Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 36 tháng trường mầm non nga văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.47 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ
24 -36 THÁNG TRƯỜNG MẦM NON NGA VĂN – NGA SƠN

Người thực hiện: Mai Thị Hường
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga văn
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HOÁ NĂM 2017

1


TT
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11


12
13
14
15
16
17
18
19
20

MỤC LỤC
Đề mục
I. MỞ ĐẦU

Trang
1
1. Lí do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
3
5. Những điểm mới của SKKN
3
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

5
nghiệm
3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp
đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao
năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Giải pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt
động chơi tập có chủ định
Giải pháp 3: Tích hợp phát triển ngôn ngữ thông qua các
hoạt động có chủ định khác có nội dung mà phù hợp
Giải pháp 4 : Phát triển ngôn ngữ ở mọi lúc mọi nơi
Giải pháp 5 : Xây dựng môi trường giáo dục kích thích trẻ
phát triển ngôn ngữ
Giải pháp 6 : Phối hợp với các bậc phụ huynh giúp ngôn
ngữ của trẻ phát triển
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

7
7
8
10
11
15
17
18

19
19
20
21

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục
cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Chính vì thế mà nhiệm vụ và mục tiêu
của giáo dục mầm non là làm tốt công tác nuôi dưỡng, giáo dục trẻ nhằm bồi
dưỡng các cháu trở thành người công dân tốt cho xã hội sau này. Như đồngchí
Lê Duẩn đã nói: “Xây dựng con người mới là một trong các mục tiêu quan
trọng hàng đầu của cách mạng XHCN, song con người phải được xây dựng từ
bây giờ, từ những dòng sữa tươi mát của người mẹ, từ những sự chăm sóc đầu
tiên của gia đình và xã hội”
Tại đại hội cô nuôi dạy trẻ tiên tiến toàn Miền Bắc lần thứ II Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nói: “ ...Hãy giành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em” Như
vậy chúng ta phải nuôi dạy trẻ một cách tốt nhất bằng tất cả các khả năng có thể
có được của gia đình và xã hội, phải làm thật tốt việc nuôi dạy trẻ trong nhà
trường. Trẻ em như Mầm non của giống tốt, giống được ươm đúng kỹ thuật thì
sau này sẽ bội thu, nuôi dạy tốt thì sau này sẽ có một đội quân hùng hậu về mọi
mặt để xây dựng và bảo vệ tổ quốc ta giàu đẹp.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội có vai trò vô cùng quan trọng. Đối
với con người ngôn ngữ vừa là phương tiện để giao tiếp, vừa là phương tiện để
tư duy, đó chính là bản chất của ngôn ngữ. Hoạt động giao tiếp không chỉ được
hiểu đơn giản là quá trình trao đổi, truyền đạt và thu nhận thông tin, mà đó chính
là sự tác động qua lại giữa con người với con người. Nhờ có hoạt động giao tiếp

con người mới có thể lao động tạo ra sản phẩm xã hội. Như vậy có thể nói nếu
không có ngôn ngữ con người không thể lao động chung, không thể có sản phẩm
xã hội và không có xã hội. Như vậy ngôn ngữ là phương tiện hình thành bảo tồn
và phát triển của xã hội loài người.
Ở lứa tuổi Mầm non, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển rất
nhanh. Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành
một thành viên của xã hội. Ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ
nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể hiểu trẻ, chăm sóc
trẻ, giáo dục trẻ và ngược lại ngôn ngữ cũng giúp trẻ hiểu được lời nói của mọi
người để thực hiện các yêu cầu trong quá trình giao tiếp hàng ngày. Ngôn ngữ

1


còn là một trong những điều kiện rất quan trọng giúp trẻ phát triển toàn diện
đồng thời ngôn ngữ cũng góp phần to lớn trong quá trình hình thành nhân cách.
Trẻ 24 – 36 tháng, ngôn ngữ của trẻ phát triển rất mạnh trên các bình diện:
Vốn từ tăng lên rất nhanh, từ vài chục từ lên hàng trăm từ, đây là “Thời kỳ phát
cảm ngôn ngữ”. Do tốc độ phát triển nhanh về ngôn từ, ngữ pháp, giọng
điệu...trẻ dễ vấp phải những tật ngôn ngữ nói như: Nói ngọng, nói lắp...nên rất
ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý, thái độ của trẻ. Trong xã hội hiện nay, nhiều
gia đình bố mẹ còn bận mải lo làm ăn ít quan tâm đến nhu cầu gắn bó của trẻ.
Nó thể hiện mối quan hệ, nếu trẻ không được đối xử tốt trẻ sẽ ngại giao tiếp mà
giao tiếp với người lớn là điều kiện quyết định để trẻ lớn lên và trưởng thành
Xác định được ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển toàn diện của trẻ như vậy nên tôi rất băn khoăn trăn trở, làm thế nào để lựa
chọn được nội dung, lựa chọn được phương pháp phát triển ngôn ngữ trẻ đúng
lúc và phù hợp với lứa tuổi, làm thế nào để giúp trẻ tăng thêm vốn từ, hiểu được
nghĩa của từ, làm thế nào để giúp trẻ biết cách sử dụng từ và phát âm chính xác
hơn, chuẩn hơn. Thực tế trẻ ở lớp tôi vốn từ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ còn

nói ngọng, phát âm chưa chuẩn. Do đó việc phát triển làm giàu vốn từ cho trẻ,
dạy trẻ nói năng lưu loát, phát âm đúng có kĩ năng trả lời một số câu hỏi, hiểu
được yêu cầu đơn giản bằng lời nói là một điều rất quan trọng. Là giáo viên chủ
nhiệm nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi, nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực
phát triển ngôn ngữ trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ và với tất cả lý do
trên nên tôi quyết định chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 24 - 36 tháng trường Mầm non Nga Văn – Nga Sơn ” với mong muốn góp
sức nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng toàn diện cho trẻ.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm nâng cao chất lượng trong lĩnh vực giáo dục phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi.
- Trẻ nghe và hiểu lời nói trong giao tiếp. Có khả năng diễn đạt bằng lời nói
rõ ràng mạch lạc, mạnh dạn, tự tin.
- Phát triển vốn từ, mở rộng vốn từ cho trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Trẻ 24 -36 tháng tuổi lớp A2 Trường mầm non Nga văn

