Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp dạy học môn toán lớp 4 theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh ở trường tiểu học nga điền II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.09 KB, 21 trang )

Mục

MỤC LỤC
Nội dung

1. MỞ ĐẦU
1.1
Lý do chọn đề tài
1.2
Mục đích nghiên cứu.
1.3
Đối tượng nghiên cứu.
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1
Cơ sở lí luận
2.2
Thực trạng về vấn đề trước khí áp dụng SKKN
2.3
Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Biện pháp 1 Sử dụng phương pháp gợi mở- vấn đáp trong hình
thành kiến thức mới nhằm phát huy tính tích cực hóa
của học sinh.
Biện pháp 2 Sử dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề
để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích
cực hóa của học sinh.
Biện pháp 3 Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH
dạy học thảo luận nhóm.
Biện pháp 4 Phát huy tính tích cực hóa của học sinh bằng cách sử
dụng tốt đồ dùng trực quan.


Biện pháp 5 Giúp học sinh tìm hiểu kiến thức mới bằng cách giải
các bài toán có tính chất chuẩn bị.
Biện pháp 6 Tổ chức cho tất cả học sinh đều tham gia vào hoạt
động thực hành, luyện tập nhằm phát huy tính tích cực
hóa trong học tập.
2.4
Hiệu quả của SKKN
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1
Kết luận
3.2
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiếm kinh nghiệm đã được hội đồng
khoa học xếp loại các năm học trước

Trang
2
2
3
3
3
3
3
4
6
6
10

12

16

16

18
18
19
19
19
20
21

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Môn Toán là một môn học có vị trí và nhiệm vụ hết sức quan trọng. Bởi lẽ,
Toán học không những cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng cần
thiết để học lên các lớp trên hay áp dụng vào cuộc sống, nó còn là chìa khóa mở
ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác. Môn Toán còn góp phần quan
trọng trong việc hình thành nhân cách ở học sinh và hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu
giáo dục toàn diện.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt môn Toán thì mỗi người giáo viên không
phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa,
trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc
làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc
học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không
cao. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em
thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những

đổi mới diễn ra hàng ngày.
Muốn giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới một cách tốt nhất người giáo
viên cần phải có phương pháp giảng dạy và đổi mới các phương pháp sao cho
phù hợp. Song việc đổi mới như thế nào, bắt đầu từ đâu, người thực hiện ra sao
thì quả là không dễ dàng chút nào. Muốn làm được việc này ta phải dày công
nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để giảng dạy có hiệu quả.
Qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ các phương tiện truyền thông và
thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy, việc học tại Trường Tiểu học
Nga Điền II – Nga Sơn, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề không thể
không trăn trở. Cho dù lộ trình đổi mới phương pháp đã có một thời gian dài
thực hiện và những ưu thế của nó là điều không thể phủ nhận, song chưa có ai
dám khẳng đinh rằng ở mọi nhà trường đã thực hiện một cách hoàn hảo nhất các
tiêu chí của dạy học hiện đại. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần
chừ, không thật mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá
trình thực hiện đổi mới. Một bộ phận học sinh tiếp cận với phương pháp mới
một cách hờ hững, thiếu sẳn sàng và thiếu tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt
trong xử lí thông tin còn hạn chế. Trường Tiểu học Nga Điền II – Nga Sơn -nơi
tôi đang công tác cũng không thể tránh khỏi những hạn chế chung của nền giáo
dục nước nhà. Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư
nghiên cứu việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với môn Toán tôi
đã đi sâu nghiên cứu “Một số biện pháp dạy học môn Toán lớp 4 theo hướng
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh tại trường TH Nga Điền IIhuyện Nga Sơn”.
2


1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận về đổi mới dạy học tích cực nói chung và dạy
học tích cực trong môn Toán nói riêng.
- Vận dụng phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh nắm vững kiến thức
môn Toán lớp 4.

- Giúp học sinh phát huy tính tự chủ, sáng tạo làm cơ sở cho các em có vốn kiến
thức học lên lớp trên.
- Giúp người giáo viên xác định đúng vai trò, vị trí, trách nhiệm của người làm
công tác ''trồng người'' nhằm đem lại hiệu quả học tập cao nhất đối với học sinh.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Nga Điền II.
- Học sinh lớp 4A trường Tiểu học Nga Điền II năm học 2016 – 2017.
- Phương pháp dạy học môn Toán theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập
của học sinh.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp
- Phương pháp quan sát, điều tra; Truyền đạt, phỏng vấn giáo viên; Điều tra học
sinh, các loại vở bài tập Toán.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả.
+ Kiểm tra chất lượng qua các lần kiểm tra, thực hành;
+ Thống kê kết quả ở mỗi lần kiểm tra, thực hành.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
* Một số khái niệm.
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở
nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh là thay đổi cách dạy
và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọc- chép”, giáo
viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi
là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể hoạt động, giáo
viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa

người dạy và người học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
3


sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học. [1].
* Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
- Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà
còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh
biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học.
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý
chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con
người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội, tạo ra sự chuyển biến từ học
tập thụ động sang tự học chủ động.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc
trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm
nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải
giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa
các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.

- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp
tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học. Giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được
tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời
là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị
cho học sinh. [2].
2.2. THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ DẠY VÀ HỌC TOÁN Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC NGA ĐIỀN II.
* Về phía giáo viên
Hầu hết các đồng chí giáo viên trong trường đã tâm huyết với nghề, đã đổi
mới phương pháp dạy học. Trong quá trình dạy học đã thực hiện theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, phát huy
tính chủ động của học sinh.
4


Song, vẫn còn một số đồng chí tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm dạy học còn ít,
nên chưa thể đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn dạy học hiện đại. Trong mỗi tiết
dạy vẫn tham nói nhiều, ôm đồm kiến thức và hay làm thay công việc cho học
sinh. Chưa chú trọng thay đổi hình thức, phương pháp dạy sao cho tiết học sinh
động sôi nổi, chỉ cần dạy đúng, đủ nội dung là được. Dẫn đến chất lượng giờ học
Toán chưa cao, chưa phát huy hết khă năng và kích thích tính tư duy của học
sinh.
* Về phía học sinh:
Hầu hết học sinh trong trường đã tiếp cận được cách học theo hướng tích
cực. Trong tiết học đã phát huy tính chủ động. Các em hăng say phát biểu ý
kiến, tích cực thảo luận nhóm. Mặc dù vậy, đối tượng học sinh trong mỗi lớp
không đồng đều, nhiều em tiếp thu chậm. Một bộ phận học sinh chưa chịu khó
học, gia đình lại không quan tâm nên chất lượng chưa cao. Đầu năm học 20162017, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm môn Toán ở lớp 4A , kết quả

đạt được như sau:
Đề bài:
Bài 1: Đặt tính rồi tính: (4 điểm )
15 783 + 4 089
56 000 - 21 308
2503 x 7
81 030 : 5
Bài 2: Điền số thích hợp vào chỗ chấm: ( 3 điểm)
2km = ….m
9hm = ……m
4m 7cm = … cm
Bài 3: ( 3 điểm) Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều rộng 9m, chiều dài
gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi và diện tích thửa ruộng đó?
Tổng
số
Điểm 9 - 10
Điểm 7 – 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
học sinh
32

TS

%

TS

%


TS

%

TS

%

2

6,25

6

18,75

16

50

8

25

Từ kết quả khảo sát cho thấy, việc nắm bắt kiến thức môn Toán của các em
còn nhiều điều bất cập. Qua tìm hiểu, tôi tìm ra nguyên nhân chủ yếu là:
- Trong quá trình dạy học, người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức
tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức.
Giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của các em trong khả năng tư duy,
tìm tòi, khám phá tri thức mới .

- Một số giáo viên chưa đầu tư, các kiến thức liên quan đến bài giảng, chưa
biết sử dụng bài trước để giới thiệu dẫn dắt lôi cuốn học sinh một cách hấp dẫn
vào bài mới nhằm khắc sâu kiến thức bài cũ và tạo sự liên kết mạch kiến thức
cho các em.
5


- Khai thác nội dung kiến thức giáo viên cũng chưa làm nổi bật được khi nào
bắt đầu, khi nào cao trào đỉnh điểm, khi nào kết thúc,…Cách đặt ra tình huống
có vấn đề, tự nhớ lại kiến thức cũ và vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong
giờ học.
- Học sinh chưa có ý thức tự học, chưa có kĩ năng hợp tác nhóm. Các em còn
thụ động trong học tập. Còn chờ thầy cô giảng bài mà chưa chịu khó tìm tòi để
phát hiện kiến thức mới.
Để khắc phục tình trạng này, tôi xin đề xuất một số biện pháp dạy học
nhằm nâng cao chất lượng học sinh trong trường.
2.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Biện pháp 1: Sử dụng phương pháp gợi mở- vấn đáp trong hình thành kiến
thức mới nhằm phát huy tính tích cực hóa của học sinh.
1/ Hiểu rõ bản chất của PPDH gợi mở- vấn đáp.
Phương pháp dạy học gợi mở - vấn đáp là quá trình tương tác giữa giáo viên
và học sinh, được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng
về một chủ đề nhất định được GV đặt ra. Qua việc trả lời hệ thống câu hỏi dẫn
dắt của giáo viên, học sinh thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của mình, từ đó
khám phá và lĩnh hội được đối tượng học tập.
a. Vấn đáp tái hiện.
Được thực hiện khi những câu hỏi do giáo viên đặt ra chỉ yêu cầu học sinh
nhớ lại, nhắc lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận.
Loại vấn đáp này chỉ nên sử dụng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học
với kiến thức sắp học, hoặc khi củng cố kiến thức vừa mới học.

