Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học các bảng nhân và chia ở lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.55 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU

a. Lí do chọn đề tài
Cùng với các môn học khác ở Tiểu học, môn Toán có một vị trí hết sức
quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng
trong cuộc sống, chúng cần thiết cho người lao động, cần thiết cho các môn học
khác. Nó góp phần to lớn vào sự phát triển tư duy, trí tuệ của con người. Đồng
thời góp phần hình thành các phẩm chất cần thiết, quan trọng cho người lao
động.
Thực tế tôi thấy rằng ở môn Toán: Những yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ
năng có liên quan đến số tự nhiên; cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên; số thập
phân; các đại lượng cơ bản; các yếu tố hình học đều là những kiến thức và kĩ
năng rất cơ bản, cần thiết trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong học tập của
học sinh; Đối với môn Toán ở lớp 2 mục tiêu dạy học được cụ thể hoá thành
những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng ở các nội dung: Số học số và phép
tính); đại lượng và đo đại lượng; các yếu tố hình học; giải toán có lời văn (một
số yếu tố đại số được tích hợp ở nội dung số học). Chương trình Toán lớp 2 là
một bộ phận của chương trình Toán Tiểu học và là sự tiếp tục của chương trình
Toán lớp 1.
Như chúng ta đã biết theo chương trình chuẩn kiến thức và kĩ năng của Bộ
Giáo dục hiện nay thì việc dạy học các kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở
Tiểu học nói chung, ở lớp 2 nói riêng, đặc biệt là phần dạy học các bảng nhân,
bảng chia đó là sự kế thừa có nhiều ý tưởng mới: Học sinh tự tìm tòi, phát hiện
và tự chiếm lĩnh kiến thức mới trong từng bài học, tăng thực hành vận dụng, sử
dụng nội dung gần gũi với thực tế cuộc sống đời thường của học sinh. Sự lựa
chọn nội dung và phương pháp hiện đại thiết thực của giáo viên trong dạy học sẽ
góp phần giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí,
hình thành phương pháp tự học, tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề và tự chiếm
lĩnh kiến thức mới dựa trên sự dẫn dắt của người thầy.
Vậy làm thế nào để chất lượng dạy học môn Toán ở lớp 2 đạt hiệu quả cao
đáp ứng với nhu cầu phát triển của xã hội. Đó là niềm trăn trở của tôi bấy lâu


nay. Vì vậy mà tôi quyết định lựa chọn cho mình một đề tài nghiên cứu: “Một
số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học các bảng nhân và bảng chia ở
lớp 2”.
b. Mục đích nghiên cứu.
Xuất phát từ những trăn trở trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ và quyết định
tìm hiểu, đưa ra những biện pháp dạy học và vận dụng những kinh nghiệm về
dạy học các bảng nhân, bảng chia ở lớp 2, nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn toán lớp 2 trong nhà trường.

1


c. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng để thực hiện đề tài này là hoạt động học tập của học sinh lớp 2A
nói riêng và học sinh khối 2 trong trường nói chung năm học 2015 – 2016.
Sĩ số học sinh lớp 2A: 22
Trong khuôn khổ đề tài tôi xin trình bày nội dung cơ bản dạy học các bảng
nhân, bảng chia cho học sinh lớp 2 nơi trường tôi đang công tác.

d. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và nghiên cứu những tài liệu liên quan
đến những vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát điều tra: Phân tích hệ thống hóa tài liệu thu thập được.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức dạy học thực nghiệm để kiểm tra tính khả
thi và hiệu quả của việc dạy học các bảng nhân và bảng chia ở lớp 2.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: GV rút kinh nghiệm, tổng kết thành bài
học cơ bản.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

