MỤC LỤC
TT
TIÊU ĐỀ
TRANG
MỤC LỤC
I
MỞ ĐẦU
1-3
1
Lý do chọn đề tài
1-2
2
Mục đích nghiên cứu
2
3
Đối tượng nghiên cứu
2
4
Phương pháp nghiên cứu
2-3
II
NỘI DUNG
3-17
1
Cơ sở lí luận
3-5
2
Thực trạng
5-6
2.1
Thuận lợi
5
2.2
Khó khăn
5-6
2.3
Kết quả khảo sát
3
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
4
III
6
Các giải pháp thực hiện
6-16
Giải pháp 1: Thủ thuật tăng cường cơ sở vật chất,
bổ sung đồ dùng, đồ chơi cho trẻ
Giải pháp 2: Thủ thuật sử dụng câu đố, bài hát,
hình ảnh... để làm giàu vốn hiểu biết cho trẻ về thế
giới xung quanh
Giải pháp 3: Thủ thuật sử dụng thí nghiệm để nâng
cao khả năng phán đoán, suy luận, quan sát, so sánh,
và phân loại ở trẻ
Giải pháp 4: Thủ thuật tổ chức cho trẻ được dạo
chơi tham quan để khắc sâu biểu tượng về sự vật,
hiện tượng
Giải pháp 5: Phối kết hợp giữa nhà trường và phụ
huynh
Hiệu quả đạt được
KẾT LUẬN
Kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
7-8
9-12
12-14
14-16
16
16-17
18
18
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non chiếm một vị trí rất quan trọng,
là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền tảng của quá
trình giáo dục thường xuyên và đặt nền móng ban đầu của việc giáo dục nhân
cách con người mới thật sự khoẻ mạnh, có tấm lòng nhân hậu, yêu quý cái
đẹp, thông minh, ham hiểu biết và giàu trí tưởng tượng, thích tìm tòi khám
phá thế giới xung quanh.
Một trong những nội dung quan trọng của giáo dục trẻ lứa tuổi mầm
non là cho trẻ được trải nghiệm, được khám phá thế giới xung quanh. Thế
giới xung quanh là một thế giới luôn cuốn hút sự chú ý của trẻ, đây là những
cảm nhận đầu tiên trong cuộc sống của trẻ, từ đây mở ra cho trẻ một thế giới
mới, hướng trẻ tiếp cận và lĩnh hội được toàn diện thế giới xung quanh vô
cùng phong phú đó.[1]
Đặc điểm của trẻ độ tuổi mầm non, trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc
tiếp xúc và nhận thức thế giới xung quanh. Trẻ rất say mê với những trò chơi
đuổi bướm, hái hoa… Trẻ thích ngắm nhìn trời đất, nhìn mây bay, nhìn những
giọt mưa rơi tí tách ngoài mái hiên. Những lúc ấy trong đầu trẻ có bao nhiêu
điều thắc mắc như: Tại sao lại có mưa? Mưa từ đâu rơi xuống? Mây từ đâu
bay đến và mây sẽ bay về đâu? Tối mây có đi ngủ như mình không? Cây
xanh có từ đâu? Vì sao cây xanh lại sống được?.....
Cho trẻ khám phá khoa học sẽ mang lại nguồn biểu tượng vô cùng
phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ, thế giới xung quanh
sinh động là vậy, tích cực là vậy, vì thế trẻ luôn có niềm khao khát khám phá,
tìm hiểu về chúng. Mặt khác cho trẻ khám phá khoa học sẽ cung cấp cho trẻ
vốn hiểu biết những gì xung quanh mình, từ môi trường tự nhiên (cỏ, cây,
hoa, lá) đến môi trường xã hội (công việc của mỗi người trong xã hội, mối
quan hệ của con người với nhau)…..Từ đó sẽ là tạo điều kiện hình thành và
phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng nhân ái, tình cảm yêu
thương với người thân, với cuộc sống xung quanh trẻ, biết yêu quý bảo vệ
thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của quê hương đất nước, trân trọng và
giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra.
Hoạt động khám phá khoa học là hoạt động giúp trẻ đi tìm kiếm và khai
thác tất cả những gì diễn ra xung quanh mình trong cuộc sống. Một hoạt động
mà ở đó có cả một sự sáng tạo phát triển và khai thác ở trẻ vốn ngôn ngữ
phong phú, óc tư duy sáng tạo và trí tưởng tượng.
Để đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, cô giáo mầm non giữ một vị
trí, vai trò rất quan trọng đối với trẻ. Người trực tiếp dẫn dắt trẻ, giúp trẻ cảm
nhận và thêm yêu cuộc sống thiên nhiên không ai khác chính là cô giáo. Vì
thế đòi hỏi cô giáo có một trách nhiệm và tinh thần rất cao, phải là người có
tính sáng tạo, luôn tìm tòi khám phá, tích cực trong khi tổ chức các hoạt động
giáo dục cho trẻ. Cô giáo là người quyết định toàn bộ hoạt động sáng tạo của
trẻ, điều khiển sự phát triển của trẻ phù hợp với lứa tuổi. Chính vì thế mối
1
quan hệ của cô và trẻ là mối quan hệ gắn bó, chia sẻ lẫn nhau, không áp đặt
gò ép trẻ. Từ đó phát triển tích cực hoạt động sáng tạo và hình thành ở trẻ một
số phẩm chất đạo đức tốt, biết phân biệt giữa cái đẹp, cái xấu trong sinh hoạt
hàng ngày để từ đó trẻ biết hướng tới cái đẹp và làm theo cái đẹp.
Thực tế hiện nay việc dạy hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5-6
tuổi còn tẻ nhạt, vẫn còn tình trạng giáo viên ngại dạy hay dạy cho qua loa,
không bài bản dẫn đến trẻ chưa có hứng thú học tập, bên cạnh đó hình thức
của cô trong quá trình dạy trẻ chưa phong phú, việc sử dụng những thủ thuật
gây hứng thú khi vào bài của cô chưa có sự đầu tư, sáng tạo. Đứng trước thực
trạng này bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi thấy việc tìm ra
những thủ thuật gây hứng thú cho trẻ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
khám phá khoa học là rất cần thiết. Vì vậy, trong năm học 2016 - 2017 tôi đã
chọn đề tài “Một số thủ thuật gây hứng thú của giáo viên nhằm nâng cao
chất lượng dạy hoạt động Khám phá khoa học cho trẻ 5-6 tuổi ở trường
mầm non Đông Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa”. Để cùng trao đổi
và chia sẻ với các bạn đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ trước đến nay, trong trường mầm non khi dạy trẻ hoạt động Khám
phá khoa học nhiều giáo viên thường chú trọng cho trẻ tìm hiểu bề ngoài của
các đối tượng, đa số trẻ chỉ được hỏi và trả lời, trẻ chỉ được sờ, mó, nếm các
đồ vật, nhưng ít khi trẻ được thí nghiệm hoặc giáo viên ít đưa ra câu hỏi mở
để kích thích sự tìm tòi, khám phá của trẻ. Chính vì vậy trẻ chưa được trải
nghiệm, ít có điều kiện để giải quyết vấn đề mà trẻ dự đoán. Qua nghiên cứu
bản thân tôi muốn đưa ra các biện pháp để trẻ được khám phá thế giới xung
quanh đạt hiệu quả tốt nhất bằng các thủ thuật vào bài gây hứng thú cho trẻ.