2


4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp trực quan minh họa
- Phương pháp trò chuyện với trẻ
- Phương pháp nêu gương khích lệ
- Phương pháp thực hành trải nghiệm
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Để nâng cao việc phát triển toàn diện cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi, nhất là về
lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. Năm học 2016 - 2017 tôi nghiên cứu và phát triển

sáng kiến cùng chủ đề năm 2014
- Mới về phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
- Các giải pháp
II. NỘI DUNG
1 Cơ sở lý luận
Trẻ từ 24- 36 tháng tuổi hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật nhờ đồ
vật này mà trẻ khám phá ra các thuộc tính, nắm được chức năng và phương thức
sử dụng đồ vật “Theo kiểu người lớn”có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của
trẻ. Trong quá trình giao tiếp với người lớn, những tiền đề đầu tiên của ngôn ngữ
xuất hiện và trẻ bắt đầu hiểu được lời nói của người lớn và phát âm được những
từ đầu tiên. Trẻ tiếp xúc với thế giới bên ngoài một cách độc lập tự do hơn, thay
đổi cả hình thức giao tiếp với người lớn. Thế giới đồ vật đã trở thành đối tượng
nhận thức của trẻ, nhu cầu nhận thức tò mò, ham hiểu biết được phát triển hết
sức mạnh mẽ.
- Nghe hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói. [1]
- Biết hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản bằng lời nói, cử chỉ [1]
- Sử dụng lời nói để giao tiếp diển đạt nhu cầu. [1]
- Có khả năng cảm nhận vần điệu, nhịp điệu của câu thơ và ngữ điệu của
lời nói. [1]
- Hồn nhiên trong giao tiếp [1]
- Nghe các âm thanh của các đồ vật, con vật hoặc hiện tượng thiên nhiên [2]
- Bắt chước các âm thanh đó [2]

3


- Thực hiện yêu cầu theo lời nói và biết hành động theo lời nói [2]
- Trò chuyện với trẻ bằng ngôn ngữ đối thoại giữa cô với trẻ [2]
Theo tôi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung, trẻ 24 - 36

tháng tuổi nói riêng chúng ta cần dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lí trẻ:
- Dựa vào đặc điểm phát triển sinh lí: [3]
Trong sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn bắt đầu của
ngôn ngữ chủ động. Do vậy trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc một
số hạn chế: Phát âm chưa chính xác, hay nói ngọng chữ n - l, chữ x - s, dấu ngã dấu sắc, dấu hỏi - dấu nặng. Đồng thời do kinh nghiệm còn ít ỏi nên trẻ còn
nhầm lẫn, khi tri giác chủ yếu dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói.
- Dựa vào đặc điểm phát triển tâm lí: [3]
Trẻ thích giao tiếp với người xung quanh và có nhu cầu bằng trực quan, cần
giải đáp thắc mắc mà trẻ gặp phải. Trẻ thích được người lớn khen, động viên kịp
thời, thích đồ chơi sặc sỡ về màu sắc và có âm thanh, trẻ rất thích bắt chước
người lớn và hay đặt ra câu hỏi. Để giúp trẻ giải đáp được những câu hỏi hàng
ngày thì người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ một cách ngắn gọn dễ nghe,
dễ hiểu mặt khác người lớn cần cung cấp thêm kiến thức và thông tin cho trẻ về
thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc.
Từ chỗ nắm được đặc điểm tâm sinh lý độ tuổi, đặc điểm phát triển vốn từ
của trẻ và xác định được nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở độ tuổi
nhà trẻ là: Nghe, nói, làm quen với sách nên tôi nghĩ phải xây dựng được các
hoạt phát triển ngôn ngữ cho trẻ bởi xây dựng được các hoạt động phát triển
ngôn ngữ là một yếu tố vô cùng quan trọng, vì thông qua các hoạt động trong
ngày trẻ được học tập vui chơi, cũng chính thông qua hoạt động học tập, vui
chơi này trẻ sẽ có nhiều cơ hội được giao tiếp, được trò chuyện, được nói lên
suy nghĩ bằng chính ngôn ngữ của mình từ đó sẽ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
một cách tự nhiên nhất, thuận lợi nhất và dễ dàng nhất.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở đội tuổi 24 - 36 tháng tuổi là phát triển khả
năng: Nghe - Nói - Làm quen với sách vì vậy cần giúp trẻ khả năng nghe hiểu,
khả năng nói và trình bày lời nói của mình có lôgic, đúng nội dung, mạnh dạn tự
tin giao tiếp trước mọi người tôi nghĩ chúng ta cần thực hiện được các yêu cầu
sau:
+ “Làm giàu vốn từ cho trẻ” thông qua học tập vui chơi và các hoạt động
khác.


