Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3a trường tiểu học xuân dương, thường xuân thực hiện tốt giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.7 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Tên mục

Trang

I

PHẦN MỞ ĐẦU

1

Lí do chọn sáng kiến

1

2

Mục đích nghiên cứu

2

3

Đối tượng nghiên cứu

2

4

Phương pháp nghiên cứu


2

II

NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1

Cơ sở lí luận

2

2

Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3

3

Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề

4

4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục

17


III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1

Kết luận

17

2

Kiến nghị

18

1


I - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến.
Bậc Tiểu học là bậc học đặt nền móng trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách học sinh. Mỗi môn học ở bậc học Tiểu học đều góp phần vào hình
thành và phát triển những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Trong đó, môn
Toán là môn học mà kiến thức và kĩ năng có nhiều ứng dụng vào cuộc sống thực
tiễn, góp phần rèn luyện trí thông minh, sự nhanh nhạy trong tính toán. Để đáp ứng
với sự phát triển của xã hội trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kì
công nghệ thông tin phát triển như hiện nay thì môn Toán càng có vai trò quan
trọng, giúp người học hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, làm
việc khoa học, tiếp cận kịp thời với xu thế phát triển của thời đại. Bên cạnh đó,
môn Toán còn hỗ trợ nhiều cho việc học tập các môn học khác ở bậc Tiểu học và
là nền tảng cho việc học toán ở các bậc học trên.
Trong nội dung chương trình môn toán, phần giải toán có lời văn là một

mảng kiến thức có vị trí vô cùng quan trọng. Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ
năng giải toán. Đồng thời giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu điểm, những thiếu
sót trong kiến thức, kĩ năng của học sinh để giúp các em phát huy những ưu điểm,
khắc phục những thiếu sót. Thông qua dạy học giải toán sẽ giúp học sinh hình
thành và phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một
trình tự hợp lí làm cơ sở cho quá trình học toán ở các lớp cao hơn.
Việc giải toán giúp học sinh luyện được những đức tính và phong cách làm
việc của người lao động như ý thức vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có
kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng. Đồng thời từng bước hình thành và rèn
luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập, khắc phục được tính rập
khuôn, xây dựng được tính ham thích, tìm tòi, sáng tạo, phát triển tư duy,... giải
toán còn là hoạt động gồm những thao tác như xác lập được mối quan hệ giữa các
dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán. Chọn được
phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, tôi nhận thấy học sinh
khi giải các bài toán có lời văn thường chậm hơn so với các dạng bài tập khác. Các
em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính
đúng nhưng không tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải chưa phù hợp. Một số
em mới chỉ đọc đề toán chứ chưa hiểu được đề. Khi trả lời câu hỏi của thầy nêu:
Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? thì còn lúng túng hoặc trả lời chưa
chính xác. Chính vì thế, bản thân tôi đã trăn trở tìm hiểu thực trạng về giải các bài
toán có lời văn, tìm tòi nghiên cứu giải pháp, biện pháp thực hiện để nâng cao chất
lượng dạy học. Xin được đưa ra “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3A
trường Tiểu học Xuân Dương, Thường Xuân thực hiện tốt giải toán có lời
văn” để đồng nghiệp cùng tham khảo và chia sẻ kinh nghiệm.
2. Mục đích nghiên cứu.
2


Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học theo

hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đồng thời rèn kĩ
năng giải toán có lời văn tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh lớp 3A - Trường Tiểu học Xuân Dương;
Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến sáng kiến;
Nghiên cứu chương trình toán lớp 3 nói chung và toán có lời văn lớp 3 nói
riêng;
Nghiên cứu cách dạy của giáo viên cùng khối.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp khảo sát điều tra;
Phương pháp thống kê;
Phương pháp quan sát;
Phương pháp phân tích, tổng hợp;
Phương pháp thực nghiệm sư phạm;
Phương pháp tổng kết rút kimh nghiệm.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận.
Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả
các kiến thức về số học, đo lường, đo đại lượng, các yếu tố hình học,... trong
chương trình toán lớp 3. Hơn nữa phần lớn các biểu tương, khái niệm, các quy tắc,
các tính chất toán học ở bậc Tiểu học đều được học sinh tiếp thu qua con đường
giải toán.
Thông qua nội dung thực tế của các đề toán, học sinh sẽ tiếp nhận được các
kiến thức phong phú, đa dạng về cuộc sống. Từ đó có điều kiện để rèn luyện khả
năng áp dụng các kiến thức toán đã học cho bản thân mình. Mỗi bài toán là một
bức tranh của cuộc sống, khi giải mỗi bài toán học sinh phải biết rút ra từ bức tranh
đó cái bản chất của toán học, phải biết lựa chọn những phép tính thích hợp, làm
đúng các phép tính đó, biết đặt lời giải chính xác,...Vì thế quá trình giải toán sẽ
giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc
sống qua con mắt toán học của mình.

Việc giải các bài toán sẽ giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói
quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải các bài toán, học
sinh phải biết chú ý tập trung vào bản chất của đề toán, phải biết phân biệt giữa cái
đã cho và cái phải tìm, biết phân tích để tìm ra mối quan hệ giữa các số liệu. Nhờ
đó mà óc sáng tạo của các em sẽ linh hoạt hơn, tinh tế hơn, chính xác hơn, tư duy
làm việc của các em sẽ khoa học, logic hơn,... Điều này không chỉ giúp các em học
giỏi môn toán mà còn giúp các em học tốt ở tất cả các môn học khác.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
3


