ, mỗi giai
đoạn. Để làm đƣợc điều đó, cần phải thực hiện đầy đủ các nội dung cụ thể trên các
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Về kinh tế: Nhiệm vụ kinh tế trong CSDT chính là các chủ trƣơng, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi và các vùng dân tộc thiểu số nhằm tạo điều
kiện để các dân tộc phát huy tiềm năng và các nguồn lực, đẩy mạnh sản xuất, kinh
doanh, phát triển kinh tế hàng hóa, từng bƣớc khắc phục tình trạng chênh lệch kinh
tế giữa các vùng miền, giữa dân tộc thiểu số với dân tộc đa số.
Nội dung kinh tế của chính sách dân tộc cũng đòi hỏi phải xây dựng kết cấu
hạ tầng, tạo điều kiện phát triển giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc để phát triển
sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Về chính trị: Nội dung bao trùm, xuyên suốt của chính sách dân tộc là thực
hiện sự bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Đồng bào
các dân tộc thiểu số cũng nhƣ đa số đều có quyền làm chủ, có đầy đủ các quyền lợi
và nghĩa vụ công dân, có quyền lợi và trách nhiệm xây dựng thể chế chính trị mới,
phát huy vai trò của hệ thống chính trị, dân chủ hóa đời sống chính trị ở các vùng
dân tộc thiểu số. Ý thức chính trị, văn hóa chính trị (mà trƣớc hết là những thông tin
tri thức về đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về quyền lợi,
nghĩa vụ công dân…) đƣợc chú ý quan tâm trong CSDT.
Về văn hóa: Nội dung nhiệm vụ văn hóa cũng đƣợc phản ánh rất phong phú
trong CSDT của Đảng và Nhà nƣớc ta. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, bao hàm các nội dung bảo tồn, phát huy những giá trị, bản
sắc văn hóa, phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng đời sống văn hóa mới của các
dân tộc thiểu số, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, chống các tệ nạn xã hội…, tạo nên
sự thống nhất trong sự đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Về xã hội: Chính sách xã hội bao hàm nội dung giải quyết các vấn đề xã hội.
Có rất nhiều nội dung, nhiệm vụ cụ thể thuộc chính sách xã hội đƣợc triển khai đan
lồng trong nhiều chủ trƣơng chính sách: chính sách xóa đói, giảm nghèo đối với các

18



×