4


+ “Xác định nội dung nói”. Điều này sẽ giúp cho lời nói của trẻ có nội dung
rõ ràng.
+ “Lựa chọn từ”: Sau khi đã lựa chọn nội dung thì cần phải lựa chọn từ
chính xác để diễn đạt nội dung cần nói.
+ Diễn đạt nội dung nói: Giúp trẻ biết cách nói ngưng nghỉ đúng lúc, luyện
cho trẻ tác phong khi nói, mạnh dạn tự tin khi diễn đạt nội dung cần nói.
+ Sắp xếp cấu trúc lời nói: Sự liên kết các câu nói lại thành với nhau tạo
thành chuỗi lời nói có mục đích nhằm diến tả một ý trọn vẹn, có nội dung giúp
người nghe dễ hiểu.
Là một giáo viên trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ tôi đã chú trọng đến
nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ lên hàng đầu, bởi ngôn ngữ chính là
phương tiện để trẻ tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh một cách dễ dàng
và hiệu quả nhất.
2.Thực trạng
a. Thuận lợi
- Trường Mầm non Nga Văn huyện Nga Sơn là trường đạt chuẩn Quốc gia

mức độ I, theo Quyết định số 36 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Về cơ sở vật chất
có đầy đủ phòng học và một số phòng chức năng rộng rãi, khang trang, có các
khu vườn cổ tích, vườn rau…có khuôn viên sư phạm xanh - sạch - đẹp, có đồ
chơi ngoài trời đạt từ 5 loại trở lên. Nhà trường luôn đầu tư mua sắm đầy đủ
trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi để phục vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
trẻ; có bề dầy thành tích, nhiều năm liền được UBND huyện, UBND tỉnh và Sở
Giáo dục Thanh Hóa khen thưởng.
Ban giám hiệu luôn luôn chăm lo đến chất lượng giáo dục, chỉ đạo sát sao
công tác thi đua “Dạy tốt, học tốt” tới từng giáo viên.

- Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình, đạt trình độ chuyên
môn từ chuẩn và trên chuẩn, năng động có nhiều sáng tạo trong việc tổ chức các
hoạt động cho trẻ. Bản thân tôi là một giáo viên đạt trình độ chuyên môn trên
chuẩn (Đại học Sư phạm Mầm non), có niềm đam mê với công tác chăm sóc
giáo dục trẻ, điều đặc biệt tôi có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo
dục trẻ 24- 36 tháng tuổi, rõ nét nhất vẫn là phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36
tháng tuổi. Tôi luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Phòng giáo
dục và đào tạo, sự ủng hộ giúp đỡ của tập thể cán bộ, giáo viên nhà trường; sự
quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt của các cấp ủy Đảng chính quyền địa phương

5


và nhất là các bậc cha mẹ học sinh, tạo điều kiện về kinh phí cũng như đồ dùng,
đồ chơi, nhất là đồ dùng phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trên thực tế giáo dục lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ trường mầm non
có nhiều đầu tư về nâng cao phương pháp và thay đổi hình thức vì thế khi thực
hiện đề tài này. Tôi được nhà trường phân công trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ
ở độ tuổi 24- 36 tháng, có nhiều kinh nghiệm nuôi dạy trẻ, với kinh nghiệm làm
mẹ đã giúp tôi thuận lợi trong công việc hơn. Bản thân tôi cũng nhận được sự
động viên giúp đỡ của Ban giáp hiệu nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, sự ủng hộ
của gia đình, phụ huynh, đặc biệt là tình cảm yêu quý của các bé dành cho tôi.
Vì thế các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ thực hiện rất đều đặn và thường
xuyên thông qua các hoạt động làm quen với tác phẩm văn học như đọc thơ, kể
chuyện, nhận biết. Công tác phát triển ngôn ngữ đạt được đáng kể
- Tỷ lệ huy động trẻ đến trường rất cao nhà trẻ đạt 56 % được học ở các
nhóm lớp đúng độ tuổi theo quy định. Trẻ lớp tôi rất thích tham gia vào các hoạt
động đặc biệt là phát triển ngôn ngữ
- Đối với các bậc phụ huynh, cũng đã nhận thức đúng đắn về mục đích, ý
nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của việc đưa con, em đến trường Mầm non. Vì

vậy mà tỷ lệ trẻ chuyên cần ngày càng cao hơn
b. Khó khăn
- Nhà trường mặc dù đã đạt chuẩn quốc gia nhưng về cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đồ dùng, đồ chơi để đáp ứng theo yêu cầu của chương trình giáo dục
Mầm non và theo thông tư 02 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì vẫn chưa đảm bảo
Qua một thời gian dự giờ, quan sát thực tiễn, tôi thấy một số giáo viên chưa
có nhiều sáng tạo trong thay đổi hình thức, cánh thức lên lớp đang còn rập
khuôn đồng điệu, thực tế chưa có nhiều đầu tư suy nghĩ vào dạy học. Còn một
số hoạt động dạy tổ chức, đơn giản, kém hấp dẫn. Sử dụng đồ dùng đồ chơi
chưa sáng tạo, một số giáo viên chưa biết sử dụng giáo án điện tử vào hoạt động
dạy vì thế khi tổ chức một hoạt động dạy chưa thu hút được trẻ vào hoạt động
tích cực.
Trí nhớ và khả năng nghe, hiểu của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết hết khối
lượng các âm tiếp thu cũng như trật tự các từ trong câu vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt
âm khi nói.
- Nga Văn là xã đồng màu công việc bận rộn quanh năm cho nên bố mẹ
không có nhiều điều kiện thời gian chăm sóc con. Cũng do điều kiện đặc thù của
địa phương có rất nhiều phụ huynh phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông làm cho
6


trẻ học theo. Vì thế nó ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình phát triển ở trẻ trong
các hoạt động học. Đặc điểm của trẻ là tư duy trực quan hành động nên dạy trẻ
nói và làm đi liền với nhau, cha mẹ trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, có ít kiến
thức trong việc nuôi dạy con theo khoa học (như dạy con chơi với đồ vật, dạy
con phát âm chuẩn, tình cảm vói con ....)
* Kết quả của thực trạng
Để nắm bắt được mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ cũng như có cơ sở lựa
chọn được những giải pháp phù hợp trong quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
tôi đã tiến hành đánh giá trẻ và kết quả ban đầu như sau:

Tổng
số trẻ

27

Kết quả trên trẻ

Nội dung
đánh giá

Đạt

Chưa đạt

Khả năng nghe, hiểu lời
nói của người khác

19 = 70 %

8=30%

Khả năng phát âm đúng
từ.