Loại câu hỏi vấn đáp tái hiện thường được sử dụng khi:
- HS chuẩn bị học bài.
- HS đang thực hành, luyện tập.
- HS đang ôn tập những tài liệu đã học. [3].
Ví dụ: Dạy bài: Tìm số trung bình cộng. (Sách giáo khoa Toán4 - trang 26), sau
khi cho học sinh thực hành luyện tập xong bài tập 1, GV đặt câu hỏi:
Muốn tìm số trung bình cộng của hai số, ta làm thế nào?
Muốn tìm số trung bình cộng của nhiều số, ta làm thế nào?
Học sinh trả lời để khắc sâu kiến thức bài học.
b. Vấn đáp giải thích minh họa.
Được thực hiện khi câu hỏi của GV đưa ra có kèm theo các ví dụ minh họa
(bằng lời hoặc bằng hình ảnh trực quan) nhằm giúp HS dễ hiẻu, dễ ghi nhớ.
Phương pháp này được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp như khi
GV biểu diễn phương tiện trực quan. Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi:
6


- HS đã có những thông tin cơ bản. GV muốn HS sử dụng các thông tin ấy trong
những tình huống mở, phức tạp hơn.
- HS đang tham gia giải quyết vấn đề đặt ra.
- HS đang được cuốn hút vào cuộc thảo luận sôi nổi và sáng tạo. [4].
Ví dụ: Dạy bài: Vẽ hai đường thẳng vuông góc (Sách giáo khoa Toán 4 - trang
50), sau khi hướng dẫn các thao tác vẽ hai đường thẳng song song, sang phần
hướng dẫn thực hành, bài tập 1, GV vẽ lên bảng đường thẳng CD và lấy một
điểm M ngoài đường thẳng CD như hình vẽ trong bài tập 1. GV đặt câu hỏi:
- Bài tập yêu cầu chúng ta làm gì? ( HS trả lời)
- Để vẽ được đường thẳng AB đi qua M và song song với đường thẳng CD,
trước tiên chúng ta phải làm gì? ( HS trả lời)
GV yêu cầu HS thực hiện bước vẽ vừa nêu, giải thích, minh họa cho câu trả
lời của mình,….

c. Vấn đáp tìm tòi.
Vấn đáp tìm tòi còn được gọi là vấn đáp phát hiện hay đàm thoại ơrixtic:
Là loại vấn đáp mà GV tổ chức sự trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy
với cả lớp, có khi giữa trò với trò, thông qua đó, HS nắm được tri thức mới. Hệ
thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải quyết một số
vấn đề xác định, buộc HS phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải đáp. Trật tự logic
của các câu hỏi kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết. GV đóng
vai trò người tổ chức sự tìm tòi còn học sinh thì tự lực phát hiện kiến thức mới.
Vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại, HS có được niềm vui của sự khám phá. Cuối
giai đoạn đàm thoại, GV khéo léo vận đụng các ý kiến của HS để kết luận vấn
đề đặt ra, có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. [5].
Ví dụ: Dạy bài: Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó (Sách giáo
khoa Toán 4 - trang 47)
Sau khi hoàn tất sơ đồ tóm tắt bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của
hai số, GV yêu cầu học sinh quan sát kỹ sơ đồ bài toán và suy nghĩ cách tìm hai
lần của số bé. ( HS nêu )
- GV dùng phấn màu gạch chéo phần hơn của số lớn so với số bé và nêu vấn
đề: Nếu bớt đi phần hơn của số lớn so với số bé thì phần còn lại của số lớn như
thế nào so với số bé?
- GV: Trên sơ đồ còn lại hai đoạn thẳng biểu thị hai số bằng nhau và mỗi
đoạn thẳng bằng một lần số bé, vậy ta còn lại hai lần của số bé.
- So sánh phần hơn của hai số và hiệu của hai số, em có nhận xét gì?
- Khi bớt đi phần hơn của hai số thì tổng của chúng thay đổi như thế nào?
( Bằng tổng trừ đi phần hơn hoặc tổng trừ đi hiệu của hai số).
-Tổng mới là bao nhiêu? ( Tổng mới bằng tổng trừ đi hiệu của hai số)
7


-Tổng mới bằng hai lần số bé, vậy tìm số bé như thế nào? (Lấy tổng mới
chia cho 2).

- Khi đã tìm được số bé, em hãy tìm số lớn bằng những cách khác nhau?
2/ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp - gợi mở.
2/1. Nắm vững quy trình thực hiện PPDH vấn đáp – gợi mở.
a. Trước giờ học:
- Xác định mục tiêu bài học và đối tượng dạy học. Xác định các đơn vị kiến
thức kĩ năng cơ bản trong bài học và tìm cách diễn đạt các nội dung này dưới
dạng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt HS.
- Dự kiến nội dung các câu hỏi, hình thức hỏi, thời điểm đặt câu hỏi, trình tự
của các câu hỏi. Dự kiến nội dung các câu trả lời của HS, trong đó dự kiến
những "lỗ hổng" về mặt kiến thức cũng như những khó khăn, sai lầm phổ biến
mà HS thường mắc phải. Dự kiến các câu nhận xét hoặc trả lời của GV đối với
HS.
- Dự kiến những câu hỏi phụ để tùy tình hình từng đối tượng cụ thể mà tiếp
tục gợi ý, dẫn dắt HS.
b. Trong giờ học:
- GV sử dụng hệ thống câu hỏi dự kiến (phù hợp với trình độ nhận thức của
từng loại đối tượng HS) trong tiến trình bài dạy và chú ý thu thập thông tin phản
hồi từ phía HS.
c. Sau giờ học
- Giáo viên chú ý rút kinh nghiệm về tính rõ ràng, chính xác và trật tự logic
của hệ thống câu hỏi đã được sử dụng trong giờ dạy.
2/2. Áp dụng phương pháp vấn đáp – gợi mở để phát huy tính tích cực
hóa học tập của học sinh.
Trong quá trình dạy học, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức
mới bằng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Tổ chức các hoạt động dạy học nhằm
chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò.
Trong bài: “Phép nhân phân số”, việc hình thành phép tính nhân của 2 phân
số