Chương trình toán lớp 2 là một bộ phận của chương trình toán Tiểu học và
là sự tiếp tục của chương trình toán lớp . Chương trình này kế thừa và phát triển
những thành tựu lớp 2 ( cũ) ở nước ta, thực hiện những đổi mới về cấu trúc nội
dung để tăng cường và ứng dụng kiến thức mới, chú trọng phát triển toàn diện,
chủ động, sáng tạo cho học sinh thích ứng với xã hội hiện đại và công nghiệp
hóa.
Học thuộc các bảng nhân, bảng chia lớp 2, các em mới biết làm tính nhân
đó là một trong kĩ năng tính toán cơ bản và quan trọng trong các kĩ năng thực
hành tính toán, khi học toán không chỉ ở Tiểu học mà ở các lớp, các cấp cao
hơn. Nó cũng là công cụ tính toán theo các em trong suốt cuộc đời. Chính vì lẽ
đó mà học bảng nhân, bảng chia là tiền đề giúp các em hình thành kĩ năng, kĩ
xảo trong học toán 2.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Qua một vài năm được trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, đồng thời qua dự
giờ đồng nghiệp, với học sinh ở trường nơi tôi đang công tác về chất lượng dạy
học môn Toán ở lớp 2. Tôi nhận thấy phần dạy học các bảng nhân, chia còn có
một số hạn chế như: Hạn chế về phương pháp dạy của giáo viên ( do GV tuổi đã
cao), phương pháp học của học sinh, sự chuẩn bị bài của học sinh, sự quan tâm

2


đến việc học của phụ huynh học sinh đối với con em họ dẫn đến chất lượng học
môn Toán chưa cao.
Trường tôi có 10 lớp. Trong đó có 2 lớp năm, 2 lớp bốn, 2 lớp ba, 2 lớp hai
và 2 lớp một. Hai lớp tôi chọn làm đối tượng nghiên cứu là lớp 2A và lớp 2B.
Lớp: 2A: Tổng số học sinh: 22 em do cô G phụ trách; tuổi nghề: 26 năm;
Trình độ đào tạo: CĐSP.
Lớp: 2B: Tổng số học sinh: 21 em do cô Nh phụ trách; tuổi nghề: 29 năm;
Trình độ đào tạo: CĐSP.

Tất cả học sinh ở cả 2 lớp đều là con các gia đình nông nghiệp, phần đông
các em đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập, lực học tương đối đồng đều.
Kết quả dự giờ khảo sát chất lượng dạy học các bảng nhân, bảng chia của
học sinh khối 2 ( đầu năm học - tháng 9) năm học 2014 - 2015:
Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

2A: 22 HS

3


13.6

6

27.3

11

50.0

2

9.1

2B: 21 HS

1

4.7

4

19.0

12

57.3

4


19.0

Lớp

Điểm 3 - 4

Chất lượng học các bảng nhân, chia của học sinh khối 2 năm học trước
được tổng hợp qua bảng trên.
Đứng trước thực trạng đó, trong năm học 2015 - 2016 này để chất lượng
dạy học các bảng nhân và bảng chia lớp 2 đạt kết quả cao hơn. Tôi đã mạnh dạn
đưa ra một vài sáng kiến nhỏ về phương pháp dạy học và đã áp dụng vào giảng
dạy trong lớp, khối, ở trường Tiểu học nơi tôi đang công tác.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Xuất phát từ thực trạng trên tôi đã tiến hành áp dụng 3 giải pháp sau:
Giải pháp 1: Nghiên cứu lí thuyết để vận dụng vào giảng dạy bảng nhân,
bảng chia trong toán lớp 2.
Giải pháp 2: Dự giờ chỉ đạo đồng nghiệp trong tổ, khối có kế hoạch cụ thể
cho từng tiết dạy, có nhận xét góp ý sau mỗi tiết dạy.
Giải pháp 3: Lập kế hoạch dạy học cho một tiết dạy bảng nhân 3.( Tuần
20).

3


Sau khi tìm hiểu đánh giá thực trạng dạy- học về các bảng nhân, bảng chia
toán 2 tôi đã tiến hành chỉ đạo chuyên môn và đưa ra những giải pháp dạy học
để nâng cao chất lượng dạy về mạch kiến thức bảng nhân, bảng chia toán 2 như
sau.
Giải pháp 1: Nghiên cứu lí thuyết để vận dụng vào giảng dạy bảng
nhân, bảng chia trong toán lớp 2.