18 = 67 %

9 = 33%

Khả năng diễn đạt ngôn
ngữ giao tiếp


14 = 52 %

13=48%

Từ kết quả thực tế đạt được trên đây. Là một giáo viên Mầm non, trong
những năm qua tôi luôn băn khoăn, trăn trở với chất lượng của cháu mình. Vì
vậy tôi đã đi sâu vào nghiên cứu, tham khảo và tìm ra các giải pháp làm thế nào
để giáo dục phát triển ngôn ngữ ở trẻ đạt kết quả tốt nhất tôi mạnh dạn đưa ra
những biện pháp để tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ cụ thể như
sau.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Biết được đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp tác động
phù hợp cũng là một trong các yếu tố quyết định cho sự thành công của mình:
3.1. Giải pháp 1: Giáo viên tự học tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Thông qua việc nắm chắc các phương pháp dạy các hoạt động “ Lĩnh vực
phát triển ngôn ngữ” nói riêng. Bản thân tôi luôn tham khảo học hỏi thêm
nhiều tài liệu như “Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non

7


của các năm học”. “Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm
non nhà trẻ 3 – 36 tháng tuổi”, của nhà xuất bản giáo dục Việt nam. “Các tạp chí
Giáo dục Mầm non” của Bộ Giáo dục và đào tạo. Qua sách báo trên mạng
intenet và kinh nghiệm của các đồng nghiệp, qua các giờ dạy mẫu tại trường
mình và trường bạn qua các lớp chuyên đề do nhà trường và phòng giáo dục tổ
chức hàng năm.
- Tôi thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư bài soạn để hoạt

động phát triển ngôn ngữ cho trẻ trở nên sinh động, hấp dẫn, thu hút sự chú ý
của trẻ.
- Mỗi khi rảnh rỗi tôi luôn dành thời gian lên mạng internet vào trang
“giaoanmamnon.com” để xem các tiết dạy hay về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ
cho trẻ của giáo viên mầm non trên cả nước từ đó tích lũy kinh nghiệm cho bản
thân. Sau khi học tập được tôi ghi luôn vào cuốn nhật ký để tham khảo và học
hỏi thêm
Vì vậy tôi đi sâu nghiên cứu tài liệu cuốn chương trình giáo dục mầm non
để lên kế hoạch cụ thể các đề tài phù hợp với từng chủ đề, phù hợp với nhận
thức của trẻ ở lớp tôi
* Kết quả: Thông qua nghiên cứu tài liệu, học hỏi đồng nghiệp trong và
ngoài trường tôi đã rút ra bài học cho bản thân. Khi tổ chức hoạt động cho trẻ
phát triển ngôn ngữ tôi thường đưa ra các hình thức làm phong phú cách thể
hiện nội dung bài dạy để thu hút trẻ hoạt động tích cực qua các hoạt động tích
cực qua các hoạt động đọc thơ, kể chuyện trẻ biết đọc thơ theo cô
3.2.Giải pháp 2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi
tập có chủ định
Qua những tác phẩm văn học, cô phải kể và đọc cho trẻ nghe để trẻ hiểu
được tình tiết của tác phẩm. Cô phải cho trẻ xem tranh, đồ dùng trực quan, thông
qua giọng đọc, giọng kể của cô để trẻ có thể nhận biết được cách sử dụng ngôn
ngữ nghệ thuật.
Ví dụ: Chủ đề “Bé và những người thân yêu của bé” hoạt động văn học.
Vào bài tôi cho trẻ hát bài “Ông cháu”. Tôi hỏi trẻ: Con vừa hát bài hát gì ? Bài
hát nói về ai? Sau đó tôi đọc, kể chuyện thơ “Cháu chào ông ạ! ”cho trẻ nghe
Lần 1: Cô đọc bằng cử chỉ điệu bộ
Lần 2: Cô sử dụng tranh thơ để đọc
Lần 3: Cô sử dụng mô hình

8



Sau đó cô đàm thoại, gợi nhớ để trẻ kể tên các nhân vật trong chuyện và
được ghi nhớ và đọc lại. Cô phải sửa sai từ ngọng như: “Nhỏ xíu, lông
vàng”.Qua tác phẩm còn giáo dục trẻ lễ phép với người lớn.

Hình 1: Tranh thơ “Cháu chào ông ạ”
Ngoài ra cô hướng dẫn trẻ sắc thái, biểu cảm của nhân vật trong tác phẩm
Qua các bước tiến hành trên tôi nhận thấy trẻ rất là hứng thú 18/27 trẻ đọc
rõ lời và trả lời câu hỏi của cô
*Kể truyện theo tranh.
- Trò chuyện về bức tranh
- Trước tiên tôi để vài phút cho trẻ tự xem tranh, tự trò chuyện với nhau về
bức tranh.
- Tôi hướng dẫn trẻ xem tranh và hướng dẫn trẻ giở sách. Sau đó đặt các
câu hỏi về nhân vật, hành động đặc điểm, trạng thái của nhân vật.
Ví dụ:
+ Ai đây? Con gì đây? Cái gì đây? Màu gì?
+ Đang làm gì? Như thế nào? Để làm gì?
+ Có những ai? Có những cái gì?