Thông qua hoạt động khám phá khoa học trẻ thực sự làm chủ những gì
trẻ biết tức là trẻ biết vận dụng những kinh nghiệm hiểu biết về cuộc sống
xung quanh để thực hiện nhu cầu của mình giúp trẻ hiểu được phần nào về
cuộc sống hiện thực xung quanh trẻ.
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra một số thủ thuật gây hứng thú
cho trẻ trong hoạt động Khám phá khoa học, giúp trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm
non Đông Hòa hứng thú tham gia hoạt động và đạt kết quả cao.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số thủ thuật gây hứng thú của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng
dạy hoạt động Khám phá khoa học cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non Đông
Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết sáng kiến kinh nghiệm của mình tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm: Thông qua việc quan sát hoạt động
của trẻ trong sinh hoạt hàng ngày. Thông qua việc trực tiếp giảng dạy hàng
ngày của bản thân và dự giờ của các đồng nghiệp.
2
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với các giáo viên trong nhà trường,
trò chuyện trực tiếp cùng trẻ.
- Phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp thống kê toán học
Thống kê kết quả thực hiện từng tiêu chí theo hai thời điểm trong năm
học để so sánh.
Xử lý số liệu, thông tin thu được thông qua việc sử dụng các phép tính
toán học.
* Phương pháp thu thập thông tin
Tôi tiến hành nghiên cứu đọc sách và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về vai trò của thế giới xung quanh đối với trẻ mầm non. Sưu tầm tư liệu, hình
ảnh thông tin thực tế ở nhà trường và ở tại lớp mình phụ trách.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp tổng hợp và phân tích
- Phương pháp hệ thống hóa
Tôi tiến hành nghiên cứu đọc sách và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về vai trò của thế giới xung quanh đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Sưu tầm tư
liệu, hình ảnh qua thông tin thực tế ở các nhà trường trên địa bàn huyện.
Đọc sách, đọc các tài liệu tham khảo về nội dung cho trẻ.
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tham khảo các bài viết, ý kiến của đồng nghiệp về vấn đề mình đang
thực sự quan tâm để xây dựng bài viết hoàn chỉnh.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Từ khi mới sinh ra trẻ đã có nhu cầu tìm hiểu, khám phá về thế giới
xung quanh và khi trẻ càng lớn thì nhu cầu đó ngày càng lớn hơn nhưng vì trẻ
nhỏ chưa có vốn sống, vốn kinh nghiệm, trẻ chưa thể tự khám phá được về
thế giới xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ trẻ, phải tổ chức, hướng dẫn
trẻ tham gia vào các hoạt động nhằm cho trẻ làm quen, khám phá về môi
trường xung quanh.
Mục tiêu cơ bản của giáo dục mầm non là phát huy tính chủ động và
tích cực của trẻ, làm chủ mọi tri thức và khoa học. Vì thế, khám phá khoa học
luôn là hoạt động chủ đạo trong các trường mầm non. Khi trẻ được làm quen
với thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ có được những kiến thức, kinh nghiệm về
môi trường tự nhiên và xã hội, trẻ sẽ tích luỹ được vốn sống, vốn kinh
nghiệm, tích lũy được những kiến thức, kỹ năng về tự nhiên và xã hội, giúp
trẻ được phát triển toàn diện về các mặt. Ngoài ra, cho trẻ khám phá khoa học
còn tạo điều kiện để trẻ hòa nhập vào cuộc sống và khám phá thế giới xung
quanh.[1]
Thông qua hoạt động khám phá khoa học trẻ thực sự làm chủ những gì
trẻ biết tức là trẻ biết vận dụng những kinh nghiệm hiểu biết về cuộc sống
xung quanh để thực hiện nhu cầu của mình giúp trẻ hiểu được phần nào về
3
cuộc sống hiện thực xung quanh trẻ.Với trẻ mầm non thế giới xung quanh
không có một giới hạn nào cả. Trẻ quan tâm đến mọi vật, mọi hoạt động xảy
ra xung quanh mình và trẻ thường xuyên đặt ra những câu hỏi: “Tại sao? Ai?
Cái gì?...” Tạo điều kiện cho trẻ được khám phá thế giới xung quanh vừa giúp
trẻ phát triển về mọi mặt như phát triển: ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ
và thể lực... và quan trọng hơn là giúp trẻ tự tin hòa nhập vào môi trường
thiên nhiên, môi trường xã hội một cách thuận lợi hơn. Khám phá với môi
trường xung quanh để trẻ được giao lưu và bày tỏ nguyện vọng của mình và
đồng thời là công cụ của tư duy. Vì vậy các nhà giáo dục sử dụng nhiều
phương pháp để cho trẻ tiếp cận với thể giới xung quanh.
Môi trường xung quanh vô cùng phong phú. Nó là một thế giới rộng
lớn với biết bao màu sắc và các đồ chơi đẹp luôn luôn mời gọi, thôi thúc tâm
hồn nhạy cảm và đức tính hiếu động, tò mò của trẻ thơ. Ở độ tuổi 5-6 tuổi,
khả năng nhận thức của các cháu chủ yếu được phát triển qua việc tiếp xúc,
tìm hiểu đồ dùng, đồ chơi và các nguyên vật liệu, qua các hoạt động tìm hiểu
cây cối, con vật, và các hiện tượng tự nhiên và cuộc sống xã hội. Việc cho trẻ
khám phá khoa học, đồng thời các kỹ năng tự sáng tạo, kỹ năng tư duy cũng
như cách thức trình bày, giải thích những gì trẻ thu nhận khám phá được còn
lúng túng và chưa chuẩn xác.[1]
Mặt khác đặc điểm của trẻ độ tuổi 5-6 tuổi, cơ thể trẻ đang phát triển
mạnh về nhận thức, tư duy, về ngôn ngữ, về tình cảm. Trẻ rất ham học hỏi,
thích tìm tòi, khám phá và tìm hiểu về thế giới xung quanh, thế giới khách
quan xung quanh đối với trẻ thật bao la, rộng lớn, có biết bao điều mới lạ,
hấp dẫn, và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được
khám phá. Trẻ thực sự là những chủ thể với những năng lực riêng, có khả
năng tư duy, sáng tạo và giao tiếp với mọi người. Trẻ có kỹ năng nghe, hiểu
lời nói của người khác và nói cho người khác hiểu. Trẻ 5-6 tuổi chủ động, độc
lập, có sáng kiến, biết tự tìm kiếm các phương thức giải quyết các nhiệm vụ
đặt ra, tự kiểm tra...kết quả trong hoạt động học và chơi. Trẻ 5-6 tuổi tập trung
chú ý và nỗ lực, cố gắng giải quyết và hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt
động của trẻ.