Giáo viên:
Việc dạy học toán cho học sinh còn lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa và
sách giáo viên. Chủ yếu cung cấp đủ số lượng các bài tập trong một tiết dạy, chưa
chú trọng đi sâu vào việc phân tích, tổng hợp, tìm tòi cách giải bài toán, cách
hướng dẫn học sinh từng bước giải. Còn hạn chế trong việc dẫn dắt học sinh quá
trình tìm cái ẩn, mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết, giữa các đại lượng,...
để từ đó học sinh tìm được đường lối chung giải bài toán, tìm câu trả lời, thực hiện
phép tính tương ứng. Một số giáo viên còn vận dụng chưa linh hoạt các phương
pháp dạy học truyền thống nên việc chiếm lĩnh tri thức của học sinh chưa tích cực.
Học sinh:
Việc tiếp thu kiến thức của học sinh còn lệ thuộc vào người khác, ít động
não suy nghĩ tìm tòi cái “ tiềm ẩn” chứa trong bài toán. Các khái niệm, quy tắc,
công thức giáo viên đưa ra học sinh có nhiệm vụ ghi nhớ. Học sinh không chuẩn bị
đúng mức để hoạt động độc lập, sáng tạo, luôn phụ thuộc vào người khác. Chính vì
vậy mà đa số học sinh nắm kiến thức không vững, không sâu, không hiểu được bản
chất của vấn đề chỉ biết rập khuôn theo mẫu một cách máy móc, nên có những bài
toán chỉ khác mẫu đi một chút hoặc thay dự kiện là học sinh không làm được, nếu
làm được thì kết quả cũng không chính xác. Mặt khác ngôn ngữ của các em còn
hạn chế nên việc tìm lời giải cho bài toán còn gặp nhiều khó khăn;

Học sinh đọc đề chưa kĩ, chưa có kĩ năng tìm hiểu đề nên hiểu đề chưa sâu,
chưa nhận được dạng của bài toán, tóm tắt bài toán chưa đúng, hoặc chưa khoa
học.
Phần trình bày lời giải còn sai, chưa hợp lí.
Giải xong bài không thử lại kết quả.
Từ thực trạng trên đã dẫn đến kết quả học tập của học sinh chưa đạt như
mong muốn. Tính hiệu quả trong dạy học chưa cao. Nhất là khi gặp những bài toán
có lời văn, các em không giải quyết nổi hoặc giải quyết không hợp lí.
Qua việc chấm bài, trao đổi trực tiếp với học sinh, tôi phát hiện được những
hạn chế phổ biến của học sinh trong giải toán: Có em đã biết giải đúng (đúng lời
giải và phép tính tương ứng). Song có em chỉ thực hiện được phép tính đúng mà lời
giải chưa phù hợp hay viết lời giải còn lủng củng, tối nghĩa, thậm chí có em hoàn
toàn chưa biết giải bài toán dù là toán đơn hay toán hợp.
Điều tra thực trạng tại lớp tôi cho thấy kết quả như sau:
Tổng
số

24 em

HS có lời giải và
phép tính đúng,
trình bày khoa học

HS có lời giải và
phép tính đúng, trình
bày chưa khoa học

HS có phép tính
đúng mà lời giải
chưa hợp lí


HS chưa giải
được bài toán

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

8 em

33,3%

6 em

25%

6 em


25%

4 em

16,7%

Như vậy việc dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 3 có vai trò cực kì quan
trọng, đặc biệt là giải toán có đến 2 phép tính (vì đây là dạng toán các em mới tiếp
cận). Vì thế để giúp học sinh biết giải toán đúng, giáo viên phải đặt ra yêu cầu cho
4


học sinh đó là biết tìm hiểu đề toán, biết tóm tắt bài toán, biết tìm cách giải và hơn
nữa là biết tìm lời giải phù hợp và cuối cùng là biết tự đánh giá kết quả.
3. Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề.
Để giúp học sinh lớp 3 biết giải toán có lời văn trong sách giáo khoa toán 3
và các bài toán phát triển dựa trên các bài toán đã cho để vận dụng giải các bài toán
trong thực tế đời sống, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp như sau:
Biện pháp 1. Trang bị quy trình cho các dạng bài tập
1.1. Cung cấp quy trình chung để giải các bài tập theo 4 bước cơ bản
sau đây:
1.1.1. Tìm hiểu đề toán:
Yêu cầu học sinh đọc thật kĩ đề toán. Đây là một bước quan trọng không thể
thiếu được trong dạy học toán. Ở bước này giáo viên giúp học sinh tiếp cận với nội
dung bài toán, khắc phục khó khăn về ngôn ngữ, biết diễn đạt ngôn ngữ bằng kí
hiệu đặc biệt, sau đó xác định 3 yếu tố cơ bản của bài toán:
Dữ kiện (là cái đã cho, đã biết trong đề toán)
Ẩn số (là cái chưa biết, cần tìm)
Điều kiện (là mối quan hệ giữa dự kiện và ẩn số)
Như vậy, ngay từ bước đầu đã bắt buộc học sinh phải phát huy tính linh hoạt

của tư duy, sau bước này học sinh tóm tắt được bài toán bằng cách ghi các dữ kiện,
điều kiện, ẩn số bằng ngôn ngữ hoặc kí hiệu ngắn gọn, cô đọng nhất.
Ví dụ 1: Bể thứ nhất có 4 con cá, bể thứ hai có nhiều hơn bể thứ nhất 3 con
cá. Hỏi cả hai bể có bao nhiêu con cá? (Bài toán 2 trang 50).
Tóm tắt
4 con cá
Bể thứ nhất:
Bể thứ hai:

3 con cá

? con cá

(Dạng bài toán hợp giải bằng hai bước tính nhằm giúp học sinh chọn 2 phép cộng)
Ví dụ 2: Một cửa hàng ngày thứ bảy bán được 6 xe đạp, ngày chủ nhật bán
được số xe đạp gấp đôi số xe đạp ngày thứ bảy. Hỏi cả hai ngày cửa hàng đó bán
được bao nhiêu xe đạp?
Tóm tắt
6 xe
Thứ bảy :

? Xe

Chủ nhật :
Sơ đồ này giúp học sinh trong việc lựa chọn phép tính để giải (phép tính
nhân và phép tính cộng)
1.1.2. Tìm đường lối giải:
5