3

2

là một vấn đề mới. Nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính, sau đó
4
5

áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo
của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp
để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo.
Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống
câu hỏi hoặc yêu cầu sau:
- Tính

2
3
của .
4
5
8


Đây là một tình huống mà học sinh chưa thể thực hiện được ngay. Nhưng
chúng ta vẫn nên để cho học sinh tự tìm hiểu trong một thời gian nhất định. Sau
đó, giáo viên thiết lập hệ thống yêu cầu và câu hỏi để dẫn đến cách tính

3
2
x .
4
5


Cụ thể:
2
thành tổng của 4 phân số bằng nhau?
5
3
2
- Từ kết quả phân tích được, hãy cho biết của là bao nhiêu?
4
5
3× 2
- Hãy so sánh kết quả vừa tìm được với kết quả của
4×5

- Hãy phân tích

Sau khi học sinh thực hiện, giáo viên cụ thể hóa lại cho học sinh theo cách
sau:

2
8
2
2
2
2
2× 4
=
=
=
+ + + . ( Chia

5× 4
5
20 20 20 20 20
3
2
2
2
2
Ta có: của là
+ +
=
4
5
20 20 20
6 3× 2
Nhận xét:
=
20 4 × 5

2
thành 4 phần bằng nhau.)
5
6
. ( Lấy 3 phần)
20

3
2
6
3× 2

×
=
=
.
4×5
4
5
20
a
c
a×c
×
Giáo viên nêu công thức tổng quát:
=
và yêu cầu học sinh
b×d
b
d

Vậy cách tính

2
3
của là
4
5

nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức luyện tập, củng cố.
* Lưu ý.
Khi soạn các câu hỏi, GV cần lưu ý các yêu cầu sau đây:

- Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, sát với mục đích, yêu cầu của
bài học, không làm cho người học có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau.
- Câu hỏi phải sát với từng loại đối tượng HS, nghĩa là phải có nhiều câu hỏi
ở các mức độ khác nhau, không quá dễ và cũng không quá khó.
- Cần chuẩn bị những câu hỏi phụ để tùy tình hình thực tế mà gợi ý, dẫn dắt
tiếp.
- Nên chú ý đặt các câu hỏi mở để HS đưa ra nhiều phương án trả lời và
phát huy được tính tích cực, sáng tạo của HS.
* Kết luận
Sử dụng phương pháp vấn đáp - gợi mở kích thích được tư duy độc lập của
học sinh, dạy HS cách tự suy nghĩ đúng đắn. Gợi mở vấn đáp lôi cuốn HS tham
gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích
hứng thú học tập và lòng tự tin của HS. Giúp đỡ nhau trong học tập. Học
sinh yếu kém có điều kiện học tập các bạn trong nhóm, có điều kiện tiến
9


bộ. Đồng thời giúp GV thu nhận tức thời nhiều thông tin phản hồi từ phía
người học, duy trì sự chú ý của HS; giúp kiểm soát hành vi của HS và
quản lí lớp học.
Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề để tổ
chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực hóa của học sinh.
1/ Hiểu rõ bản chất của PPDH phát hiện và giải quyết vấn đề.
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là PPDH trong đó GV tạo ra những
tình huống có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích
cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức,
rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác.
2/Nắm chắc quy trình thực hiện PPDH phát hiện và giải quyết vấn đề.
Bước 1. Phát hiện hoặc thâm nhập vấn đề:
- Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề.

- Giải thích và chính xác hóa tình huống để hiểu đúng vấn đề được đặt ra.
- Phát biểu vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó.
Bước 2: Tìm giải pháp:
Tìm cách giải quyết vấn đề, thường được thực hiện theo sơ đồ sau:
- Phân
tích vấn đề:
làm rõ mối
liên hệ giữa
cái đã biết và
cái cần tìm
(dựa
vào những tri
thức đã học,
liên tưởng tới
kiến
thức
thích hợp)
- Đề xuất

thực
hiện
hướng giải
quyết vấn đề:
Cần thu thập,
tổ
chức dữ liệu,
huy động tri thức; sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức, tìm đoán suy
luận như hướng đích, quy lạ về quen, đặc biệt hóa, chuyển qua những trường
10