Tóm lại: Cho trẻ khám phá môi trường xung quanh có tầm quan trọng
đặc biệt đối với sự phát triển tâm lý của trẻ lứa tuổi mầm non nói chung và độ
tuổi mẫu giáo 5 - 6 tuổi nói riêng. Tổ chức cho trẻ được khám phá khoa học
về môi trường xung quanh chính là tạo điều kiện, cơ hội và tổ chức các hoạt
động đế trẻ tích cực tìm tòi phát hiện về các hiện tượng sự vật xung quanh.
Đây thực chất là quá trình tạo ra môi trường hoạt động, tạo ra các tình huống
và tổ chức các hoạt động cho trẻ tiếp xúc, trải nghiệm với các sự vật hiện
tượng của môi trường xung quanh, qua đó trẻ hiểu biết về đặc điểm, tính chất,
các mối quan hệ, sự thay đổi và phát triển của chúng giúp trẻ học được các kỹ
năng quan sát, phân nhóm, phân loại, đo lường, phán đoán và giải quyêt vấn
đề, chuyển tải ý kiến của mình và đưa ra kết luận về các sự vât hiện tượng đã
4
quan sát, tiếp xúc. Qua đó, hiểu biết của trẻ về đối tượng được củng cố và
chính xác hơn ngôn ngữ được phát triển.
2. Thực trạng của việc sử dụng các thủ thuật để tổ chức hoạt động
học khám phá khoa học cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non Đông Hòa,
huyện Đông Sơn
2.1. Thuận lợi
Địa điểm trường nằm ngay trung tâm xã nên rất thuận lợi cho phụ
huynh khi đưa đón con, vì thế lớp tôi trẻ đi học rất đều, hàng tháng tỷ lệ
chuyên cần đạt cao.
Năm học 2016 - 2017 này tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm
lớp mẫu giáo Lớn 5-6 tuổi với tổng số trẻ là 30, trong đó có 19 nam và 11 nữ,
đa số các bậc phụ huynh đều quan tâm tạo điều kiện phối hợp giữa nhà trường
và gia đình, cùng với cô chăm sóc giáo dục trẻ.
Hàng năm nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên đi tập huấn các
lớp chuyên đề để nhằm nâng cao về chất lượng, nhà trường đã phân trẻ theo
đúng độ tuổi nên tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên đứng lớp trong quá
trình giảng dạy chăm sóc .
Điều kiện cơ sở vật chất trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ I, có đủ
điều kiện về cơ sở vật chất, môi trường cho các cháu học tập, sinh hoạt, ăn
uống đảm bảo vệ sinh…. Trường có trang bị thiết bị hiện đại, có sân chơi rất
thuận lợi cho trẻ hoạt động…tổ chức tốt về chăm sóc giáo dục trẻ, có môi
trường trong và ngoài lớp học khang trang, ngăn nắp, gọn gàng.
Bản thân tôi là một giáo viên yêu nghề, mến trẻ, luôn tận tình giảng
dạy và chăm sóc trẻ, luôn được sự tín nhiệm của phụ huynh, được học sinh
yêu mến, được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường về cơ sở vật chất
và tinh thần rất lớn, điều này là nguồn động viên tinh thần rất lớn cho bản
thân tôi, tạo niềm tin yêu và niềm say mê trong nghề nghiệp.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi trên bản thân tôi còn gặp một số
khó khăn sau:
2.2. Khó khăn
Tuy cơ sở vật chất đã được cải thiện song vẫn còn thiếu một số trang
thiết bị hiện đại để phục vụ công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Lớp tôi chủ
nhiệm với tổng số là 30 trẻ, vì số cháu nam nhiều hơn nữ nên trẻ nam rất hiếu
động, hay nghịch và đôi lúc còn rất khó bảo.
Đông Hòa là xã thuần nông, đa số phụ huynh trẻ đều làm nông nghiệp
nên nhận thức của cha mẹ các cháu về vấn đề cho trẻ đến trường mầm non là
không đồng đều. Dẫn đến tình trạng vẫn còn một số trẻ không đến trường
mầm non ở lớp Nhỡ, lớp Bé nên không được làm quen với nề nếp học tập, vì
vậy không đồng đều về chất lượng.
Việc gây các thủ thuật khi vào ở hoạt động học nói chung và hoạt động
khám phá khoa học nói riêng của giáo viên chưa được chú ý nhiều, giáo viên
đang nặng về lý thuyết, cố gắng dạy hết bài, cung cấp, truyền đạt đầy đủ kiến
thức đến trẻ là xong, chưa quan tâm đến hứng thú của trẻ vào bài học, chưa
5
đánh giá được kết quả tiếp thu ở trẻ được bao nhiêu?
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng.
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã có những hoạt động học cho trẻ được
trải nghiệm để khám phá khoa học. Sau khi khảo sát thực tế kết quả thu được
như sau:
Kết quả khảo sát thực trạng vào thời điểm tháng 9/2016 như sau:
Nội dung khảo sát
Tổng số
Trẻ tham gia tích cực vào giờ học
30
Trẻ tìm ra đặc điểm rõ nét của sự
vật, đối tượng quan sát.
Khả năng so sánh đặc điểm của
đối tượng quan sát.
Khả năng phân loại đối tượng.
Số trẻ đạt
Số trẻ Tỷ lệ
(%)
14
46.7
Số trẻ không đạt
Số trẻ Tỷ lệ
(%)
16
53.3
30
13
43.3
17
56.7
30
12
40.0
18
60.0
30
16
53.3
14
46.7
* Nhận xét: Sau khi tiến hành khảo sát tôi thấy chất lượng trẻ còn quá
thấp:
Ở nội dung thứ nhất, đánh giá về hứng thú của trẻ đối với hoạt động
học ở lớp mới chỉ đạt 46.7 %.
Nội dung thứ hai, về khả năng tìm ra đặc điểm rõ nét của sự vật, đối
tượng quan sát của trẻ mới chỉ đạt 43.3 %.
Đặc biệt ở nội dung thứ ba, về khả năng so sánh đặc điểm của đối
tượng quan sát của trẻ mới chỉ đạt 40.0 %.
Ở nội dung thứ tư, về khả năng phân loại đối tượng của trẻ mới chỉ đạt
53.3 %.