Bước này là bước quan trọng nhất, việc nắm vững nội dung đặc biệt là ba
yếu tố cơ bản của bài toán, là yêu cầu đầu tiên khi học sinh tìm hiểu bài toán. Khi
đó xuất hiện các hiện tượng yêu cầu học sinh phải tư duy tích cực, phân tích, sàng
lọc từ đó tìm ra phương pháp giải quyết bài toán. Ở bước này giáo viên có nhiệm
vụ hướng dẫn học sinh phân tích, sàng lọc nhằm loại bỏ các yếu tố thừa, các trường
hợp không cơ bản đối với việc giải toán. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh tìm đường lối giải như sau:
Cần xem bài toán này thuộc dạng mẫu hay dạng điển hình nào ? Xét xem
bài toán đã cho có tương tự bài toán đã biết cách giải hay không ?
Hãy phân tích bài toán đã cho thành các bài toán đơn (nếu là toán hợp) bằng
phương pháp suy luận từ cuối.
Ví dụ: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng
thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu? (BT2- SGKT3 –
trang 50).
Bước 1: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng
thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi thùng thứ hai đựng bao nhiêu lít dầu?
Bước 2: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng 24 lít dầu. Hỏi
cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?
Có thể minh họa bằng sơ đồ sau:
Bước 1
Bước 2
18 lít
18 lít
Thùng 1:

6 lít

Thùng 2:

Thùng 1:


? lít

Thùng 2:
? lít

24 lít

1.1.3. Trình bày bài giải:
Nội dung của bước này là đi ngược lại bước 2, đi từ cái đã cho đến cái phải
tìm. Mỗi phép tính phải ghi câu lời giải kèm theo. Cuối cùng ghi đáp số để trả lời
đúng cho câu hỏi của bài toán.
Bài giải
Số lít dầu ở thùng thứ hai là:
18 + 6 = 24 (l)
Số lít dầu cả hai thùng là:
18 + 24 = 42 (l)
Đáp số: 42 lít dầu
1.1.4. Kiểm tra, đánh giá:
Đây cũng là bước quan trọng, Sau khi tiến hành song 3 bước học sinh hay bỏ
qua bước này. Vì thế nên có những học sinh làm xong bài giáo viên hỏi: “ Em có
tin chắc rằng kết quả bài của mình đúng không ?” thì một số em còn lúng túng. Vì
6


vậy yêu cầu cần đạt được là phải làm sao phát huy được tinh thần trách nhiệm và
lòng tin vào kết quả tìm được.
Đánh giá kết quả là động lực thúc đẩy các em cố gắng tìm ra cách giải khác
nhau để thực hiện yêu cầu bài toán.
Kiểm tra là nhằm phát hiện những sai sót nhầm lẫn trong quá trình tính

toán, suy luận.
Sau khi giải xong bài toán, giáo viên cần khuyến khích học sinh Bằng cách
Hỏi: Em có thể giải bài toán bằng cách khác được không ? Từ bài toán này rút ra
được kinh nghiệm, nhận xét. Đặt ra được cách giải bài toán khác như thế nào? Giải
quyết chúng ra sao?
1.2. Vận dụng quy trình chung để giải các bài toán ở mỗi dạng:
Để giúp học sinh biết vận dụng quy trình giải toán có lời văn ở mỗi dạng
trong SGK toán 3. Tôi chọn một số ví dụ điển hình cho dạng đang đề cập tới:
Dạng 1: Bài toán giải bằng hai phép tính
Ví dụ 1: (Bài số 2 SGK Toán 3 - trang 51)
Một thùng đựng 24 lít mật ong, lấy ra

số lít mật ong đó. Hỏi trong thùng

còn lại bao nhiêu lít mật ong ?
Dụng ý của bài tập này nhằm giúp học sinh vận dụng tri thức vừa học, lí
thuyết mà giáo viên vừa cung cấp thông qua luyện tập thực hành rèn kĩ năng giải
toán.
Cách rèn luyện: Để học sinh vận dụng linh hoạt và có sáng tạo cách giải
đúng, biết trình bày bài giải giáo viên cần giúp học sinh thấy được phần trừu tượng
của bài toán. Tìm số lít mật ong lấy ra trong thùng đó, sau đó thực hiện phép tính
24 : 3 = 8, cuối cùng ghi tên đơn vị vào sau kết quả. Để biết được số lít mật ong
còn lại ta phải làm thế nào ? Học sinh thực hiện phép trừ 24 – 8 =16.
Ở phần này, nếu giáo viên không giúp thì sẽ có một số học sinh dễ nhầm lẫn
phép tính cộng. Vậy để các em giải đúng theo quy trình đã hướng dẫn, các em làm
theo 4 bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề (Học sinh đọc thật kĩ đề toán)
Hỏi: Bài toán cho biết gì? (Có 1 thùng đựng 24 lít mật ong, lấy ra

số lít


mật ong trong thùng đó.)
Hỏi: Bài toán hỏi gì? (Trong thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong?)
Học sinh tóm tắt
Tóm tắt
24 lít

?l
7


Bước 2: Tìm đường lối giải
Muốn tìm số lít mật ong lấy ra từ thùng mật ong đó ta phải làm như thế nào?
Lấy ra là mấy phần? (một phần), còn lại mấy phần? (hai phần). Học sinh thực hiện
phép tính (24 : 3 = 8 (l)). Đã biết mỗi phần là 8 lít thì số còn lại là bao nhiêu? (học
sinh thực hiện phép tính trừ 24 - 8 = 16 (l))
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Số lít mật ong đã lấy ra là:
24 : 3 = 8 (l)
Số lít mật ong còn lại là:
24 - 8 = 16 (l)
Đáp số: 16 lít mật ong
Bước 4: Kiểm tra, đánh giá
Thử lại: 24 : 3 = 8 ;
8 × 3 = 24,
24 : 3 = 8 (đúng)
24 – 8 = 16 ; 16 + 8 = 24,
24 – 8 = 16 (đúng)
Dựa vào bài toán trên (VD1), tôi có thể thay đổi dữ kiện để biến đổi thành