hợp suy biến, tương tự hóa, khái quát hóa, xem xét những mối liên hệ phụ
thuộc, suy xuôi, suy ngược tiến, suy ngược lùi,... Phương hướng đề xuất có thể
được điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện hướng giải
quyết vấn đề là hình thành được một giải pháp.
- Kiểm tra tính đúng đắn của giải pháp: Nếu giải pháp đúng thì kết thúc ngay,
nếu không đúng thì lặp lại từ khâu phân tích vấn đề cho đến khi tìm được giải
pháp đúng. Sau khi đã tìm ra một giải pháp, có thể tiếp tục tìm thêm những giải
pháp khác, so sánh chúng với nhau để tìm ra giải pháp hợp lí nhất.
Bước 3. Trình bày giải pháp
HS trình bày lại toàn bộ từ việc phát biểu vấn đề tới giải pháp. Nếu vấn đề
là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát biểu lại vấn đề.
Bước 4. Nghiên cứu sâu giải pháp
- Tìm hiểu những khả năng ứng dụng kết quả.
- Đề xuất những vấn đề mới có liên quan nhờ xét tương tự, khái quát hóa, lật
ngược vấn đề,... và giải quyết nếu có thể. [6].
3/ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát
hiện và giải quyết vấn đề.
Ví dụ:
Dạy bài : Phép cộng phân số (tiếp theo)
Bài toán: “ Có một băng giấy màu, bạn Hà lấy

1
1
băng giấy, Bạn An lấy băng
2
3

giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phần băng giấy màu? ”
Mục tiêu: Sau khi học xong, học sinh biết cách cộng hai phân số khác

mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh.
Sau khi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài, giáo viên hướng dẫn giải như sau:
+ Muốm biết cả 2 bạn lấy bao nhiêu phần băng giấy, ta cần thực hiện phép
tính gì? (phép cộng:

1
1
+ ).
2
3

+ Em hãy nhận xét mẫu số của hai phân số trong phép tính.
+ Em hãy tìm cách biến đổi để hai phân số trên có mẫu số bằng nhau.
Việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống
gợi vấn đề. Giáo viên yêu cầu học sinh tìm cách cộng bằng cách biến đổi hai
phân số trên thành hai phân số có cùng mẫu số. Đó chính là cách quy đồng mẫu
số, sau đó cộng hai phân số cùng mẫu số. Từ đó, học sinh có thể giải quyết vấn
đề.
Như vậy, giáo viên đã sử dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề
kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2
phân số khác mẫu số.
11


* Lưu ý:
- Không nên yêu cầu học sinh tự khám phá tất cả các tri thức quy định trong
chương trình.
- Cho HS phát hiện và giải quyết vấn đề đối với một bộ phận nội dung học
tập, có thể có sự giúp đỡ của GV với mức độ nhiều ít khác nhau.
- Các vấn đề, tình huống đưa ra để HS xử lí, giải quyết cần thoả mãn các yêu

cầu sau:
+ Phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ nhận thức của HS.
+ Vấn đề phải gần gũi với cuộc sống thực của HS, có thể diễn tả bằng kênh
chữ hoặc kênh hình, hoặc kết hợp cả kênh chữ và kênh hình hay qua tiểu phẩm
đóng vai của HS.
+ Vấn đề cần có độ dài vừa phải, phải chứa đựng những mâu thuẫn cần giải
quyết, gợi ra cho HS nhiều hướng suy nghĩ, nhiều cách giải quyết vấn đề.
+ Cách giải quyết tối ưu đối với mỗi HS có thể giống hoặc khác nhau.
+ GV cần tìm hiểu đúng cách tạo tình huống gợi vấn đề và tận dụng các cơ
hội để tạo ra tình huống đó, đồng thời tạo điều kiện để HS tự lực giải quyết vấn
đề.
* Kết luận:
- Phương pháp phát hiện, giải quyết vấn đề giúp học sinh được rèn luyện tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo. Trên cơ sở sử dụng vốn kiến thức và kinh
nghiệm đã có HS sẽ xem xét, đánh giá, thấy được vấn đề cần giải quyết. Trong
khi phát hiện và giải quyết vấn đề, HS sẽ huy động được tri thức và khả năng cá
nhân, khả năng hợp tác, trao đổi, thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết
vấn đề tốt nhất.
- Thông qua việc giải quyết vấn đề, HS được lĩnh hội tri thức, kĩ năng. Giải
quyết vấn đề không chỉ còn thuộc phạm trù phương pháp mà đã trở thành một
mục đích dạy học, được cụ thể hóa thành một mục tiêu là phát triển năng lực
giải quyết vấn đề, một năng lực có vị trí hàng đầu để con người thích ứng được
với sự phát triển của xã hội.
Biện pháp 3: Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH dạy học
thảo luận nhóm.
1/ Hiểu rõ bản chất của PPDH thảo luận nhóm.
Phương pháp thảo luận nhóm là một PPDH mà "HS được phân chia thành
từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nhiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực
hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng
biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu

chung". Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi HS
tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể
12


chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến
nội dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau; cùng
nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung.
2/Nắm chắc quy trình của PPDH thảo luận nhóm.
Khi sử dụng PPDH này, lớp học được chia thành những nhóm nhỏ. Tùy
mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia
ngẫu nhiên hoặc có chủ định, được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay
đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học, các nhóm được giao nhiệm vụ
giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong
một chủ đề chung.
Cấu tạo của một hoạt động theo nhóm (trong một phần của tiết học, hoặc
một tiết, một buổi) có thể là như sau:
Bước 1. Làm việc chung cả lớp
- GV giới thiệu chủ đề thảo luận, nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm, quy định thời gian và
phân công vị trí làm việc cho các nhóm.
- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm (nếu cần).
Bước 2. Làm việc theo nhóm
- Lập kế hoạch làm việc
- Thỏa thuận quy tắc làm việc
- Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập.
- Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.
- Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.
Bước 3. Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm.

- Các nhóm khác quan sát, lắng nghe, chất vấn, bình luận và bổ sung ý kiến.
- GV tổng kết và nhận xét, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp
theo. [7].
3/ Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH thảo luận nhóm.
Ví dụ: Dạy bài: Diện tích hình thoi.
Yêu cầu: Tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m,
B
BD = n
A

OO

C

D

13


Giáo viên nêu: Ta đã được học cách tính diện tích hình tam giác, diện tích
hình chữ nhật. Sử dụng cách cắt ghép hình, hãy thảo luận theo nhóm 4, tìm cách
tính diện tích hình thoi.
- Học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
* Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình
tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC
M

N

B


A

C

Ta có: Diện tích (hình thoi ABCD) = diện tích (hình chữ nhật AMNC)
=m×

n
m×n
=
.
2
2

Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình
tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD
N

B

A

O
M

D

* Ta có:
Diện tích hình thoi ABCD = diện tích hình chữ nhật MNBD =


m
m×n
× n=
2
2

* Lưu ý khi sử dụng PPDH thảo luận nhóm.
- Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của các cá nhân để hoàn thành
nhiệm vụ nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn hoạt động cá nhân thì mới nên sử
dụng phương pháp này.
- Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố một chủ
đề đã học hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới.
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận nhóm và trình bày kết quả thảo luận
cho các nhóm.
- Khi làm việc theo nhóm, các nhóm có thể tự bầu ra nhóm trưởng nếu cần.
Các thành viên trong nhóm có thể luân phiên nhau làm nhóm trưởng. Nhóm
trưởng phân công cho mỗi thành viên thực hiện một phần công việc.
14


- Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức (bằng lời,
bằng tranh vẽ, bằng tiểu phẩm, bằng văn bản viết trên giấy to,...) có thể do một
người thay mặt nhóm trình bày hoặc có thể nhiều người trình bày, mỗi người
một đoạn nối tiếp nhau.
- Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả lớp.
Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một
đại diện hoặc có thể phân công mỗi nhóm viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ
được giao là khá phức tạp.
- Tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá lẫn nhau hoặc cả lớp cùng đánh giá.

Tùy theo nhiệm vụ học tập, HS có thể sử dụng hình thức làm việc cá nhân hoặc
hoạt động nhóm cho phù hợp, không nên thực hiện PPDH này một cách hình
thức.
- Hoạt động nhóm cần đề phòng xu hướng hình thức.
- Trong suốt quá trình HS thảo luận, GV cần đến các nhóm, quan sát, lắng
nhe, gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết.
* Kết luận:
- Khi hợp tác nhóm nhỏ, học sinh được nêu quan điểm của mình, được nghe
quan điểm của bạn khác trong nhóm, trong lớp; được trao đổi, bàn luận về các ý
kiến khác nhau và đưa ra lời giải tối ưu cho nhiệm vụ được giao cho nhóm. Qua
cách học đó, kiến thức của HS sẽ bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính
khách quan khoa học, tư duy phê phán của HS được rèn luyện và phát triển.
- Các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm,
hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới và học hỏi
lẫn nhau. Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do
được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm, được tham gia trao đổi,
trình bày vấn đề nêu ra. HS hào hứng khi có sự đóng góp của mình vào thành
công chung của cả lớp.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên HS, đặc biệt là những em nhút nhát,
trở nên bạo dạn hơn; các em học được trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe
có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp HS dễ hòa nhập vào cộng đồng nhóm,
tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt.
- Vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của HS thêm phong phú; kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng hợp tác của HS được phát triển.
Biện pháp 4. Sử dụng tốt đồ dùng trực quan nhằm phát huy tính tích cực
hóa của học sinh.

15



Trong khi dạy học, có nhiều nội dung trừu tượng, khó hiểu, giáo viên phải
hướng dẫn học sinh thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát
hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học.
Ví dụ: Bài “Phép cộng phân số”. (Sách giáo khoa Toán4 - trang 126)
Để hình thành phép cộng hai phân số cùng mẫu số, giáo viên và học sinh
cùng thực hành trên băng giấy
– Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau bằng cách gấp đôi băng giấy ba
lần theo chiều ngang:
3
băng giấy
8
2
+ Tô màu vào băng giấy
8

+ Tô màu vào

Nhìn vào băng giấy học sinh dễ nêu được hai lần đã tô màu được
Học sinh nêu:

5
băng giấy.
8

3
2
3+ 2
5
+ =
= .