Trước thực trạng này bản thân vô cùng lo lắng về chất lượng của lớp.
Bởi vậy tôi đã tìm tòi, học hỏi, tham khảo tài liệu, học tập kinh nghiệm của
đồng nghiệp và vận dụng vào thực tế quá trình giảng dạy của mình, tôi nghĩ
rằng muốn nâng cao chất lượng của hoạt động khám phá khoa học cho trẻ chỉ
bằng cách phải tìm ra những thủ thuật vào bài thật hấp dẫn, bất ngờ để lôi
cuốn, tạo hứng thú cho trẻ trong hoạt động học, có như thế mới có chất lượng
tốt nhất ở trẻ. Qua quá trình thực hiện với một số giải pháp đã sử dụng bản
thân tôi thấy có tính khả thi cao xin chia sẻ cùng đồng nghiệp.
3. Một số giải pháp tìm những thủ thuật gây hứng thú của giáo viên
nhằm nâng cao chất lượng dạy hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5-6
tuổi ở trường mầm non Đông Hòa, huyện Đông Sơn.
6
3.1. Giải pháp 1: Thủ thuật tăng cường cơ sở vật chất, bổ sung đồ
dùng, đồ chơi cho trẻ
Như chúng ta đã biết đối với trẻ lứa tuổi mầm non vui chơi là hoạt động
chủ đạo đối với trẻ, trẻ học, trải nghiệm thông qua chơi. Khi trẻ chơi đồ dùng,
đồ chơi cho trẻ hoạt động được ví như sách giáo khoa đối với trẻ. Vì thế việc
làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo để đưa vào hoạt động dạy học cũng như cho trẻ
tham gia vào các hoạt động chơi một cách hiệu quả, tích cực là rất quan trọng,
đó như tài liệu lên lớp của mỗi giáo viên, nên khi bước vào năm học, tôi đều
tự giác coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của mình, kết hợp với việc chỉ đạo của
nhà trường phát động mỗi tháng ít nhất giáo viên có 2 đồ dùng, đồ chơi tự tạo
có hiệu quả, vừa là phục vụ dạy học và cũng là kết quả mà nhà trường chỉ đạo
đưa ra để kiểm tra xem giáo viên có thực hiện không? Và thực hiện có hiệu
quả không? Với chính bản thân mình tôi tận dụng những nguyên vật liệu có
sẵn ở địa phương như: vải vụn, cọng rơm khô, lá khô, hoa ép khô, vỏ cây khô
để làm tranh ảnh cho tiết dạy. Sưu tầm các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến,
sò... để tạo thành đồ chơi của trẻ. [3]
Ngay từ đầu năm học dựa vào yêu cầu thực tế trong quá trình dạy trẻ,
tôi đề nghị với nhà trường trang bị thêm thiết bị hiện đại như: máy chiếu và
thay mới một số đồ dùng đã cũ, hỏng trong lớp như: tranh ảnh, lôtô, bảng
từ...ngoài ra tôi còn thay đổi trang trí, sắp đặt nhóm lớp gọn gàng, khoa học
với mục đích tạo điều kiện không gian, địa điểm, cơ sở vật chất đầy đủ, tốt
nhất có thể để phục vụ tất cả các hoạt động của trẻ đạt kết quả cao.
Với các bậc phụ huynh tôi vận động họ mua thêm đồ dùng, tranh
truyện, đặc biệt là tranh, sách, hình ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả...
Sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết
về thế giới xung quanh của trẻ.
Ngoài ra tôi còn huy động sự hỗ trợ, quyên góp các nguyên vật liệu của
các bậc phụ huynh ở lớp, phụ huynh hỗ trợ để cùng cô giáo có nhiều nguyên
vật liệu tăng thêm phần phong phú cho chủ đề, để trẻ được tham gia vào hoạt
động làm đồ dùng, đồ chơi cùng cô. Từ những nguyên vật liệu thiên nhiên
như các loại lá, cánh hoa, củ, quả, hạt cát, vỏ trứng, vỏ hến, vỏ ốc...và các
nguyên vật liệu khác như: vải vụn, giấy các loại, đất nặn, màu nước...tôi đã sử
dụng và làm một số đồ chơi tượng trưng phù hợp với chủ đề.
Ngoài những đồ dùng, đồ chơi được nhà trường cấp cho như: tranh dạy
hoạt động khám phá khoa học, lô tô các loại....Ngoài ra tôi còn tự làm đồ
dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh, hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa
lá... Sưu tầm tranh có hình ảnh đẹp sử dụng trong việc cho trẻ hoạt động khám
phá. Tận dụng các hình ảnh ở lốc lịch, bìa, họa báo, ảnh cũ...Vừa trang trí lớp,
vừa làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ.
Trẻ lớp tôi ở độ tuổi mẫu giáo lớn 5-6 tuổi, nên tôi tập, hướng dẫn cho
nhóm trẻ hoặc tổ tự tạo sản phẩm như: Hướng dẫn trẻ vẽ tranh về các con vật,
cỏ cây, hoa lá hoặc tạo các sản phẩm nặn những đồ vật đơn giản, xung quanh
trẻ, các sản phẩm tạo hình, tranh từ những phế liệu, tôi và trẻ cùng làm thể
7
hiện vốn hiểu biết phong phú của trẻ về thế giới xung quanh. Từ đó tôi hỏi trẻ
đã tạo được gì? Trẻ hứng thú kể và có những biểu tượng về đối tượng được
khám phá.
Ví dụ: Ở góc phân vai: “Bé với con vật đáng yêu” góc chơi có các hình
ảnh con vật do cô và trẻ tự làm từ nguyên vật liệu giấy dạ, xốp màu, vỏ hộp
sữa chua…, khi trẻ chơi ở góc này trẻ sẽ biết được đặc điểm các con vật đó
như: con vật này sống ở đâu, các con vật này có mấy chân, chúng thường ăn
gì.
Hình ảnh: Trẻ đang chơi ở góc chơi phân vai với các đồ chơi tự tạo.
Tiêu chí tôi đặt ra khi làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ là đồ dùng, đồ chơi
của trẻ phải đẹp, hấp dẫn, phong phú, sinh động nhằm kích thích hứng thú, tò
mò lòng ham hiểu biết của trẻ. Tăng cường sử dụng đồ thật, vật thật hoặc hình
ảnh động cho hoạt động học sinh động. Khi sưu tầm được nguyên vật liệu tôi
phân loại các nguyên vật liệu, đựng trong từng hộp riêng biệt, có gắn kí hiệu
và hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhận thấy, đặt trên giá ở vị trí trẻ dễ lấy, dễ tìm.