một số bài toán mới nhằm phát triển được kĩ năng giải toán, kĩ năng vận dụng, kĩ
năng suy nghĩ linh hoạt của học sinh để hình thành kĩ xảo giải toán.
Bài toán mới: Một thùng đựng 28 lít mật ong, lấy ra

số lít mật ong đó. Hỏi

trong thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong?
Ví dụ 2: (Bài số 2 SGK Toán 3 - trang 52)
Bác An nuôi 48 con thỏ, bán đã bán đi

số con thỏ đó. Hỏi bác An còn lại

bao nhiêu con thỏ?
Dụng ý của bài tập này: Giúp học sinh biết thao tác giải toán theo các bước
giải, biết trình bày bài giải đúng, nhanh, chính xác.
Học sinh nhận diện bài toán thuộc dạng toán nào? (Dạng toán hợp giải bằng
2 phép tính). So với các bài toán đã giải bài toán này có điểm nào giống nhau? (Số
“lấy ra”; số “bán đi” là 2 thuật ngữ mang nghĩa toán học tương đương mà ở đây
đều được chọn là phép tính chia).
Bước 1: Học sinh đọc kĩ đề toán, phân tích đề, tóm tắt bài toán.
Có mấy con thỏ? (48 con)
Đã bán đi:

con thỏ), nghĩa là có 6 phần bán đi 1 phần.
Tóm tắt

Có :
Bán đi:

48 con

? con
8


Bước 2: Tìm đường lối giải
Hỏi: Muốn tìm số thỏ đã bán đi ta phải làm như thế nào? (HS chọn phép tính
và thực hiện phép tính 48 : 6 = 8(con)) (HS làm trên giấy nháp)
Hỏi: Số con thỏ còn lại là bao nhiêu? (HS chọn phép tính và thực hiện:
48 – 8 = 40 (con) ) (HS thực hành trên giấy nháp)
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Số thỏ đã bán đi là :
48 : 6 = 8 (con)
Số thỏ còn lại là:
48 - 8 = 40 (con)
Đáp số: 40 con thỏ
Bước 4: Thử lại :
48 : 6 = 8;
8 × 6 = 48;
48 : 6 = 8 (đúng)
48 - 8 = 40; 40 + 8 = 48,
48 - 8 = 40 (đúng)
Như vậy qua ví dụ 2 học sinh đã biết vận dụng quy trình giải bài toán có đầy
đủ câu lời giải, phép tính tương ứng đúng theo 4 bước giải.
Dạng 2: Giải các bài toán có nội dung hình học
Các bài toán trong dạng này dụng ý nhằm giúp các em biết cách giải bài toán
có liên quan về hình học. Thông qua rèn luyện thực hành để phát triển năng lực
học toán, giải được các bài toán trong SGK và trong đời sống thực tiễn (về cách
tính chu vi của một số hình học).
Ví dụ 1: (Bài số 2, SGK Toán 3 - trang 87)

Một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài 35m, chiều rộng 20m. Tính chu vi
mảnh đất đó?
Dụng ý của bài toán này: Nhằm vận dụng quy tắc tính chu vi hình chữ nhật
cho học sinh; Học sinh thành thạo giải toán thông qua luyện tập thực hành; hiểu
được mối quan hệ giữa các đơn vị đo.
Bước 1: Tìm hiểu đề: Học sinh đọc kĩ đề toán
Hỏi: Bài toán cho biết những gì? (Số đo của các cạnh, chiều dài: 35m; chiều
rộng: 20 m)
Hỏi: Bài toán yêu cầu gì? (Tính chu vi mảnh đất đó)
35m
Tóm tắt: Chiều dài:
35 m
Chiều rộng:
20 m
20m
Chu vi mảnh đất: ...? m
9


Bước 2: Tìm đường lối giải
Hỏi: Muốn tính được chu vi của mảnh đất hình chữ nhật (HCN) ta làm thế
nào? (lấy số đo chiều dài cộng với số đo chiều rộng rồi nhân với 2) lưu ý cùng một
đơn vị đo.
Từ công thức tính chu vi hình chữ nhật (a + b) × 2, giáo viên có thể giúp
học sinh vận dụng thành thạo cách tính và tìm lời giải đúng, chính xác, phù hợp
với yêu cầu của đề toán đặt ra.
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Chu vi mảnh đất hình chữ nhật đó là
(35 + 20) × 2 = 110 (m)

Đáp số: 110m
Bước 4: Thử lại :
(35 + 20) × 2 = 110; 20 + 35 = 55
55 × 2 = 110 (đúng)
Dựa vào bài toán trên tôi có thể phát triển thành các bài toán mới bằng cách
thay đổi dự kiện bài toán (hoặc giả thiết).
Bài toán 1: Cái sân nhà em có chiều dài 12m, chiều rộng bằng 9m. Tính chu
vi cái sân đó?
Bài toán 2: Mảnh vườn nhà em hình chữ nhật có chiều dài 30m, chiều rộng
bằng

chiều dài. Tính chu vi của mành vườn đó?

Từ bài toán giải bằng một phép tính biến đổi thành bài toán giải bằng hai
phép tính.
Ví dụ 2: (Bài số 2, SGK Toán 3- trang 89)
Khung của một bức tranh hình vuông có cạnh 50 cm. Hỏi chu vi khung bức
tranh đó là bao nhiêu mét?
Dụng ý của bài tập này: Nhằm giúp học sinh thành thạo trong việc áp dụng
công thức tính chu vi hình vuông thông qua luyện tập giải toán, học sinh biết được
mối quan hệ đo độ dài (hơn, kém nhau bao nhiêu đơn vị).
Bước 1: Tìm hiểu đề
Cho học sinh đọc thật kĩ đầu bài toán.
- Bài toán đã cho biết cái gì? (Cạnh của khung bức tranh là 50 cm).
- Bài toán yêu cầu tìm gì? (chu vi của khung bức tranh).
Muốn tìm chu vi hình vuông ta phải làm như thế nào? (Ta lấy độ dài một
cạnh nhân với 4), học sinh thực hiện phép tính nhân 50 × 4 = 200 (cm).
Bước 2: Tìm đường lối giải
Biết cạnh của hình vuông (khung) là 50 cm.
Yêu cầu tính chu vi khung hình vuông bằng mét, học sinh phải đổi đơn vị