8
8
8
8

Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với
nhau và giữ nguyên mẫu số.
Tóm lại: Nhờ có đồ dùng trực quan, chúng ta đã chuyển bài toán từ trừu
tượng, khó hiểu đến cái cụ thể giúp học sinh nắm bắt kiến thức một cách nhẹ
nhàng nhưng hiệu quả rất cao. Những vấn để mà học sinh đã được kiểm chứng
trực quan sinh động sau đó chuyển thành tư duy trừu tượng thì học sinh sẽ nhớ
kĩ, nhớ lâu.
Biện pháp 5. Giúp học sinh tìm hiểu kiến thức mới bằng cách giải các bài
toán có tính chất chuẩn bị.
Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được
kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối
quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán:
Ví dụ : Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của
2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hoa và Lan có tất cà 30.000
đồng, Hoa có nhiều hơn Lan 10.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?
- Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập:
+ Mỗi học sinh lấy 30 que tính (tượng trưng cho 30.000 đồng). Chia bảng
con làm 2 phần, phần lớn là số tiền Hoa của , phần nhỏ là số tiền của Lan.
+ Hoa nhiều hơn Lan 10000 đồng. Vậy ta lấy 10 que tính cho Hoa trước
rồi chia đôi phần còn lại: Học sinh lấy 10.000 đồng cho Hoa trước (đặt 10 que
tính vào phần lớn).
- Lấy đi 10 000 đồng tức là làm phép tính gì?
- Còn mấy nghìn đồng ? (30000 – 10000 = 20000 đồng).
16



- Vậy chia đều phần còn lại cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? (20000 : 2
= 10.000 đồng).
- Bỏ vào hai phần, mỗi phần 10 000 đồng (10 que tính)
- Vậy Lan được mấy nghìn ? (10 000 đồng).
- Còn Hoa được mấy nghìn ? (10 000 +10 000 = 20000 đồng).
Sau khi cho học sinh thực hành trên que tính để hình thành cách giải, giáo
viên hướng dẫn học sinh trên sơ đồ đoạn thẳng. Học sinh sẽ dễ lĩnh hội kiến
thức hơn rất nhiều.
Tóm lại:
Giải bài toán chuẩn bị là con đường ngắn nhất giúp học sinh đến với kiến
thức mới. Với việc giải các bài toán chuẩn bị này, chúng ta đã làm cho đơn vị
kiến thức cần trang bị trở nên gần gũi với học sinh. Giúp các em nắm kiến thức
được dễ hơn, sâu hơn.
Biện pháp 6. Tổ chức cho tất cả học sinh đều tham gia vào hoạt động thực
hành, luyện tập nhằm phát huy tính tích cực hóa trong học tập.
Thực hiện theo phương pháp dạy học này, giáo viên cho học sinh làm các
bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó.
Điều này giúp học sinh yếu được trải nghiệm, nghiên cứu các bài khó hơn một
chút, dần dần sẽ phát triển tư duy cho các em.
- Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Các em làm xong bài
tập này thì chuyển sang bài tiếp theo để tiết kiệm thời gian. Nếu học sinh có
năng khiếu hoàn thành sớm, giáo viên có thể giao thêm các bài tập nâng cao hơn
đã chuẩn bị để rèn kĩ năng cho các em.
- Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác.
- Các em có thể có nhiều cách giải khác nhau.
Ví dụ : Tính.
Cách1:
25 x 3 x 4 = 75 x 4
= 300

Cách 2:
25 x 3 x 4 = 25 x 4 x 3
= 100 x 3
= 300
Khi giải bài này, có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép
tính trong biểu thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí (Cách 1).
Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép nhân để tìm ra
cách giải thuận tiện. (Cách 2)
Bởi vậy, trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học
sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là:
17


+ Tính chất giao hoán của phép nhân.
+ Tính chất kết hợp của phép nhân.
+ Tính chất nhân một số với một tổng (Hoặc một tổng nhân với một số).
+ Tính chất nhân một hiệu với một số (Hoặc một số nhân với một hiệu).
Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận
dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia:
Tóm lại: Khi vận dụng phương pháp này, chúng ta phát huy được tối đa năng
khiếu của từng em. Tiết kiệm thời gian cho học sinh. Đây là một bước tiến trong
dạy luyện tập thực hành của môn toán.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Được sự hướng dẫn tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, sự phối hợp tích
cực của tổ chuyên môn 4 + 5 cùng với ý thức trách nhiệm đối với học sinh, tôi
đã nghiên cứu, thử nghiệm đề tài: Một số biện pháp dạy học môn Toán lớp 4
theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh ” và đã thu được kết
quả rất khả quan. Qua một năm học, tôi thấy chất lượng học sinh dần dần được
nâng cao. Học sinh đã tự giác, hứng thú, chủ động và tích cực tham gia các hoạt
động học tập, không rụt rè, tự ti như trước nữa. Chất lượng học sinh ngày một

tiến bộ do trình độ nhận thức của các em ngày càng được nâng cao, tích cực phát
biểu xây dựng bài, hứng thú và ham thích học toán, làm bài, học bài đầy đủ. Các
em đã xây dựng cho mình một phương pháp học tập khoa học. Học sinh dần dần
chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống.
* Kết quả kiểm tra cuối năm học môn Toán ở lớp 4A - Kết quả như sau :
Tổng số
Điểm 9 - 10
Điểm 7 – 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
học sinh
TS
32