Tóm lại: Ngoài những đồ chơi được cấp, phát, mua sẵn, với thủ thuật
làm những đồ dùng, đồ chơi do trẻ được trực tiếp tạo ra đã giúp trẻ hình thành
và củng cố những biểu tượng cơ bản về đối tượng. Đặc biệt khi tôi đưa vào sử
dụng trong hoạt động học khám phá khoa học, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng
thú học, trẻ hiểu biết nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa
ra, so sánh và phân loại cũng rất rõ ràng, rành mạch.
8
3.2. Giải pháp 2: Thủ thuật sử dụng câu đố, bài hát, hình ảnh... để
làm giàu vốn hiểu biết cho trẻ về thế giới xung quanh
Thế giới xung quanh luôn là điều mới lạ, trẻ luôn muốn được tìm tòi,
được quan sát, được tiếp xúc, được hiểu biết nhiều hơn về mối quan hệ đơn
giản giữa các sự vật xung quanh từ đó phát triển ngôn ngữ, vốn từ của trẻ
ngày càng phong phú, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ và tư duy của trẻ.
Thông qua việc cho trẻ tìm hiểu về thế giới xung quanh để như là
phương tiện rèn luyện cho trẻ phát triển ngôn ngữ nói, nó có tác dụng to lớn
trong việc hình thành nhân cách cho trẻ mầm non.
Mặt khác mục tiêu chính của việc cho trẻ làm quen với thế giới xung
quanh là giúp trẻ phát triển về kỹ năng, thẩm mỹ, hình thành tình yêu đối với
thiên nhiên cuộc sống con người xung quanh trẻ.
Vì thế khi tôi tổ chức cho trẻ khám phá môi trường xung quanh, để tạo
hứng thú kích thích sự chú ý của trẻ, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục tôi
rất có ý thức quan tâm đến cung cấp biểu tượng của đối tượng cần cho trẻ
khám phá. Tùy từng chủ đề, từng đối tượng, tôi cung cấp biểu tượng về thế
giới xung quanh đến với trẻ qua nhiều hình thức như: Câu đố, bài hát, tranh
ảnh, đồ vật, vật thật … Cách vào bài như vậy vừa nhẹ nhàng, vừa gây hứng
thú cho trẻ. Giúp trẻ không bị nhàm chán, lại dễ tiếp thu để trẻ ghi nhớ và
chính xác hoá thành biểu tượng của mình.
Ví dụ 1: Cho trẻ làm quen với con cá, để cung cấp biểu tượng ban đầu
về con cá trong trí tưởng tượng của trẻ, để khơi dậy trí tưởng tượng của trẻ
đầu tiên tôi dùng câu đố:
“Con gì có vẩy có vây
Không đi trên cạn mà đi dưới hồ ”[2]
Sau khi trẻ nghe đọc xong câu đố, trẻ sẽ tưởng tượng và trả lời ngay đó
là con cá. Để khẳng định lại câu trả lời của trẻ tôi kết hợp cho trẻ xem hình
ảnh con cá.
Hình ảnh: Con cá [5]
9
Để tránh nhàm chán đối với trẻ trong mỗi đề tài tôi chọn mỗi bài với
mỗi mẫu vật, hay tranh ảnh, để cho trẻ quan sát kỹ, cho trẻ đưa ra nhiều ý
kiến nhận xét để tìm ra đầy đủ và chính xác đặc điểm vật mẫu.
Ví dụ 2: Cho trẻ làm quen với Con cua, tôi có thể đọc câu đố để đố trẻ
nghe
“ Con gì tám cẳng hai càng
Đầu thì không có bò ngang cả đời” [2]
Trẻ đoán ngay được đó là con cua, nhưng trong đầu trẻ biểu tượng về
con cua đã được chính xác là con cua có hai càng to, có tám chân, lại bò
ngang nữa. Kết hợp tôi cho trẻ xem hình ảnh minh họa về con cua.
Hình ảnh: Con cua [5]
Tôi cho trẻ tìm hiểu về đặc điểm của con cua: có hai càng to, tám
chân… Sau đó tôi đặt câu hỏi gợi mở “Các con có biết con cua nó đi như thế
nào không ? ” Trẻ sẽ suy nghĩ và trả lời được là con cua bò ngang, tôi dùng
que chỉ rõ, cua có mai cua, yếm cua cứng để bảo vệ cơ thể chúng…
Như vậy không những trẻ biết được những đặc điểm của con cua; mà
trẻ còn biết môi trường sống của chúng, cách vận động (Đi như thế nào ?
Các bộ phận cơ thể ra sao?). Khi trẻ đã nắm rõ đặc điểm trẻ sẽ quan sát dễ
hơn, từ đó so sánh rất rõ ràng và phân loại cũng rất tốt.
Trong hoạt động khám phá khoa học tôi lồng ghép tích hợp các hoạt
động khác như: “Toán, âm nhạc, tạo hình, văn học … để trẻ thêm hứng thú,
ghi nhớ tốt hơn, hiểu vấn đề sâu và rộng hơn.
Ví dụ 3: Hay với đề tài làm quen với động vật sống dưới nước.
Tôi cho trẻ thi “Đố vui” hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố đội bạn.
10
“Nhà hình xoắn làm ở dước ao
Chỉ có một cửa ra vào mà thôi
Mang nhà đi khắp mọi nơi
Không đi đóng cửa nghỉ ngơi một mình”[2]
( Con ốc )
Hình ảnh: Con ốc [5]
Ví dụ 4: Hay câu đố về con cá trê:
“Con gì đầu bẹp
Hai ngạnh hai bên
Râu ngắn vểnh lên
Mình trơn bóng nhỡn”[2]
(Con cá trê)
Hình ảnh: Con cá trê [5]
11
Tôi đưa âm nhạc xen kẽ giữa các phần chuyển tiếp trong quá trình dạy
để hoạt động thêm hào hứng, sôi động.
Trong qua trình dạy tôi cũng kích thích khả năng sáng tạo nghệ thuật
của trẻ bằng cách gắn hoặc dán để hoàn thiện bức tranh.
Tôi thường tổ chức các trò chơi trong tiết học. Các trò chơi động, trò
chơi tĩnh đan xen nhau để tạo hứng thú, tiết dạy vui tươi, trẻ thêm phần hoạt
bát nhanh nhẹn .
Với mỗi hình ảnh cho trẻ làm quen đều có từ tương ứng ở dưới để dễ
nhận biết được chữ cái mình đã học.
Từ những kinh nghiệm chia sẻ như trên, tôi đã có suy nghĩ và hiểu
được môi trường xung quanh vô cùng quan trọng đối với trẻ.
Như vậy: Có thể nói sử dụng câu đố, bài hát, hình ảnh... để gây thủ
thuật vào bài cho trẻ, vì vậy trẻ vừa được giải câu đố rất vui vẻ hào hứng, kích
thích tư duy, làm phong phú vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc. . . Trong quá trình
dạy trẻ tôi cũng lồng ghép kiến thức về toán sơ đẳng như: Sau khi làm quen
với con cua, cô và trẻ cùng đếm số chân cua.