9


+ Hãy làm giống ai đó?
- Xen kẽ các câu hỏi cho từng trẻ với các câu hỏi đồng thanh cho cả nhóm
trả lời.
- Để trẻ hiểu rõ hơn các hình ảnh và gọi tên các nhân vật, hành động của
các nhân vật trong tranh, khi cho trẻ xem tranh tôi đã phối hợp các thủ thuật
khác nhau như: Nói mẫu, nhắc lại, giảng giảí, khen ngợi trẻ, cho trẻ nói và bắt
chước lại các hành động của các nhân vật trong tranh để phát triển ngôn ngữ cho

trẻ
Kết quả: Trong tất cả các hoạt động tôi luôn luôn gợi mở, hướng lái, linh
hoạt giúp trẻ trải nghiệm, tìm tòi, khám phá bằng nhiều hình thức, nhiều cách
khác nhau để trẻ được lĩnh hội kiến thức một cách chủ động nhất, tích cực nhất,
giúp cho quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ ngày một tốt hơn.
3.3 Giải pháp 3.Tích hợp phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động
có chủ định khác mà có nội dung phù hợp
Tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động với đồ vật một cách tích cực. Cô nói
tên đồ vật cho trẻ biết và trẻ nói tên các đồ vật đó, giúp trẻ rèn luyện ngôn ngữ
Ví d ụ: “Đây là cái gì?” – “Đây là các con giống, dây xâu”
“ Con đang xâu gì đấy” – “Xâu các con giống”
“Con xâu như thế nào” – “Xâu hai màu xanh đỏ xen kẽ nhau”
Qua câu hỏi của cô giúp trẻ hiểu được lời nói và hình thành được ngôn ngữ
tích cực điều đó giúp trẻ phát triển tư duy

10


Hình 2: Hoạt động với đồ vật
Ở lứa tuổi này trẻ thường hay trả lời trống không hoặc nói những câu
không có nghĩa vì vậy tôi luôn thường xuyên nhắc nhở trẻ và nói mẫu cho trẻ
nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại theo cô. Tôi tạo điều kiện đáp ứng
nhu cầu của trẻ một cách tỉ mỉ, chu đáo, ngắn ngọn dễ hiểu, chính xác để mọi
hoạt động của trẻ trong giờ hoạt đông chung đạt hiệu quả nhất.
Ví dụ: Ở chủ đề “Cây rau, quả và những bông hoa đẹp” Với giờ hoạt động
có chủ định:
*Khi dạy trẻ nhận biết: Mục đích chính là cho trẻ nhận biết về môi trường
xung quanh trẻ: con người, các sự vật hiện tượng, đồ vật… trên cơ sở nhận biết
sẽ dùng lời nói để diễn đạt ý nghĩ của mình nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
đồng thời khi nghe trẻ nói cô cũng biết được mức độ phát âm của trẻ để có biện

pháp sửa sai cho trẻ.
Cụ thể: Nhận biết: “Quả cam, quả táo.”
Sau khi giáo án được soạn đầy đủ, tôi chuẩn bị các loại quả thật, xây dựng
mô hình vườn cây ăn quả, và chuẩn bị các lô tô về các loại quả để chuẩn bị cho
trẻ hoạt động đạt được kết quả tốt nhất.
Để gây hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ hát bài “Đố quả” trò chuyện một chút
về chủ đề đang thực hiện, tôi cho trẻ đi thăm mô hình vườn cây ăn quả tôi cùng
trẻ trò chuyện bằng hình thức đặt câu hỏi gợi mở, khuyến khích trẻ trả lời, để trẻ
có cảm giác được đi thăm quan vườn cây chứ không phải là trẻ bị gò ép học bài.
- Đây là vườn cây gì?
- Ai đã trồng ra vườn cây ăn quả này?
- Trong vườn có những loại cây ăn quả nào?
- Cô chỉ vào từng loại cây và hỏi trẻ cây gì? Quả có màu gì?…
=>Mỗi câu hỏi tôi cho một vài trẻ trả lời sau đó cho cả lớp được nhắc lại.
Tôi chú ý sửa sai và khuyến khích trẻ nhắc lại. (trẻ nói “Cả táo”cô sửa lại “Quả
táo”,”Quả hế” cô sửa lại “Quả Khế” và cho cả lớp cùng nhắc lại.
* Kết quả: Thông qua hoạt động chơi tập có chủ định đã tạo điều kiện rất
lớn cho trẻ phát triển ngôn ngữ .Trẻ được phát âm, tập nói từ ngữ câu đúng ngữ
pháp mang tính biểu cảm giúp cho ngôn ngữ trẻ mạch lạc và chính xác hơn
3.4.Giải pháp 4: Phát triển ngôn ngữ ở mọi lúc mọi nơi
Để phát triển tốt ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả, ngoài những hoạt
động có chủ định tôi còn dạy trẻ thông qua các hoạt động khác:
11


* Thông qua giờ đón trẻ. Tôi đón trẻ với cử chỉ yêu thương và gần gũi.
- Con chào cô và các bạn nào?
- Con chào mẹ rồi vào lớp với cô, chiều mẹ đến đón con.
- Hôm nay ai đưa con đi học?
- Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì?