10

%
31,25

TS
14

%
43,75

TS
8

%
25


TS
0

%
0

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
* KẾT LUẬN:
Là giáo viên tiểu học, tôi nhận thấy trong dạy môn Toán lớp 4 nói riêng và
các môn học khác nói chung, giáo viên cần phải nghiên cứu nội dung, vận dụng
các phương pháp dạy học phù hợp, truyền thụ một cách có hệ thống các bài học.
Đặc biệt lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em tìm tòi và tự rút ra kết
luận cho mình. Có như vậy các em mới nhớ kỹ, nhớ lâu, nắm chắc kiến thức và

18


biết phát huy khả năng và giải toán thành thạo. Vì vậy bước đầu đã có kết quả
khả quan trong giảng dạy môn Toán lớp 4.
Trong khi lên lớp giáo viên cần nói ít, giảng giải ít, thường xuyên làm việc
với từng cá nhân, nhóm học sinh và lớp. Để thực hiện được tốt nhiệm vụ của
từng tiết học, giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để lớp
học sôi nổi hào hứng, học sinh hăng hái phát biểu nắm chắc bài học, học sinh
hiểu bài mới đạt kết quả cao. Tuy môn toán là môn học khô khan nhưng nó hoạt
động trí tuệ sáng tạo và hấp dẫn thực tế đối với học sinh.
Đề tài được thử nghiệm trong phạm vi một trường Tiểu học không thể tránh
khỏi những hạn chế, rất mong nhận được ý kiến góp ý của các thầy cô giáo các
cấp quản lý giáo dục, các bạn bè đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn nữa và
đem lại hiệu quả giáo dục cao hơn.

* KIẾN NGHỊ:
- Bổ sung tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học
môn Toán nói riêng.
- Trang bị thêm một số đồ dùng trực quan có thẩm mỹ cao để tiết dạy được
sinh động hơn .
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Điền, ngày 16 tháng 4 năm 2017
Cam kết không cooppi

Người viết

Nguyễn Thị Tuyển

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán lớp 4 - Đỗ Đình Hoan (Chủ biên) 01- 2014/CXB/86
- 1062/GD.
2. Sách giáo viên Toán lớp 4.
3 . Phương pháp dạy Toán bậc tiểu học - NXB - ĐHSP 2003 .
4. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh môn Toán, Tiếng Việt Ở
Tiểu học năm 2002.
5 . Giáo trình phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học - NXH - ĐHSP
2006.
6. Mo dun TH 15 – Một số phương pháp dạy học tích cực ở Tiểu học – Bồi
dưỡng thường xuyên.


20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN. ĐÁNH GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:
Nguyễn Thị Tuyển
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường TH Nga Điền 2– Nga Sơn.

TT

1

2

3

4

5

6

7

8


9

Tên đề tài SKKN

Một số phương pháp nhằm nâng
caokhả năng giải toán dạng:
“Tìm hai số khi biết tổng và hiệu
của hai số đó”
Một số biện pháp giúp học sinh
giỏi toán lớp 4 học tốt các dạng
toán có liên quan đến sơ đồ đoạn
thẳng.
Kinh nghiệm hình thành kỹ năng
giải dạng toán: Tìm hai số khi
biết tổng và tỷ số của hai số đó”
Giúp học sinh lớp 4 phân biệt và
giải các dạng toan: Tìm hai số
khi biết tổng và tỉ số của hai số
đó – Tìm hai số khi biết hiệu và
tỉ số của hai số đó.
Kinh nghiệm dạy một số dạng
toán về phân số cho học sinh
giỏi lớp 4
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giải toán có lời văn cho
học sinh lớp 3
Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 4 học tốt các bài toán có nội
dung hình học tại Trường Tiểu
học Nga Điền II

Một vài biện pháp giúp học sinh
lớp 4-5 tại Trường Tiểu học Nga
Điền II giải các bài toán có liê
quan đến phân số.
Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5
trường Tiểu học Nga Điền II học
tốt dạng toán chuyển động đều.

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại (A,
B, hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Phòng
GD&ĐT

C

2006- 2007

Phòng

GD&ĐT

B

2007- 2008

Phòng
GD&ĐT

B

2009- 2010

Phòng
GD&ĐT

B

2010- 2011

Phòng
GD&ĐT

B

2011-2012

Phòng
GD&ĐT


B

2012-2013

Phòng
GD&ĐT

B

2013- 2014

Phòng
GD&ĐT

C

2014-2015

Phòng
GD&ĐT

C

2015-2016

21




×