3.3. Giải pháp 3: Thủ thuật sử dụng thí nghiệm để nâng cao khả
năng phán đoán, suy luận, quan sát, so sánh, và phân loại ở trẻ
Trẻ 5- 6 tuổi là giai đoạn ở trẻ có những biến đổi quan trọng trong sự
phát triển tâm lí, nhận thức, là lứa tuổi trẻ chuyển từ nhận thức cảm tính sang
nhận thức lý tính. Khi đó, khả năng phán đoán, suy luận ở trẻ cũng được hình
thành và phát triển. Đây cũng là giai đoạn trẻ có nhu cầu rất lớn trong nhận
thức và phản ánh thế giới xung quanh, trong việc tìm hiểu, khám phá về các
sự vật, hiện tượng tự nhiên gần gũi, quen thuộc.[4]
Mặc dù khả năng phán đoán, suy luận đã được hình thành và phát triển,
song trẻ 5-6 tuổi vẫn thường phán đoán, suy luận theo lối tương tự (khi suy
luận, trẻ nhận ra quy luật và hiểu rằng quy luật đó sẽ lặp lại ở những tình
huống tương tự). Trẻ có thể phán đoán, suy luận những hiện tượng đơn giản
nhưng chưa có khả năng phán đoán trước kết quả nếu hoạt động đó chưa diễn
ra.
Ví dụ: Khi chưa làm thí nghiệm về đặc tính của nước, trẻ sẽ không thể
phán đoán được dầu ăn có tan trong nước hay không?
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có thể đưa ra những suy luận đơn giản dựa trên
kết quả quan sát trực quan và có thể kiểm nghiệm được. Khi trẻ suy luận
nghĩa là trẻ đã quan sát rất nhiều hiện tượng, hệ thống chúng lại và gắn cho
chúng một ý nghĩa nào đó. Vì thế, khi được tham gia hoạt động khám phá, trẻ
rất thích trả lời những câu hỏi gợi mở như: “Tại sao? Như thế nào? Để làm
gì? Nếu... thì...” để được đưa ra những phán đoán và được kiểm nghiệm kết
quả phán đoán của mình.
Ở trường mầm non, phát triển khả năng phán đoán, suy luận được diễn
ra thông qua tất cả các hoạt động, trong đó hoạt động khám phá, đặc biệt là
khám phá về các hiện tượng tự nhiên giữ vai trò rất quan trọng. Các hiện
12
tượng tự nhiên gần gũi với trẻ theo chương trình giáo dục mầm non là: thời
tiết (nắng, mưa, gió, bão...), mùa; ngày và đêm, mặt trời, mặt trăng; nước;
không khí, ánh sáng; đất, đá, cát, sỏi. Các hiện tượng này luôn có sự thay đổi
không ngừng; ở những không gian và thời gian khác nhau thì chúng có những
biểu hiện khác nhau. Chính điều này đã tạo nên sự hấp dẫn rất lớn đối với trẻ,
kích thích trẻ tìm tòi, khám phá từ đó phát triển khả năng phán đoán, suy luận
của trẻ.
Muốn phát triển khả năng quan sát, so sánh, và phân loại ở trẻ với mỗi
bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen, tôi tìm những thí nghiệm phù
hợp để trẻ nhận biết đối tượng bằng sự quan sát, cảm nhận và nhận xét.
Ví dụ:
Thí nghiệm 1: Sự cần thiết của nước với cây: Tôi chuẩn bị hai chậu
cây, sau đó hằng ngày cho trẻ tưới nước vào một chậu cây, chậu cây kia
không tưới nước. Sau một thời gian, cho trẻ quan sát hai chậu và đưa ra nhận
xét.
=> Nước rất cần thiết và quan trọng đối với sự sống của cây. Nếu cây
không có nước cây sẽ chết vì khô héo.
Thí nghiệm 1: Khám phá đồ dùng gia đình: Tôi chuẩn bị một chậu
nước, cho trẻ thả một số đồ dùng bằng nhựa và bằng sứ vào. Từ đó, cho trẻ
đưa ra nhận xét về đặc tính riêng của sứ và nhựa.
=> Nhựa nhẹ nổi được trên mặt nước, sứ nawmgj nen bỏ vào nước sẽ
chìm.
Với mỗi đối tượng trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết đưa ra ý kiến nhận
xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần làm quen như
vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những hiểu về vật đó
mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng.
Sau khi trẻ được làm quen 3 đến 4 đối tượng trong một đề tài tôi cho trẻ
so sánh từng cặp 2 đối tượng một, để trẻ có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ
phân loại trong các trò chơi.
Tổ chức các trò chơi trong mỗi hoạt động, tôi tổ chức đan xen trò chơi
động với trò chơi tĩnh, làm cho không khí tiết dạy vui tươi hào hứng và hiệu
quả. Trong các hoạt động học khác tôi cũng lồng ghép kiến thức về khám phá
khoa học để củng cố vốn hiểu biết về biểu tượng đã có của trẻ.
Trong hoạt động khác của trẻ, tôi có thể cung cấp kiến thức cũ, tận
dụng mọi lúc, mọi nơi để giáo dục trẻ.
Trong hoạt động góc, trẻ được chơi ở góc thiên nhiên: trẻ tưới cây, nhặt
lá, bắt sâu, xem sách về môi trường xung quanh. Đặc biệt trẻ được chơi nhiều
đồ vật thật, khi được hoạt động nhiều với đồ vật thật, trẻ được nhìn, sờ, nắn,
ngửi… Từ đó có hình ảnh trọn vẹn về những gì xung quanh trẻ.
Như vậy, thủ thuật sử dụng thí nghiệm do trẻ trực tiếp làm hay trực tiếp
quan sát sẽ tạo ghi nhớ lâu ở trẻ. Qua những thí nghiệm đó trẻ biết đưa ra
được những kết luận từ thực tế. Tùy theo đề tài cụ thể, tôi đưa thí nghiệm phù
13
hợp, tạo sự tò mò tìm hiểu ở trẻ. Đồng thời trẻ ghi nhớ lâu và nắm vững kiến
thức đó.
3.4. Giải pháp 4: Thủ thuật tổ chức cho trẻ được dạo chơi tham quan
để khắc sâu biểu tượng về sự vật, hiện tượng
Để có hoạt động học “Khám phá khoa học” đạt hiệu quả cao thì việc
cho trẻ làm quen ở mọi lúc, mọi nơi là rất cần thiết và quan trọng, giúp trẻ
bước đầu hình dung ra những nội dung sắp học. Việc trẻ được làm quen với
mọi lúc, mọi nơi có thể tiến hành trong những hoạt động hàng ngày thông qua
tiếp xúc với môi trường thiên nhiên phong phú được tận mắt nhìn thấy những
bông hoa, cây cảnh, con vật, thông qua tranh ảnh sẽ để lại trong trí nhớ của trẻ
nhưng ấn tượng lâu, sâu sắc trong trí nhớ của trẻ.