đo 50cm ra m, hoặc sau khi trình bày xong phép tính 50 × 4 = 200 cm rồi mới đổi
để bài toán dễ hơn. Giáo viên gợi ý học sinh tìm được chu vi khung bức tranh rồi
mới đổi ra m.
10


Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Chu vi của khung bức tranh hình vuông là:
50 × 4 = 200 (cm)
Đổi 200 cm = 2 m
Đáp số: 2 m
×
Bước 4: Thử lại: 50 4 = 200 ; 200 : 4 = 50; 50 × 4 = 200 ( đúng)
Dạng 3. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Các bài toán ở dạng này giúp học sinh biết cách giải các bài toán liên quan
đến rút về đơn vị. Từ đó rèn luyện học sinh kĩ năng thành thạo giải được các bài
toán trong SGK Toán 3 và trong thực tiễn cuộc sống.
Ví dụ 1: ( BT2, SGK Toán 3 - trang 128)
Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Dụng ý bài tập này: Nhằm giúp học sinh nắm được quy trình giải sau khi đã
lĩnh hội tri thức vừa học xong. Thông qua luyện tập thực hành rèn luyện kĩ năng
giải toán, hoặc từ một bài toán đã cho biến đổi thành các bài toán mới.
Bước 1: Tìm hiểu bài toán (Học sinh đọc thật kĩ bài toán)
Hỏi: Bài toán đã cho biết gì? (Có 28 kg đựng đều trong 7 bao)
Hỏi: Bài toán yêu cầu chúng ta tìm cái gì? (5 bao đó đựng bao nhiêu kg
gạo?)
Tóm tắt:
7 bao có : 28 kg
5 bao có : . . . kg?

Bước 2: Tìm đường lời giải
Muốn tìm được 5 bao gạo đựng bao nhiêu kg, trước hết ta phải tìm gì? (tìm
xem mỗi bao đựng bao nhiêu kg gạo). Bước này gọi là bước rút về đơn vị. Học
sinh chọn phép tính và thực hiện phép tính: 28 : 7 = 4 (kg)
Đã biết mỗi bao đựng 4kg gạo thì 5 bao gạo đựng bao nhiêu ki-lô-gam ta
phải làm như thế nào? (HS thực hiện phép tính nhân 4 × 5 = 20 (kg)).
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Số ki-lô-gam gạo đựng trong mỗi bao là:
28 : 7 = 4 (kg)
Số ki-lô-gam gạo đựng trong 5 bao là:
4 × 5 = 20 (kg)
Đáp số: 20 kg gạo
Bước 4: Thử lại : 28 : 7 = 4 ;
4 × 7 = 28 ;
28 : 7 = 4 (đúng)
×
4 5 = 20 ;
20 : 5 = 4 ;
4 × 5 = 20 (đúng)
Ví dụ 2: (BT2, SGK Toán 3 - trang 129)
Muốn lát nền 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch. Hỏi muốn lát 7 căn
phòng như thế thì cần bao nhiêu viên gạch?
Bước 1: Tìm hiểu bài toán (Học sinh đọc thật kĩ đề toán)
Nhận diện bài toán thuộc dạng toán nào? (Thuộc dạng toán rút về đơn vị)
11


Cái đã cho? (Lát 6 căn phòng hết 2550 viên gạch))
Cái phải tìm? (Lát 7 căn phòng hết bao nhiêu viên gạch?)

HS tự tóm tắt trên giấy pháp
6 căn phòng: 2550 viên gạch
7 căn phòng : ...viên gạch?
Bước 2: Tìm đường lối giải
Rút về đơn vị : HS thực hiện phép tính chia
Số gạch cần lát một căn phòng: 2550 : 6 = 425 (viên)
Đã biết một căn phòng cần đến 425 viên thì lát 7 căn phòng như thế ta phải
làm như thế nào? Cần bao nhiêu viên gạch?
Học sinh thực hiện phép tính : 425 × 7 = 2975 (viên)
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Mỗi căn phòng lát hết số viên gạch là :
2550 : 6 = 425 (viên)
7 căn phòng lát hết số viên gạch là:
425 × 7 = 2975 (viên)
Đáp số: 2975 viên gạch
Bước 4: Thử lại: 2550 : 6 = 425; 425 × 6 = 2550
2550 : 6 = 425 (đúng)
425 × 7 = 2975; 2975 : 7 = 425
425 × 7 = 2975 (đúng)
Dựa vào bài toán trên (VD 2) tôi có thể dự kiến bài toán biến đổi thành một
số bài toán mới (có dạng rút về đơn vị) nhằm phát triển được tư duy và hình thành
cho các em kĩ năng tiến tới kĩ xảo trong giải toán.
Bài toán mới: Một nhà trường cần lát 9 phòng học như nhau hết 3825 viên
gạch. Hỏi muốn lát 11 phòng học như thế thì hết bao nhiêu viên gạch?
Biện pháp 2: Áp dụng trực tiếp quy trình giải các dạng toán.
Dạng 1: Bài toán giải bằng hai phép tính
Ví dụ 1: (Bài 1, SGK toán 3 - trang 50)
Bài toán: Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh. Hỏi cả
hai anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh?

Dụng ý bài tập này: yêu cầu tất cả học sinh đều giải được.
Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện trên giấy pháp, sau đó cho 1 học sinh
trình bày bài giải theo 4 bước (quy trình giải)
Bước 1: Tìm hiểu đề toán (Học sinh đọc kĩ đề toán, phân tích đề toán, tóm
tắt (sơ đồ đoạn thẳng) mô tả nội dung bài toán)
Tóm tắt
15 bưu ảnh
Anh có:

… bưu ảnh ?

Em có:
…. bưu ảnh?