Nội dung dạy học các phép nhân và phép chia ở lớp 2 được cụ thể hoá bao
gồm các nội dung sau:
1. Ý nghĩa của phép nhân và phép chia
1.1: Phép nhân: Do đặc điểm tâm lí và sự phát triển tư duy của học học sinh
Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 2 mà khi đưa ra về ý nghĩa của phép nhân
chúng ta đã áp dụng phương pháp “từ cụ thể đến trừu tượng rồi đến thực tiễn.”
Nên chúng ta nói rằng phép cộng các số hạng bằng nhau là phép nhân ( × ).
Chẳng hạn: khi hình thành các phép nhân các số lớn hơn 1 được hình thành cụ
thể như sau:
Lấy 3 nhóm mỗi nhóm 2 chấm tròn, gộp 3 nhóm lại được tất cả 6 chấm
tròn. Ta nói 2 chấm tròn lấy 3 lần được 6 chấm tròn hay đọc là 2 nhân 3 bằng 6;
viết 2 × 3 = 6. Tích của 2 và 3 là 6 hay 6 là tích của 2 và 3.
Sau đó giáo viên giới thiệu tiếp 2 chấm tròn lấy 1 lần được 2 chấm tròn hay 2 ×
1= 2; 2 chấm tròn lấy 0 lần được 0 chấm tròn hay 2 × 0 = 0.
Như vậy chỉ trừ hai trường hợp phép nhân với 1 và phép nhân với 0 là theo
qui ước, Phép nhân với số lớn hơn 1 được hình thành dựa vào các nhóm có cùng
số lượng phần tử tức là dựa vào phép cộng các số hạng bằng nhau. Ưu điểm của
cách hình thành phép nhân này là học sinh dễ dàng tìm ra kết quả. Ví dụ:
2×3 =

2

+

:

2

+


:

2

= 6

:

Với lí do này giải thích tại sao ta chọn cách hình thành phép nhân khác so
với định nghĩa của lí thuyết tập hợp tức là phép nhân số tự nhiên ở Tiểu học
được hình thành dựa vào phép cộng các số hạng bằng nhau. Hay học sinh có thể
dễ dàng hiểu rằng phép cộng các số hạng bằng nhau là phép nhân. Để học sinh
nắm vững ý nghĩa của phép nhân, khi dạy phần này giáo viên cần giúp học sinh
nắm được tên gọi các thành phần và kết quả của phép nhân.
Chẳng hạn:

2
Thừa số

×

3
Thừa số

=

6
Tích

4



Việc nắm vững ý nghĩa thực tiễn của phép nhân hai số tức là giúp các em
biết giải các bài tập dạng: a × x ; x × a = b (a và b là các số bé và phần tìm x là
nhân trong phạm vi bảng tính đã học).
1.2: Phép chia:
Có nhiều cách giới thiệu phép chia. Nhưng cách giới thiệu phép chia đơn
giản nhất là dựa vào các bài toán có dạng sau:
Có 4 ô vuông chia thành 2 phần bằng nhau vừa đếm vừa đặt số ô vuông vào
từng phần 1, 2.
Mỗi phần được 2 ô vuông, đọc: 4 chia cho 2 bằng 2, viết 4 : 2 = 2
4

×

×

×

×

2

Sau khi giới thiệu phép chia phải bắt buộc hướng dẫn học sinh đi đến quan
hệ giữa phép chia và phép nhân (phép chia chính là phép tính ngược của phép
nhân), nhưng không phải phép chia bao giờ cũng thực hiện được như là phép
nhân. Chẳng hạn: a : b = c <=> b × c = a ( b khác 0).
Rõ ràng ngay từ ở lớp 2 thực tế trong dạy học Toán người ta thường lấy quan
hệ trên để định nghĩa phép chia và chúng ta cũng có thể dựa vào đó để xây dựng
một phương án giới thiệu phép chia. Ưu điểm của phương án này là có thể giúp

học sinh tìm ra kết quả của phép chia ngay sau khi giới thiệu xong nó, biết dựa
vào phép nhân để tìm ra kết quả của phép chia. Chẳng hạn:
8:4=2