- Sáng nay con được mẹ cho ăn gì?
Sau khi đón trẻ xong tôi cho trẻ về các góc chơi mà trẻ thích, trẻ được chơi
tự do, trẻ có thể quan sát các bức tranh xung quanh lớp theo chủ đề đang học và
tự mình khám phá. Trẻ có thể trò chuyện cùng cô và các bạn về bức tranh mà trẻ
thấy (tôi chú ý quan sát để nắm được tâm tư nguyện vong của trẻ sau đó nhằm
thỏa mãn nhu cầu tò mò ham học hỏi của trẻ). Từ đó trẻ sẽ được nói nhiều và
ngôn ngữ của trẻ cũng sẽ phát triển theo hướng tích cực.
*Phát triển ngôn ngữ thông qua dạo chơi ngoài trời
Dạo chơi ngoài trời có tác dụng rất lớn đối với các việc mở rộng tầm hiểu
biết cho trẻ. Vì vậy dạo chơi ngoài trời có tác dụng to lớn trong việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các hiện tượng tự nhiên: Trẻ biết thế nào là
mưa, là nắng, là gió, hiểu biết và phân biệt được cây cỏ, hoa lá, các con vật, đồ
vật...nhận thức của trẻ được phát triển, từ chỗ nhận thức của trẻ phát triển thì
nhu cầu được nói, được trò chuyện nhiều hơn, ngôn ngữ của trẻ sẽ phát triển và
chính xác hóa dần
* Thông qua hoạt động góc.
+ Thông qua hoạt động góc “Thao tác vai” không những trẻ được thao tác
với đồ vật mà còn được giao lưu với đồ vật. Trên cơ sở các trò chơi, thì các biểu
tượng mà trẻ thu nhận được trước đây ngày càng được chính xác hóa bằng ngôn
ngữ.
Qua trò chơi trẻ còn giao tiếp với bạn bè. Khi chơi trẻ tập trung vận dụng
các tri thức đã thu nhận được. Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngôn ngữ. Đồng thời tạo
ra các tình huống để trẻ sử dụng vốn ngôn ngữ đã tích lũy được vì vậy khi tổ
chức cho trẻ hoạt động góc tôi luôn tạo điều kiện cho trẻ được trò chuyện, trao
đổi, khám phá trải nghiệm bằng nhiều hình thức để trẻ có nhiều cơ hội phát triển
ngôn ngữ.

12



Ví dụ: Trẻ chơi trò chơi “bế em” trẻ bế búp bê, trẻ biết ru em ngủ, cho em
ăn ...khi ru ngủ trẻ vỗ về “Em ngủ nào”, ru em à ơi. Khi cho trẻ ăn trẻ nói “Chị
cho em ăn nhé”, “Em ăn ngoan nào”
Thông qua trò chơi “Người bán hàng” trẻ được giao lưu với bạn. Trẻ có
thể hỏi “Bác mua gì ạ ?”- “Tôi mua rau cải bắp ạ!”
Trò chơi dân gian như: “Nu na nu nống”,” Tập tầm vông”…trẻ được tự
mình nói và đóng vai các nhân vật.

Hình 3: Bé chơi bán hàng- Góc chơi thao tác
Muốn trẻ chơi thành thạo, biết giao tiếp với bạn, tôi luôn hòa nhập, đóng
vai chơi cùng với trẻ để hướng dẫn trẻ chơi, gợi ý để trẻ trả lời, tạo điều kiện cho
trẻ giao tiếp với bạn chơi, tạo ra những tình huống chơi để trẻ tập xử lý
+ Trò chuyện với trẻ qua góc “Bé xem tranh, truyện”: Tôi đã tạo môi
trường gây nhiều sự chú ý, hấp dẫn cho trẻ. Trẻ xem album, xem tranh truyện.
Khi trẻ hoạt động trẻ được gọi tên, nói đặc điểm, đặc trưng của các sự vật, hiện
tượng và trẻ cùng trò chuyện về các con vật nuôi gần gũi trong gia đình như:
13


Ví dụ: “Đây là con gì ? “Đây là con gà”
“Con gà trống có gì đây”- Cái mào con gà trống”
Tiếng kêu của chúng như thế nào? Chúng ăn gì?, Chúng được nuôi để làm
gì? Chúng có mấy chân, Lông của chúng như thế nào?...) .

Hình 4: Góc bé xem sách tranh
Muốn trẻ hoạt động tốt ở góc này, trẻ phải được quan sát đối tượng thì trẻ
mới đưa ra được những từ ngữ chính xác về đối tượng đó.
* Kết quả: Thông qua các góc chơi không những trẻ thao tác, hoạt động
với các đồ vật mà trẻ còn thể hiện ngôn ngữ của mình qua giao tiếp với đồ vật và

bạn chơi giúp vốn từ của trẻ phát triển, câu nói được chính xác hơn
* Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động ăn, ngủ
Ngoài các giờ hoạt động có chủ định, giờ hoạt động ngoài trời, giờ hoạt
động góc… Trẻ còn có hoạt động ăn, ngủ. Ở những hoạt động này tôi đã dạy nói
thêm cho trẻ. Trong khi giúp trẻ tiến hành các công việc hàng ngày. Tôi lựa chọn
những nội dung thích hợp và nói tên các công việc đó cho trẻ biết.
14


Ví dụ: + Ở giờ ăn cô cho trẻ làm quen với tên gọi của các món ăn, các loại
thực phẩm (thịt, cá, trứng, đậu, rau...) bằng cách nói chuyện về thức ăn mà trẻ
đang ăn như: “Con ăn món gì? Thức ăn gì? Có thích ăn món ăn này không?
Thức ăn đã có lợi gì cho sức khỏe?...” Đồng thời chú ý dạy trẻ biết cảm ơn khi
được cô hoặc các bạn giúp đỡ hoặc biết xin lỗi khi mắc một khuyết điểm sai sót
nào đó.
+ Ở giờ ngủ: Khi trẻ lên giường ngủ tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ”
- Khi ngủ tôi hát ru nhằm kích thích trẻ nghe, cảm nhận âm điệu, nhịp điệu
của bài hát. Những bài hát ru trẻ hát nhẩm theo cô? và cô cũng có thể mở băng
đĩa hát ru cho trẻ nghe... để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
* Kết quả: Việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng tuổi là
một nhiệm vụ cơ bản và thiết thực. Vì vậy tôi đã tận dụng mọi hình thức dạy nói
cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Và tôi đã làm điều đó
cho trẻ của lớp mình.
3.5 .Giải pháp 5: Xây dựng môi trường giáo dục kích thích trẻ phát
triển ngôn ngữ
Trước hết tôi xác định rằng: Tổ chức tốt môi trường và sử dụng tốt môi
trường giáo dục để phát triển ngôn ngữ cho trẻ chính là:
- Môi trường hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cần đảm bảo phù hợp
với chủ đề, với nhận thức của trẻ, không khí thân thiện, đầm ấm, vui vẻ thoải
mái.