7 bưu ảnh

12


Bước 2: Tìm đường lối giải
Tìm số bưu ảnh của em (Chọn phép tính và thực hiện phép tính đúng:
15 - 7 = 8 (bưu ảnh))
Tìm số tấm bưu ảnh của 2 anh em. (HS chọn phép tính và thực hiện phép
tính đúng: 15 + 8 = 23 (bưu ảnh))
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Em có số tấm bưu ảnh là:
15 - 7 = 8 (bưu ảnh)
Số bưu ảnh của cả hai anh em là:
15 + 8 = 23 (bưu ảnh)

Đáp số: 23 tấm bưu ảnh
Bước 4: Thử lại: 15 - 7 = 8;
8 + 7 = 15
15 - 7 = 8 (đúng)
15 + 8 = 23;
23 - 8 = 15
15 + 8 = 23 (đúng)
Từ bài toán trên, để học sinh nêu được và giải được bài toán theo sơ đồ, tôi
có thể gợi ý cho học sinh nêu 2 bài toán đơn sau đó tổng hợp lại sẽ có bài toán hợp.
Mục đích để mỗi học sinh đều được hoạt động.
Dạng 2: Giải các bài toán có nội dung hình học
Để các em nắm vững kiến thức và thành thạo trong việc giải các bài toán
liên quan đến yếu tố hình học trong chương trình toán 3 cũng như trong đời sống
thực tiễn tôi đưa ra một số bài tập để rèn kĩ năng giải toán cho các em từ đó phát
triển tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng bước đầu về hình học tạo đào cho học sinh
tiếp tục học ở các lớp trên tốt hơn.
Ví dụ 1: (Bài 1, SGK Toán 3- trang 89)
Tính chu vi hình chữ nhật có: a/ Chiều dài: 30 m, chiều rộng: 20m
b/ Chiều dài: 15cm, chiều rộng: 8cm
Dụng ý bài tập này nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức áp dụng quy tắc,
công thức để tính chu vi của hình chữ nhật với kích thước cho trước.
Để giúp học sinh giải các bài toán theo 4 bước tôi gợi ý theo các yếu tố sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề (Học sinh đọc kĩ đề bài để nắm dự kiện bài toán đã cho)
a/ Chiều dài: 30m; chiều rộng: 20m
b/ Chiều dài: 15cm; chiều rộng: 8cm
Cái phải tìm: Chu vi
Bước 2: Tìm đường lối giải
a/ Áp dụng công thức: Học sinh thực hiện phép tính:
(30 + 20) × 2 = 100(m)
b/ Áp dụng công thức: Học sinh thực hiện phép tính:

(15 + 8) × 2 = 46 (cm)
13


Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
a.
Chu vi hình chữ nhật là
(30 + 20) × 2 = 100 (m)
Đáp số: 100m
Thử lại: (30 + 20) × 2 = 100; 100 : 2 = 50; 50 × 2 = 100 (đúng)
b. Tương tự câu (a) học sinh tự trình bày bài giải câu b
Bước 4: Học sinh tự kiểm tra việc tính toán của mình
Yêu cầu tất cả học sinh đều giải được.
Ví dụ 2: (Bài 3, SGK toán 3 - trang 89)
Tính cạnh hình vuông, biết chu vi hình vuông là 24cm.
Dạng bài tập này giúp học sinh phát hiện ra cách giải mới (tính ngược với
bài 1 trang 89)
Giáo viên: Gợi ý từ công thức tính chu vi hình vuông: a × 4 ta suy ra được
cách tính cạnh của hình vuông: “Lấy chu vi: 4 (cạnh)”.
Học sinh thực hiện phép tính: 24 : 4 = 6 (cm)
Tự trình bày bài giải:
Bài giải
Độ dài của cạnh hình vuông là:
24 : 4 = 6(cm)
Đáp số: 6cm
Thử lại: 24 : 4 = 6;
6 × 4 = 24,
24 : 4 = 6 (đúng)
Ví dụ 3: (Bài 3, SGK Toán 3 - trang 89)

Tính chiều dài hình chữ nhật, biết nửa chu vi hình chữ nhật là 60m và chiều
rộng là 20m
Tóm tắt
Chiều dài ... m ?

Chiều rộng

Nửa chu vi :

20m
60m

Bước 1: Theo tóm tắt: Nửa chu vi hình chữ nhật được biểu thị bằng một
đoạn thẳng dài 60m; trong đó chiều rộng là một đoạn thẳng gồm 20m. Chiều dài là
phần còn lại, cần phải tìm.
Bước 2: Chu vi hình chữ nhật được tính theo công thức: (a + b) × 2; mà nửa
chu vi bằng a + b. Như vậy: “Muốn tìm độ dài của một cạnh ta lấy số đo nửa chu
vi trừ đi số đo cạnh đã biết”. Bài toán này cho biết nửa chu vi là 60 m và chiều
rộng là 20 m. Học sinh thực hiện phép tính: 60 - 20 = 40 (m).
Từ công thức: (a + b) × 2, ta suy ra được:
Chiều dài = nửa chu vi - chiều rộng.
Chiều rộng = nửa chu vi - chiều dài
Bước 3:
Bài giải
14