2 × 4=8

8:2=4
Điều đó chứng tỏ rằng: Giữa phép chia số tự nhiên và các thao tác chia liên
hệ với nhau chặt chẽ. Cũng như ở phép nhân sau khi giới thiệu về ý nghĩa giáo
viên cần chú trọng hướng dẫn học sinh nắm vững tên gọi các thành phần và kết
quả của phép chia. Chẳng hạn:
6

:

3

=

2

Số bị chia
Số chia
Thương
Qua thực tế trên ta thấy rằng phép nhân và phép chia được hình thành cho
học sinh ngay từ ở lớp 2 (bắt đầu từ các phép tính nhân với 2, 3, 4, 5 và các phép
chia cho 2, 3, 4, 5). Nếu chúng ta biết giúp học sinh nắm vững ý nghĩa thực tiễn
của phép nhân và phép chia, mối quan hệ giữa phép nhân và phép chia, giữa
phép nhân và phép cộng các số hạng bằng nhau sẽ làm nền tảng, làm chỗ dựa
vững chắc cho học sinh hoàn thiện tốt bảng nhân, bảng chia ở lớp 3. Mặt khác


5


giúp các em hình thành và phát triển các kĩ năng về nhân chia (viết, nhẩm) trong
phạm vi bảng tính và ngoài bảng tính ở các lớp cao hơn.
2. Bảng nhân, bảng chia - cách lập bảng nhân, bảng chia
2.1: Bảng nhân - cách lập các bảng nhân với 2, 3, 4, 5.
Bảng nhân là bảng sau:
×
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

1
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10

2
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20

3
3
6
9
12
15
18
21
24
27
30

4
4
8

12
16
20
24
28
32
36
40

5
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50

Bảng nhân là bảng ghi lại tất cả kết quả của phép nhân hai thừa số chúng
chạy từ 1
10 trong quá trình dạy học để học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ và dễ
thuộc bảng nhân được tách ra các bảng bộ phận rất quen biết: 1 nhân với một số,
2 nhân với một số, 3 nhân với một số,..., 10 nhân với một số. Ở đây với phạm vi
của một sáng kiến đã chọn nên tôi chỉ đi sâu vào việc tìm hiểu về việc dạy học
các bảng nhân 2, 3, 4, 5.
Để học sinh dễ hiểu, biết lập và nhớ được các bảng nhân chúng ta cần chú ý
hướng dẫn học sinh đi từ trực quan (từ cụ thể) đến trừu tượng tức là từ phép

cộng các số hạng bằng nhau để lập ra các bảng nhân.
Ở đây sách giáo khoa, sách giáo viên cũng như một số tài liệu có liên quan
đến việc dạy học các bảng nhân, bảng chia ở Tiểu học cũng không đề cập đến,
nhưng khi dạy học phần này giáo viên phải biết giúp học sinh hiểu được: ở bảng
nhân với “n” thì tích ở dòng dưới nhiều hơn tích ở dòng trên liền nó “n đơn vị”
để học sinh tự suy ra các dòng còn lại trong mỗi bảng nhân.
Chẳng hạn: Trong bảng nhân 3 thì tích ở dòng dưới nhiều hơn tích ở dòng
trên liền nó 3 đơn vị:
3× 1=3
3× 2=6
3× 3=9

6


Mặt khác khi dạy phép nhân cũng như dạy cách lập bảng nhân chúng ta cũng
không quên dạy cho học sinh biết tính chất giao hoán (thuật ngữ: tính chất giao
hoán chỉ dùng cho giáo viên gọi) của phép nhân (đổi chỗ các thừa số của phép
nhân nhưng tích của chúng không thay đổi), để từ bảng nhân đã học có thể dễ
dàng lập được một số phép tính của bảng nhân khác, chẳng hạn:
2× 4=8

4× 2=8

3 × 5 = 15

5 × 3 = 15 ................................