*Môi trường trong lớp
+ Để tạo môi trường phát triển ngôn ngữ tốt giúp quá trình hướng dẫn và tổ
chức các hoạt động của giáo viên kích thích trẻ được nghe, được bắt chước,
được nói và sử dụng từ ngữ thật chính xác thì cần phải có trang thiết bị đồ dùng
đồ chơi phong phú, hấp dẫn, nhiều màu sắc cuốn hút trẻ, các đồ dùng trực qua
sinh động ... Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch hoạt động cụ
thể cho từng hoạt động, từ đó lên kế hoạch làm, mua sắm đồ dùng đồ chơi phục
vụ cho từng chủ đề của năm học
Ví dụ: Để có đồ dùng dạy trẻ phát triển ngôn ngữ, ngoài việc sưu tầm các
nguyên vật liệu sẵn có từ phế thải tôi tận dụng làm thành các đồ chơi như giỏ
hoa, con gà, con vịt...và các loại đồ chơi cần có sự chính xác về hình dạng, kích
thước, màu sắc như các loại hoa quả, hoa, lá ...Các con vật tôm, cua, cá...các
hình khối đồ dùng nấu ăn, đồ dùng gia đình...các loại tranh nhận biết tập nói,
tranh chủ đề ...
15


Hình 5: Hội thi đồ dùng đồ chơi
Mặt khác trẻ ở độ tuổi nhà trẻ, tư duy của trẻ là tư duy trực quan sinh
động. Khả năng tri giác về các sự vật, hiện tượng thông qua sử dụng vật thật, đồ
dùng đồ chơi, tranh ảnh...Qua đó trẻ được tiếp xúc trực tiếp, được nhìn, quan sát
để giúp trẻ hình thành và phát triển vốn từ. Vì thế lớp học phải được trang trí
phù hợp, các góc sắp xếp bố trí đồ chơi phải tăng cường tính độc lập cho trẻ khi
hoạt động, thuận tiện cho trẻ dễ thấy dễ lấy và dễ sử dụng; dễ dàng cho việc
giám sát của giáo viên.
* Môi trường ngoài lớp
Bên cạnh môi trường trong lớp, môi trường ngoài lớp cũng rất quan trọng
và cần thiết đối với trẻ. Vì trẻ lứa tuổi này trẻ chưa biết đọc mà trẻ nhìn bằng
hình ảnh là chủ yếu nên tôi xây dựng góc tuyên truyền phụ huynh bằng các hình
ảnh cụ thể, trên các mảng tường vẽ những hình ảnh gần giũ với trẻ để giúp trẻ

phát triển ngôn ngữ. Môi trường thiên nhiên xung quanh trẻ như vườn rau, vườn
hoa, vườn cây xanh, cây ăn quả ...Đồ chơi ngoài trời như đu quay, cầu trượt, bập
bênh khi trẻ ngồi lên chơi tôi hỏi trẻ con đang cưỡi con gì? Trẻ trả lời “Con
dịp”tôi kịp thời sửa ngay cho trẻ “Con vịt”. Môi trường bên ngoài. Đó là cơ sở
vật chất rất quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm
non nói chung và cho trẻ nhóm 24 -36 tháng nói riêng. Môi trường thiên nhiên
phong phú để học tập và phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất
16


Hình 6: Môi trường ngoài lớp
* Kết quả: Xây dựng môi trường giáo dục nói chung, môi trường giáo dục
ngôn ngữ nói riêng, đồng thời tôi đã sử dụng có hiệu quả môi trường đó vào quá
trình chăm sóc giáo dục trẻ và đạt hiệu quả cao
3.6. Giải pháp 6: Phối hợp với các bậc phụ huynh giúp ngôn ngữ của
trẻ phát triển
Gia đình là nơi gần gũi và quan trọng nhất đối với trẻ, vì thế công tác giáo
dục phối hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp quan trọng góp phần
nâng cao hoạt động phát triển ở trẻ đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho
trẻ . Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt tôi đã:
- Làm bảng tin về chương trình dạy theo chủ đề nói chung, ngôn ngữ nói
riêng và thay tin hàng tuần để phụ huynh biết và phối hợp với tôi để rèn luyện
thêm cho trẻ ở nhà.
- Trao đổi thêm với phụ huynh có cháu cá biệt: Nói ngọng, ít nói, để phụ
huynh phối kết hợp cùng tôi trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ
được tốt hơn.