Chiều dài của hình chữ nhật là
60 - 20 = 40 (m)
Đáp số: 40 m

Bước 4: Thử lại: 60 - 20 = 40; 40 + 20 = 60, 60 - 20 = 40 (đúng)
Bài tập này giúp học sinh phát triển nâng cao về kiến thức và biết suy luận
từ công thức cơ bản để rút ra cách tìm các yếu tố khác theo yêu cầu của đề toán đặt
ra.
Dạng 3: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Để học sinh có kĩ năng giải các bài toán này được thành thạo tôi đưa ra một
số bài tập để rèn kĩ năng giải toán cho các em được tốt hơn.
Ví dụ : (BT2, SGK Toán 3 - trang 129)
Bài toán: Có 2135 quyển vở được xếp vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng đó có bao
nhiêu quyển vở?
Bước 1: Bài toán cho biết gi? (có 2135 quyển vở được xếp 7 thùng)
Bài toán yêu cầu tìm gì? (5 thùng đựng được bao nhiêu quyển vở)
Bước 2: Tính số vở trong mỗi thùng: 2135 : 7 = 305 (quyển)
Tính số vở trong 5 thùng:
305 × 5 = 1525 (quyển)
Bước 3:
Bài giải
Số vở trong mỗi thùng là:
2135 : 7 = 305 (quyển)
Số vở trong 5 thùng là:
305 × 5 = 1525 (quyển)
Đáp số: 1525 quyển vở
Bước 4: Thử lại: 2135 : 7 = 305; 305 × 7 = 2135; 2135 : 7 = 305 (đúng)
305 × 5 = 1525; 1525 : 5 = 305; 305 × 5 = 1525
(đúng)
Từ bài toán trên tôi có thể thay đổi dự kiện để biến đổi thành bài toán mới
Bài toán mới: Có 2556 quyển sách được xếp vào 9 thùng. Hỏi 6 thùng đã có
bao nhiêu quyển sách?
Biện pháp 3: Ứng dụng việc giải các bài tập trong sách giáo khoa Toán
3 vào thực tiễn đời sống.

Để rèn luyện kĩ năng giải toán thành kĩ xảo giải toán cho học sinh tôi đã lựa
chọn một số bài tập mang tính điển hình cho mỗi dạng toán có lời văn trong SGK
Toán 3 cũng như bài toán trong thực tiễn đời sống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
các em trong cách học môn Toán khoa học hơn, đặc biệt là với những học sinh có
năng khiếu học toán là cơ hội để bộc lộ tài năng của mình.
Dạng 1: Các bài toán giải bằng hai phép tính
Ví dụ 1: (Bài 3, SGK toán 3- trang 88)
Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép
bởi 3 viên gạch (xem hình vẽ)
Đây là bài toán hợp có yếu tố hình học.
15


Bài giải

20cm
Cách 1:
20cm

Chiều dài hình chữ nhật là
20 × 3 = 60 (cm)

Giáo viên gợi ý: chiều rộng của hình
Chu vi hình chữ nhật là
chữ nhật chính là số đo cạnh của hình
(60 + 20) × 2 = 160 (cm)
vuông ban đầu. Vậy chiều dài của hình
Đáp số: 160cm
chữ nhật bằng 3 lần cạnh của hình
vuông.

Có thể giải bằng cách khác: Chu vi của Cách 2:
Bài giải
hình chữ nhật bằng 8 lần số đo của cạnh
Chu vi hình chữ nhật là:
hình vuông.
20 × 8 = 160 (cm)
Đáp số: 160 cm
Như vậy cách giải thứ hai giúp học sinh khả năng tư duy có sáng tạo trong
cách làm tiết kiệm được thời gian.
Ví dụ 2: (Bài 3, SGK Toán 3 - trang 60)
Một người nuôi 42 con thỏ. Sau khi đã bán đi 10 con, người đó nhốt đều số
còn lại vào 8 chuồng. Hỏi mỗi chuồng đó nhốt mấy con thỏ?
Đây là bài toán hợp có yếu tố số học, học sinh trình bày 2 cách
Cách 1:
Bài giải
Sau khi đã bán số thỏ còn lại là:
42 - 10 = 32 (con)
Số thỏ trong mỗi chuồng là:
32 : 8 = 4 (con)
Đáp số: 4 con thỏ
Cách 2:
Bài giải
Số thỏ trong mỗi chuồng là
(42 - 10) : 8 = 4 (con)
Đáp số: 4 con thỏ
Dựa vào bài toán trên tôi có thể phát triển thành các bài toán mới bằng cách
thay đổi dự kiện bài toán.
Bài toán mới: Nhân ngày 20/11, hai chị em Hoà và Cúc rủ nhau hái hoa để
tặng cô giáo. Hoà hái được 18 bông hoa. Cúc hai được số hoa bằng


số hoa của

Hoà. Hỏi hai bạn hái được bao nhiêu hoa?
Tương tự học sinh giải bài toán này được thực hiện bằng một phép tính chia
và một tính cộng (18 : 3 = 6); (18 + 6 = 24) danh số được ghi sau kết quả phép tính
là “bông”.
Dạng 2: Giải các bài toán liên quan hình học
Ví dụ 1: (Bài 3, SGK Toán 3 - trang 90)
16


Tính chu vi vườn cây ăn quả hình chữ nhật có chiều dài là 100 m, chiều rộng
là 60 m.
HS vận dụng giải các bài toán theo 4 bước như trên
Bước 1: Học sinh đọc kĩ đề toán, phân tích đề toán, tóm tắt (sơ đồ đoạn
thẳng) mô tả nội dung bài toán.
Bước 2: Tìm đường lối giải
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Chu vi mảnh vườn hình chữ nhật
(100 + 60) × 2 = 320 (m)
Đáp số: 320 m
Bước 4 : Thử lại
Bài toán mới: Mảnh vườn trồng ngô nhà em có chiều dài bằng 450 m, chiều
rộng bằng chiều dài. Tính chu vi mảnh vườn đó.
Dạng 3: Các bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Ví dụ : (BT1, SGK Toán 3 - trang 128)
Bài toán: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao
nhiêu viên thuốc?
Dụng ý bài tập này giúp học sinh vận dụng quy tắc để giải đúng bài toán

theo 4 bước giải.
Bước 1: Học sinh đọc kĩ bài toán, xác định được đây là dạng toán liên quan
đến rút về đơn vị.
Bước 2: Học sinh chọn phép tính và thực hiện phép tính: 24 : 4 = 6 (viên)
3 vỉ như thế thì có bao nhiêu viên? (HS thực hiện phép tính: 3 × 6 = 18 (viên)
Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải
Số viên thuốc trong mỗi vỉ là:
24 : 4 = 6 (viên)
3 vỉ thuốc có số viên là:
3 × 6 = 18 (viên)
Đáp số: 18 (viên)
24 : 4 = 6;
6 × 4 = 24;
24 : 4 = 6 (đúng)
3 × 6 = 18; 18 : 6 = 3;
3 × 6 = 18 (đúng)
Bài toán mới : Trong vườn có 450 cây cam được trồng thành 9 hàng. Hỏi 7
hàng đó có bao nhiêu cây cam?
Học sinh tự giải:
Bài giải
Số cây cam trong mỗi hàng là:
450 : 9 = 50 (cây)
Số cây cam trong 7 hàng là:
50 × 7 = 350 (cây)
Đáp số: 350 cây cam
Bước 4: Thử lại