Trong quá trình tiếp xúc với sự vật, hiện tượng, tri thức mà trẻ lĩnh hội
được còn thiếu chính xác và chưa có hệ thống vì thế tôi phải lựa chọn những
những câu hỏi phù hợp với từng thời điểm của quá trình trẻ khám phá nhằm
cung cấp tri thức, sự hiểu biết cho trẻ, đồng thời phát triển các kĩ năng nhận
thức, giúp trẻ quan sát tốt hơn, kích thích trí tò mò, thích phám phá ở trẻ.
Ví dụ 1: Tôi đã cho trẻ đi dạo chơi tham quan vườn cổ tích của trường,
trẻ rất hào hứng vì khi cho trẻ tiếp xúc trẻ được sờ và ngửi những bông hoa
cây cảnh, từ đó trẻ biết thêm về những đặc điểm của chúng.
Trẻ rất thích thú khi được quan sát con voi, cô hỏi trẻ:
- Chân của voi đâu?
- Con voi có mấy chân (4 chân),
(trẻ biết được voi có tai to, mình dài, vòi dài, ích lợi của voi đối với con
người, đối với môi trường sống…). Từ đó trẻ biết chăm sóc bảo vệ chúng.
Hình ảnh: Cô giáo đang cho trẻ quan sát con voi ngoài vườn cổ tích.
14
Ngoài ra trẻ còn được làm quen với những người gần gũi và cuộc sống xã
hội, trẻ được quan sát, gặp gỡ, trò chuyện, giúp đỡ những người xung quanh,
được tham quan các nơi như vườn cổ tích….. Được làm quen với các đồ dùng
qua tranh ảnh hoặc đồ chơi giúp trẻ biết được đồ dùng rất phong phú và đa dạng.
Sau mỗi chủ đề tôi lại tổ chức cho trẻ đi thăm những danh lam, thắng cảnh, các
di tích lịch sử của địa phương... để trẻ thêm khắc sâu trí nhớ và hiểu thêm về đặc
điểm quê hương mình.
Ví dụ: Vào một ngày đẹp trời, tôi tổ chức cho trẻ đi bộ tham quan
cánh đồng lúa trẻ quan sát rất hứng thú, trên đường đi tôi còn giới thiệu cho
trẻ thấy khu nhà cao tầng đang xây cho trẻ biết có được khu nhà đó, các cô
chú công nhân rất vất vả. Ngoài ra vừa đi tôi còn vừa dạy trẻ về luật giao
thông, đi bộ như cô và các con thì phải đi sát lề đường bên phải của mình
hoặc đi trên vỉa hè, xe ô tô thì đi giữa lòng đường, xe đạp, xe máy thì đi sát lề
đường tay phải. Ngoài ra trẻ còn được nhìn thấy những bác nông dân đang vất
vả gặt lúa để có những hạt cơm ngon cho các con ăn, vì vậy các con phải
thương yêu bác nông dân, ăn hết suất cơm, không đánh rơi cơm.
Có những buổi đi tham quan như thế sẽ tạo được những hình ảnh sự
thật, vật chất, những cảm xúc khó quên đối với trẻ tạo cho trẻ hiểu biết được
công việc cuộc sống, thế giới xung quanh trẻ thật là hấp dẫn. Những sự vật,
hiện tượng xảy ra xung quanh buổi dạo chơi.
Hình ảnh: Bác nông dân đang gặt lúa
Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại… khi
trẻ quan sát tôi hướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra trọn vẹn
đối tượng đó .
15
Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời không những để trẻ khám phá
thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo
vệ môi trường. Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về công việc của
mỗi người, về mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giáo dục về
an toàn giao thông với trẻ tạo cho trẻ thói quen và ý thức khi tham gia giao
thông. Với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn giản. Đi trên đường không chạy,
không nô đùa, đi bên tay phải, hoặc là nhìn những tín hiệu giao thông…
3.5. Giải pháp 5. Phối kết hợp giữa nhà trường và phụ huynh
Việc kết hợp giữa gia đình và cô giáo là không thể thiếu được, giúp trẻ
luyện tập nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về thiên nhiên, về xã hội
phong phú và đa dạng hơn. Nhờ có sự quan tâm và lòng nhiệt tình của các bậc
phụ huynh như vậy nên sự phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh ngày một
đoàn kết và hiểu nhau hơn, phụ huynh tạo điều kiện để nhà trường ngày một
phát triển hơn.
Ví dụ 1: Ở chủ đề “ Những con vật ngộ nghĩnh ” về đề tài “Các con
vật sống trong gia đình” trước đó một tuần tôi đã thông báo cho phụ huynh
biết về hoạt động và biết chủ đề đang học để phụ huynh ủng hộ các loại vải
vụn, các bìa xốp…mang đến lớp cho cô giáo. Tôi đã dùng các phế thải đó làm
ra các con vật, để xây dựng mô hình cho trẻ. Kết quả là khi trẻ được trải
nghiệm với đồ chơi tự tạo sẽ lôi cuốn được sự chú ý của trẻ.
Ví dụ 2: Ở chủ đề “ Gia đình” cũng với cách thông báo cho phụ huynh
trước một tuần về chủ đề sắp học, khuyến khích phụ huynh ủng hộ các loại
tranh ảnh về ngôi nhà, về gia đình của bé … mang đến lớp nộp cho cô giáo.
Từ đó thông qua các hoạt động có chủ đích, các hoạt động ngoại khoá
tôi đã cho trẻ được quan sát và thí nghiệm và tôi thấy được một điều là trẻ rất
hứng thú, và ở chủ đề đó kết quả học tập trên trẻ rất cao.
Hay xây dựng lên kế hoạch phối kết hợp phụ huynh cho trẻ đi thăm
quan, dã ngoại. Trước lúc cho trẻ đi cần chuẩn bị: Đồ ăn của trẻ tôi chuẩn bị
nước và những đồ ăn cần thiết đối với trẻ, quần áo gọn gàng, sạch sẽ, tuyệt
đối phải quản lý, bao quát, đảm bảo độ an toàn của trẻ cao, luôn luôn quan sát
và hướng dẫn trẻ. Được phụ huynh ủng hộ nhiệt tình, có những dịp phụ huynh
đi cùng cho trẻ ăn và quản lý con em mình cùng cô.
Nhờ có sự quan tâm và lòng nhiệt tình của các bậc phụ huynh như vậy
nên sự phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh ngày một đoàn kết và hiểu
nhau hơn, phụ huynh tạo điều kiện để nhà trường ngày một phát triển hơn.