2.2: Bảng chia - cách lập bảng chia
Chia trong bảng là việc tìm ra kết quả của phép chia dựa vào phép nhân, ví

dụ: Để tính được 32 : 4 = ? ta phải dựa vào bảng nhân 4: (4 × 8 = 32), hoặc
bảng nhân 8 để tính được 32 : 4 = 8 .
Tuy vậy thuật toán chia vẫn là thuật toán khó nhất trong bốn thuật toán cộng,
trừ, nhân, chia. Vì vậy trong quá trình dạy học thuật toán chia cần phải đi chậm
hơn, nghĩa là cũng phải đi thành nhiều bước giống như đối với phép nhân:
Chẳng hạn:
Để tìm ra kết quả của phép chia 12 : 4 = ? Học sinh phải thuộc được phép
nhân có thừa số 4 hoặc phép nhân có thừa số 3, nắm được các thao tác chia:
12 : 4 = 3 vì 3 × 4 = 12 hoặc 4 × 3 = 12.
Chính vì vậy khi dạy phần bảng chia, giáo viên cần giúp học sinh nắm được
những điểm chính quan trọng sau đây:
- Biết dựa vào bảng nhân để lập bảng chia.
- Hiểu được tích tìm được của mỗi bảng nhân chính là các số bị chia trong bảng
chia đó.
- Hiểu được phép chia là phép tính ngược của phép nhân, mối liên hệ giữa phép
nhân và phép chia.
- Sau tiết dạy về bảng chia 2 giúp học sinh hiểu được quy luật lập bảng chia và
biết dựa vào quy luật đó để lập các bảng chia còn lại: Ở bảng chia cho “n” thì số
bị chia ở dòng dưới nhiều hơn số bị chia ở dòng trên liền nó “n đơn vị”, thương
tìm được ở dòng dưới nhiều hơn thương tìm đựơc ở dòng trên liền nó 1 đơn vị.
Tuy nhiên ở phần này khi dạy về số 0 trong phép nhân và phép chia giáo
viên cũng cần giúp học sinh hiểu được: 0 chia cho số nào khác 0 cũng bằng 0.
Nhưng không có phép chia cho 0.
Trong phần dạy học về các phép chia có lồng ghép xen kẽ dạy về các phần
bằng nhau của đơn vị: một phần hai; một phần ba; một phần tư; một phần năm
dựa vào hình ảnh trực quan. Ở dạng bài tập này nhằm mục đích giúp học sinh