17



Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng giải toán và cách trình bày bài giải các bài
toán trong SGK và các bài toán trong thực tiễn đời sống như trên đã giúp cho học
sinh huy động những kiến thức đã học vào thực hành giải toán, bằng các phương
pháp giải, bằng nhiều cách giải mà chọn cho mình con đường ngắn nhất, hay nhất
để đi đến kết quả của bài toán. Từ đó tạo điều kiện cho các em biết vận dụng các
kiến thức kĩ năng, kĩ xảo để giải toán. Ví dụ như các em biết tính được chu vi một
số hình, tính được một số nền nhà, sân, vườn, bảng lớp, tính được số gạch cần lát
nền nhà ở… đồng thời tạo cơ hội cho học sinh có năng khiếu học toán bộc lộ được
khả năng của mình.

4. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục
Để kiểm nghiệm tính khả thi của các biện pháp rèn luyện kĩ năng giải toán
có lời văn đã nêu trên, tôi đã tiến hành bằng các tiết dạy ở lớp 3A. Sau một thời
gian sử dụng các biện pháp trên vào dạy học, tôi ra đề kiểm tra khảo sát chất
lượng, kết quả đạt như sau:
Tổng
số

24 em

HS có lời giải và
phép tính đúng,
trình bày khoa học

HS có lời giải và
phép tính đúng, trình
bày chưa khoa học

HS có phép tính

đúng mà lời giải
chưa hợp lí

HS chưa giải
được bài toán

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

13 em

54,2%

6 em

25%


5 em

20,8%

0

0

Tôi nhận thấy: Chất lượng học sinh giải toán có lới văn lớp tôi dạy thực
nghiệm được nâng lên rõ rệt. Nội dung kiến thức các bài đáp ứng được mục tiêu
của chương trình, nhất là đáp ứng được sự đổi mới phương pháp dạy học và nâng
cao chất lượng. Các em đã tự tin hơn trong quá trình giải toán, nắm được các dạng
toán cơ bản, cách giải từng dạng bài và biết giải một số bài dạng tổng hợp nâng
cao. Giờ học toán các em sôi nổi hơn, thú vị hơn. Có nhiều em đã biết vận dụng
linh hoạt những kiến thức đã học vào giải toán trong thực tế. Các em đã tìm ra
nhiều cách giải đi đến đáp số, luôn tự tin, chủ động, tích cực tìm hiểu và khám phá
kiến thức. Tạo đà để các em học tốt môn toán cho những năm tiếp theo.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình giảng dạy và vận dụng một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán
có lời văn, tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Giáo viên cần nắm vững nội dung kiến thức chương trình bộ môn toàn cấp,
hiểu rõ dụng ý của sách giáo khoa, hiểu sâu bản chất của từng mạch kiến thức.
Tham gia đầy đủ các chuyên đề, thường xuyên dự giờ của đồng nghiệp để đúc rút
kinh nghiệm cho bản thân. Luôn tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ, cập
nhật kiến thức, dạy đúng phương pháp bộ môn theo hướng đổi mới của chuyên đề.
18



Không chỉ chú trọng việc giải quyết các bài tập trong sách giáo khoa mà
phải giúp học sinh liên hệ kiến thức vào thực tế để gây hứng thú học tập cho các
em.
Nên chọn số lượng bài tập vừa đủ để có điều kiện khắc sâu các kiến thức
được vận dụng và phát triển các năng lực tư duy cần thiết trong giải toán.
Nên sắp xếp các bài tập thành một chùm bài tập có liên quan với nhau. Có
thể nâng cao dần yêu cầu bài tập.
Có hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh tự tìm ra phương pháp giải cho
từng dạng toán.
Giáo viên cần nắm vững khả năng tiếp thu vận dụng kiến thức của học sinh
để tìm ra học sinh cần gì, thiếu gì khi học.
Khi tổ chức hướng dẫn học sinh học phải để các em tự hoạt động, tự làm
bài, giáo viên chỉ là người hướng dẫn và giúp đỡ.
Giáo viên luôn động viên, khuyến khích khi các em làm bài bằng các cách
khác nhau.
2. Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Toán nói chung, các kiến thức về giải
toán có lời văn của lớp 3 nói riêng và để đáp ứng được nhu cầu học tập của học
sinh cũng như nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay, vấn đề cơ sở vật chất có vai
trò rất quan trọng. Vì vậy tôi mạnh dạn đề xuất nhà trường tham mưu với các cấp
lãnh đạo trang bị thêm cơ sở vật chất lớp học. Mỗi phòng học nên có một máy
chiếu để giúp cho giáo viên có thể trình chiếu các hình ảnh trực quan góp phần làm
cho các tiết học sinh động hơn và gây hứng thú học tập cho học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà tôi rút ra từ thực tế giảng dạy môn
Toán lớp 3. Rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các nhà quản lí Giáo dục,
các bạn đồng nghiệp để những kinh nghiệm trên được áp dụng rộng rãi nhằm nâng
cao chất lượng dạy học nói chung và của môn Toán nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 11 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

NGƯỜI VIẾT

Lê Thị Thanh

19


MỤC LỤC
Tên mục

Trang

I

PHẦN MỞ ĐẦU

1

Lí do chọn sáng kiến

1

2

Mục đích nghiên cứu


2

3

Đối tượng nghiên cứu

2

4

Phương pháp nghiên cứu

2

II

NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1

Cơ sở lí luận

2

2

Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3


3

Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề

4

4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục

17

III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1

Kết luận

17

2

Kiến nghị

18

20




×