4. Hiệu quả đạt được
Qua một năm thực hiện đề tài tôi luôn không ngừng học hỏi phấn đấu,
từ những gì vốn có của bản thân cùng tiếp thu kinh nghiệm, kiến thức của bạn
bè đồng nghiệp.
Kết quả khảo sát thực trạng vào thời điểm tháng 3/2017 như sau:
16
Nội dung khảo sát
Trẻ tham gia tích cực vào giờ
học
Trẻ tìm ra đặc điểm rõ nét của
sự vật, đối tượng quan sát.
Khả năng so sánh đặc điểm
của đối tượng quan sát.
Khả năng phân loại đối tượng.
Tổng số trẻ
Số trẻ đạt
Số trẻ Tỷ lệ
(%)
Số trẻ không đạt
Số trẻ Tỷ lệ
(%)
30
30
100
0
30
30
100
0
30
25
83.3
5
16.7
30
20
66.7
10
33.3
* Nhận xét:
Qua kiểm tra đánh giá quá trình thực nghiệm, kết quả thực nghiệm
chứng tỏ việc sử dụng các giải pháp trên đã giúp trẻ có tiến bộ rõ rệt. Chất
lượng trẻ đã được nâng lên, cụ thể:
Ở nội dung thứ nhất, đánh giá về hứng thú của trẻ đối với hoạt động
học ở lớp đạt 100% so với đầu năm tăng 53.3% .
Nội dung thứ hai, về khả năng tìm ra đặc điểm rõ nét của sự vật, đối
tượng quan sát của trẻ đạt 100% so với đầu năm tăng 56.7% .
Nội dung thứ ba, về khả năng so sánh đặc điểm của đối tượng quan sát
của trẻ đạt 83.3% so với đầu năm tăng 60.0% .
Ở nội dung thứ tư, về khả năng phân loại đối tượng của trẻ đạt 66.7%
so với đầu năm tăng 13.4%.
* Đối với trẻ:
Từ việc áp dụng một số thủ thuật gây hứng thú cho trẻ tôi thấy trẻ rất
hứng thú học, giờ học đạt kết quả cao, giúp cho trẻ phát triển óc tư duy, trí tưởng
tượng, sáng tạo và giàu vốn từ.
* Đối với phụ huynh:
Trước khi đưa ra các giải pháp trên tôi thấy đa số phụ huynh không quan
tâm đến việc học của con em mình, thậm chí cho con đi học theo kiểu thích đi thì
đi, thích nghỉ thì nghỉ. Nhưng sau khi đưa ra các giải pháp trên đặc biệt là việc
phối kết hợp với phụ huynh đã thành công, số phụ huynh hiểu về bậc học mầm
non cũng như việc cho trẻ “khám phá khoa học” ngày một nhiều hơn.
* Đối với nhà trường:
Luôn quan tâm giúp đỡ, đầu tư thêm nhiều cơ sở vật chất để phục vụ
cho tất cả các hoạt động học đặc biệt là hoạt động “khám phá khoa học”.
Tạo điều kiện cho tôi có điều kiện học tập và nâng cao trình độ chuyên
môn. Luôn luôn giúp đỡ cho tôi trong mọi hoạt động và là nguồn động viên
tinh thần giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ.
17
III. KẾT LUẬN
Qua ứng dụng những giải pháp mới vào sáng kiến bản thân tôi đã rút ra
một số kết luận sau:
- Muốn giúp trẻ học tốt hoạt động khám phá khoa học ở lứa tuổi mầm
non cô giáo trước hết phải thực sự yêu nghề, mến trẻ nắm bắt yêu cầu phương
pháp của bộ môn học này phải linh hoạt, kiên trì trong công việc dạy trẻ, vì
quá trình hình thành nhân cách con người là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi
phải lặp đi lặp lại nhiều lần do đặc tính của lứa tuổi là nhanh nhớ, nhanh quên.
Vì vậy muốn hình thành ở trẻ dù chỉ là một hành vi, cử chỉ cũng cần phải rèn
luyện thường xuyên, liên tục thì mới thành công.
- Khi thực hiện đề tài này bản thân tôi luôn xoay quanh nội dung làm
thế nào để tìm ra những thủ thuật vào bài thật hấp dẫn để cho trẻ hứng thú khi
vào hoạt dộng một cách tích cực, không nhàm chán, tôi phải tìm tòi, sáng tạo
đặt ra những tình huống hấp dẫn, những hình ảnh, đồ dùng thật đẹp sinh động,
đặt những câu hỏi gợi mở có nội dung phong phú, gần gũi với trẻ, cố gắng
cho trẻ được trải nghiệm thật nhiều để hoạt động khám phá khoa học của trẻ
được tốt.
- Thực hiện nghiêm túc chương trình, qua đó đúc rút kinh nghệm qua
từng bài dạy để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Biết cách kết hợp
giữa nhà trường và phụ huynh.
- Thường xuyên làm đồ dùng, đồ chơi, tham mưu với nhà trường bổ
sung cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho hoạt
động của trẻ.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã thực hiện để giúp trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trường mầm non Đông Hòa đạt hiệu quả cao khi tham gia hoạt động
Khám phá khoa học. Đề tài chắc không tránh khỏi còn hạn chế, thiếu sót, bản
thân rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
HĐKH CẤP TRƯỜNG
Xếp loại:…………..
CT HĐKH
HIỆU TRƯỞNG
Lê Thị Hào
Đông Sơn, ngày 05 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thị Hiền
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2009): Thông tư số 17/2009/TT - BGDĐT ngày
25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo, ban hành
chương trình giáo dục mầm non.
[2]. Bộ GD&ĐT (2008), Tuyển chọn bài hát, thơ ca, truyện kể, câu đố dành
cho trẻ mầm non.
[3]. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình chăm
sóc giáo dục trẻ 5-6 tuổi.
[4]. Huỳnh Văn Sơn. “Khả năng phán đoán, suy luận của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở nội thành TP. Hồ Chí Minh”. Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học
Đà Nẵng, số 6 (41), 2010.
[5] Sưu tầm hình ảnh trên Internet
19
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Nguyễn Thị Hiền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường mầm non Đông Hòa
TT
Tên đề tài SKKN
1.
Một số biện pháp giúp trẻ 5-
Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
Phòng
Kết quả
đánh giá
xếp loại (A,
B, hoặc C)
B
Phòng
A
Năm học
đánh giá xếp
loại
2012-2013
6 tuổi hoạt động góc có hiệu
quả
2.
Một số thủ thuật gây hứng
2016-2017
thú của giáo viên nhằm nâng
cao chất lượng dạy hoạt động
khám phá khoa học cho trẻ
5-6 tuổi ở trường mầm non
Đông Hòa, huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hóa.
20