17



Hình 7: Bảng tuyên truyền với phụ huynh
- Tôi phô tô thêm các tài liệu: Thơ, truyện, bài hát… treo ở góc trao đổi phụ
huynh để phụ huynh nắm bắt được chương trình, kết hợp dạy trẻ ở gia đình, như
vậy sẽ tận dụng được thời gian dạy trẻ, ngôn ngữ trẻ được phát triển tốt hơn.
* Kết quả: Sau khi phối kết hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vốn
từ của trẻ được phát triển khá rõ, đặc biệt là việc nói ngọng cũng giảm đi đáng
kể, trẻ phát âm chuẩn, nói rõ ràng trẻ hoạt động một cách sôi nổi tự tin, giao tiếp
trước mọi người không còn rụt rè e sợ. Tôi thấy thực hiện được biện pháp này là
khoa học và hợp lý mang lại hiệu quả rất cao.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp, nhà trường
Sau một năm áp dụng các giải pháp trên, tôi tiến hành đánh giá kiểm
nghiệm về hiệu quả khi tiến hành các giải pháp.Tôi nhận thấy những kết quả đạt
được đó là:
- Khả năng nghe, hiểu của trẻ tốt hơn
- Phát âm của trẻ đúng và chính xác hơn
- Trẻ mạnh dạn tự tin và hăng hái tham gia vào các hoạt động chủ động hơn.
- Nhận biết của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ phát triển đúng đắn, vốn từ của
trẻ phong phú. Trẻ nói được nhiều câu có nhiều từ, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng
mạch lạc, trẻ nói ngọng chiếm tỉ lệ thấp.

18


- Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm đạt được như sau:
Tổng
số trẻ

27


Kết quả trên trẻ
Nội dung đánh giá

Đạt

Chưa đạt

Khả năng nghe, hiểu lời nói
của người khác

26= 96%

1=4%

Khả năng phát âm đúng từ

26 = 94 %

1=4%

Khả năng diễn đạt ngôn ngữ
giao tiếp

25 = 92 %

2=8%

* Đối với bản thân:
Để có được kết quả như trên là cả một quá trình phấn đấu với lòng nhiệt
tình, yêu thương trẻ, trẻ có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho

mình cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ thể hiện được
tình cảm âu yếm, thân ái, lịch sự, lựa chọn được các giải pháp phù hợp với trẻ và
sau khi áp dụng điều đó tôi thấy rằng trẻ lớp tôi đã tiến bộ rất nhiều về lĩnh vực
phát triển ngôn ngữ.
* Đối với đống nghiệp: Sáng kiến được đồng nghiệp sử dụng để tham
khảo, trao đổi, ứng dụng cho bản thân họ.
* Đối với nhà trường:
Qua mỗi lần khảo sát trên trẻ ban giám hiệu đánh giá tốt và sáng kiến kinh
nghiệm được đưa ra để làm mẫu cho đồng nghiệp tham khảo.
III . KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để phát huy được hiệu quả lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi 24
-36 tháng tuổi
Trong quá trình thực hiện tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau:
Để phát triển toàn diện về mặt ngôn ngữ thì nhiệm vụ của người giáo viên là:
1. Trước hết người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa
tuổi để có giải pháp dạy trẻ phù hợp
2. Xây dựng được kế hoạch phát triển ngôn ngữ ở tất cả hoạt động để chủ
động thực hiện
3. Xây dựng được môi trường hoạt động phù hợp và sử dụng có hiệu quả
môi trường đã xây dựng
4. Tạo môi trường giao lưu ngôn ngữ tự do, thoải mái. Tạo cơ hội cho trẻ
nghe âm thanh khác nhau từ môi trường xung quanh.
19


5.Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, khích lệ động viên, thu hút trẻ trò
chuyện với giáo viên, với các bạn và với những người khác .
6. Hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học lứa tuổi và phù hợp với
khả năng của trẻ.

7. Tôn trọng khuyến khích sự sáng tạo của trẻ khi sử dụng lời nói, câu, từ.
8. Quan sát đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của từng trẻ để lên kế hoạch
phù hợp với khả năng của trẻ trong lớp.
9. Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ, từ đó có biện pháp
thích hợp để giúp đỡ trẻ.
2. Kiến nghị .
* Đối với BGH nhà trường.
- Thường xuyên cho giáo viên dự giờ rút kinh nghiệm .
- Cung cấp các tài liệu, tạp chí, tập san, những kinh nghiệm hay cho giáo viên.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân nghiên cứu“Một số
giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi lớp A2 trường Mầm
non Nga Văn – Nga Sơn ” mà tôi đã rút ra từ trong quá trình giảng dạy
nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Những gì đạt được còn rất khiêm tốn và
mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp theo. Rất mong nhận được sự góp
ý, nhận xét của hội đồng khoa học ngành để bản thân có được những kinh
nhiệm quý báu. Giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng ở
trường được tốt hơn trong những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN

Nga Văn ngày 2 tháng 4 năm

2017
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh
nghiệm là của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.

Trịnh Thị Thức


Mai Thị Hường

TÀI LIỆU THAM KHẢO
20


Để làm bài sáng kiến kinh nghiệm tôi đã sử dụng những tài liệu sau:
1. Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo thông tư số
17/2009/TT – BGDDT ngày 25/7/2009 của Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo.
NXB giáo dục việt nam.
2. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non nhà trẻ (3
-36 tháng tuổi). Nhà XB Giáo dục Việt nam.
3. Tuyển chọn giáo án 24 – 36 tháng lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. Nhà
xuất bản giáo dục Việt nam. Tác giả Nguyễn Thị Hiếu, Nguyễn Minh Thảo.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD &ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả : Mai Thị Hường
Chức vụ và đơn vị công tác : Giáo viên trường mầm non Nga văn

TT
1
2
3


Tên đề tài SKKN
Nâng cao chất lượng cho trẻ
làm quen với văn học – nhóm
24- 36 tháng
Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng
tuổi thông qua giờ kể chuyện
Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng
tuổi ở trường Mầm non Nga
Trung

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A,B hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Phòng giáo
dục- đào tạo


C

2007

Phòng giáo
dục- đào tạo

C

2013

Sở giáo dục
và đào tạo

C

2014

22



×