7



biết chia một nhóm đồ vật qua những hình ảnh trực quan thành 2, 3, 4, 5 phần
bằng nhau. Khi dạy phần này giáo viên nên lưu ý: Đây là kiến thức đã có đối
với giáo viên nhưng đối với học sinh cái đã có ở đây là phải thuộc được các
phép chia cho 2, 3, 4, 5, để từ đó qua tri giác bằng hình ảnh trực quan của bản
thân và qua sự dẫn dắt giúp đỡ của người thầy các em có thể tự tìm tòi phát hiện
ra hình nào đã tô hoặc đã khoanh một phần hai; một phần ba, một phần tư, một
phần năm của một hoặc nhóm đối tượng nào đó (các ô vuông, các hình tròn, các
bông hoa, các con vật,...).
Biện pháp 2: Điều tra tìm hiểu thực trạng dạy học của giáo viên và của
học sinh, có khảo sát chất lượng, có điều chỉnh so sánh thông qua trao đổi dự
giờ.
Việc dạy học phép nhân và phép chia ở lớp 2 được thông qua hai nội dung
chủ yếu sau:
Bảng nhân - cách lập cách bảng nhân với 2, 3, 4, 5
Bảng chia - cách lập các bảng chia cho 2, 3, 4, 5.
Để nắm rõ nguyên nhân và từ đó tìm ra cách giải quyết nhằm mang lại hiệu
quả cao hơn trong quá trình dạy học các bảng nhân, bảng chia ở lớp 2. Tôi đã
tiến hành trực tiếp dự giờ thăm lớp trao đổi cùng giáo viên chủ nhiệm trong
khối, trường nơi tôi đang công tác.
1: Bảng nhân - cách lập các bảng nhân với 2, 3, 4, 5.
Ở phần này tôi đã tiến hành dự giờ thăm lớp tất cả các tiết học về cách lập
bảng nhân: Bảng nhân 2 - tiết 94; bảng nhân 3 - tiết 96; bảng nhân 4 - tiết 98;
bảng nhân 5 - tiết 100.
Cách lập bảng nhân với 2, 3, 4, 5: Hầu như các em cũng đã biết dựa vào
phép cộng các số hạng bằng nhau để lập và học thuộc các bảng nhân. Nhưng số
học sinh hiểu và thuộc được hết các bảng nhân trong lớp còn rất ít phần đa các
em chỉ mới biết lập được 2 đến 4 phép tính đầu trong mỗi bảng nhân, các phép
tính sau phức tạp hơn các em còn lúng túng có lập được các phép tính nhưng kết
quả các phép tính còn sai, hoặc nếu hỏi kĩ về ý nghĩa thực tiễn của phép nhân
(phép nhân là phép cộng các số hạng bằng nhau) các em chưa giải thích được,

chẳng hạn: Giáo viên hỏi: Vì sao em lập được phép tính: 3 × 4 = 12 hầu như chỉ
có vài em tiếp thu nhanh trả lời đúng, số còn lại trong lớp các em chưa biết giải
thích như thế nào mà chỉ biết công nhận. Chính vì vậy mà khi làm tính nhẩm
cũng như việc vận dụng các phép nhân vào giải toán hoặc gặp một phép tính
phức tạp ở mỗi bảng nhân các em phải nhẩm lại từ các phép tính đầu tiên trong
bảng nhân để lần lượt tìm ra kết quả của phép tính nhân cần tìm, chẳng hạn hỏi:
4 × 5 = ? Học sinh phải nhẩm lại từ phép tính 4 × 1 = 4, 4 × 2 = 8 .... 4 × 5 = 20.

8


Nguyên nhân này qua tìm hiểu tôi được biết một phần là do các em nhưng
cơ bản nhất là do phương pháp dạy của giáo viên và sự quan tâm đến việc học
tập của các bậc phụ huynh. Tìm hiểu về kế hoạch bài học của giáo viên tôi thấy
có một số điều bất cập sau:
1.1. Về đồ dùng dạy học: Ở tất cả các tiết dạy giáo viên cũng chỉ chuẩn bị có 6
tấm bìa mỗi tấm bìa có số chấm tròn tương ứng với tiết dạy về phép nhân đó,
chẳng hạn dạy về bảng nhân 2 thì 6 tấm bìa chuẩn bị của giáo viên mỗi tấm bìa
có 2 chấm tròn, dạy về phép nhân 3 mỗi tấm bìa có 3 chấm tròn .....
Như chúng ta đã biết đối với học sinh bậc Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 2
việc dạy học môn Toán để các em hiểu được bài và nắm vững hệ thống kiến
thức mới. Đồng thời phát huy được tính tích cực tự giác cho các em nó đòi hỏi
người giáo viên phải linh hoạt trong việc vận dụng và sử dụng các phương pháp
trong quá trình dạy học, đặc biệt là việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học nhất là trong các tiết dạy hình thành hệ thống kiến thức mới (các bảng nhân
với 2, 3, 4, 5). Chính vì vậy trong tất cả các tiết dạy về phép nhân đòi hỏi giáo
viên cũng như học sinh cần có bộ đồ dụng dạy học Toán (có các tấm bìa như
hình vẽ SGK).
1.2. Về các bước tiến hành trên lớp: Ở tất cả các tiết dạy giáo viên cũng đã tiến
hành đi theo một tuần tự sau:

- Bước lập bảng nhân:
+ Giáo viên giới thiệu lần lượt các tấm bìa (Cô có các tấm bìa mỗi tấm bìa có 2,
3, 4, 5 chấm tròn) như SGK sau đó thao tác trên các tấm bìa kết hợp hỏi đáp để
hình thành 3 phép nhân đầu của mỗi bảng nhân. Chẳng hạn ở bảng nhân 2 giáo
viên đã thao tác trên 6 tấm bìa mỗi tấm bìa có 2 chấm tròn để hình thành 3 phép
nhân:
2× 1=2
2× 2=4
2× 3=6
+ Học sinh tiếp thu nhanh lần lượt lên lập tiếp các phép tính còn lại để hoàn
thiện bảng nhân
+ HS cả lớp đồng thanh 2 - 3 lần bảng nhân vừa hoàn thiện.
+ HS xung phong học thuộc lòng bảng nhân vừa hoàn thiện.
- Bước thực hành làm bài tập tại lớp
Ở tất cả các tiết học về các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 sau hoạt động1 (lập
bảng nhân) là hoạt động 2 thực hành: Số lượng các bài tập ở tất cả các tiết học

9


đều có nội dung giống nhau (bài 1: tính nhẩm; bài 2: giải toán có lời văn; bài 3
đếm thêm 2, 3, 4, hoặc 5 rồi viết số thích hợp vào ô trống) giáo viên cũng đã
hướng dẫn và giúp học sinh thực hành làm hết số lượng các bài tập ở mỗi tiết
học. Tuy nhiên ở bài tập 1 ở các tiết học về bảng nhân 3, 4, 5 giáo viên chưa cho
học sinh củng cố thêm về phép nhân vừa học bằng cách nên cho học sinh hiểu
rằng trong phép nhân nếu ta đối chỗ các thừa số nhưng tích vẫn không thay đổi.
Ở bài tập 3 giáo viên chưa mở rộng thêm yêu cầu đối với học sinh trong lớp tức
là nên cho học sinh tập đếm bớt 2 (3, 4 hoặc 5), việc học sinh biết đếm bớt 2 (3,
4, hoặc 5) trong mỗi bảng nhân nhằm giúp cho các em học tốt các bảng chia sau
này.

Như chúng ta đã biết que tính là một loại đồ dùng học tập chúng được sử
dụng rất nhiều vào việc dạy học các phép tính cộng, trừ ở lớp 2, nó là một loại
đồ dùng dễ tìm kiếm và rẻ tiền, rất sẵn có ở vùng nông thôn Việt Nam đó là tre,
nứa. Do 100% số học sinh trong lớp thiếu bộ đồ dùng học Toán (các tấm bìa).
Vì thế giáo viên khi dạy nhất là những giáo viên trực tiếp dạy Toán ở lớp 2 nên
linh hoạt hướng dẫn và giúp học sinh biết sử dụng que tính để hình thành các
phép tính ở mỗi bảng nhân cũng như ở các bảng chia.. Chẳng hạn khi dạy bảng
nhân 2 các em chỉ cần khoảng 20 que tính, bó thành 10 bó mỗi bó có 2 que tính.
Dạy bảng nhân 3 cần 30 que tính, bó thành 10 bó mỗi bó có 3 que tính..... Học
sinh sử dụng các bó que tính đó để thực hành lập các bảng nhân ở lớp cũng như
việc chuẩn bị bài ở nhà trước khi học bài mới.
1.3: Để hiệu quả dạy học các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 đạt kết quả cao hơn khi
dạy tôi đã tiến hành chú trọng những điểm cơ bản sau:
* Về đồ dùng dạy học: Giáo viên và học sinh cả lớp chuẩn bị đủ 50 que tính và
10 dây buộc để học trong phần phép nhân và phép chia. Nhắc học sinh khi học
đến bảng nhân nào thì các em cũng chia đều và bó thành 10 bó, số lượng que
tính ở mỗi bó tương ứng theo tên gọi của bảng nhân đó, chẳng hạn học bảng
nhân 2 các em thành 10 bó, mỗi bó 2 que tính,.... bảng nhân 5 bó thành 10 bó
mỗi bó có 5 que tính.
Sau các tiết học chuẩn bị cho các tiết học về lập các bảng nhân với 2, 3, 4, 5
tôi không quên nhắc các em về xem trước bài và tự thực hành các thao tác lập
các phép tính trong mỗi bảng nhân như sách giáo khoa và không quên nhắc các
em chú ý: Trong sách giáo khoa là các tấm bìa nhưng ở đây cô cho phép các em
thay thế các tấm bìa bằng các bó que tính và các em không nhất thiết chỉ lập 3
phép tính đầu trong mỗi bảng nhân như sách giáo khoa đã hướng dẫn mà các
em có thể tuỳ từng bảng nhân và tuỳ vào mức độ hiểu bài của mình mà tự thực
hành thao tác và lập hoàn thiện bảng nhân bài các em chuẩn bị học ngày mai.
* Các bước tiến hành trên lớp:

10



+ Khi dạy về lập các bảng nhân cho học sinh chủ động thực hành các thao tác
để lập ra từng phép tính của mỗi bảng nhân, nhắc các em lập ra phép tính nào
ghi ngay ra giấy nháp các phép tính đó, sau đó chỉ định từng học sinh nêu từng
phép tính (chủ yếu là những học sinh diện đại trà và học sinh yếu trong lớp),
phép tính nào các em còn lúng túng giáo viên yêu cầu học sinh khá giỏi giúp đỡ
hoặc cần thiết giáo viên trực tiếp giảng giải cho các em. Sau khi hoàn thiện bảng
nhân giáo viên nên hỏi học sinh giải thích một vài phép tính cụ thể, chẳng hạn:
tại sao em lại viết được phép tính: 3 × 6 = 18. Do được chủ động lập bảng nhân
4 nên các em có ngay câu trả lời đúng: Vì ở phép tính này 3 được lấy 6 lần, mỗi
lần lấy có 3 que tính nên 6 lần lấy có 18 que tính hoặc có em lại có câu trả lời
khác: Trong bảng nhân với 3 mỗi lần thực hiện phép nhân thì tích ở dòng dưới
nhiều hơn tích ở dòng trên liền nó 3 đơn vị. Cách hỏi này giáo viên có thể căn cứ
vào đối tượng và trình độ của học sinh lớp mình phụ trách mà đưa ra số lượng
các câu hỏi.
Ở phần này tôi cũng không quên lưu ý một số điểm sau:
Khi dạy lập các bảng nhân, tuỳ vào đối tượng học sinh trong lớp, tuỳ vào
mức độ dễ hay khó, phức tạp hay không phức tạp của từng bảng nhân để nhắc
các em nên dùng que tính để lập hết các phép tính ở mỗi bảng nhân hay chỉ lập
3 - 4 phép tính đầu tiên ở mỗi bảng, các phép tính còn lại có thể cho các em tự
tìm tòi bằng hình thức khác để hoàn thiện bảng nhân đang học mà đỡ mất nhiều
thời gian.
+ Sau khi hoàn thiện bảng nhân 2, để khắc sâu về bảng nhân, đồng thời để giúp
học sinh phát huy được óc suy luận, tư duy lo gíc và giúp các em học sinh tiếp
thu nhanh ở lớp 2 cũng như khi các em học lên lớp 3 dễ dàng hoàn thiện được
các bảng nhân còn lại tôi không quên giúp học sinh nhận xét và hiểu được quy
luật lập bảng nhân: ở bảng nhân với “n” thì tích ở dòng dưới nhiều hơn tích ở
dòng trên liền nó là “n đơn vị”.
Đồng thời khi dạy lập bảng nhân tôi không quên giúp các em hiểu được tính

chất giao hoán của phép nhân (đổi chỗ các thừa số trong phép nhân nhưng tích
vẫn không đổi), để từ bảng nhân này học sinh có thể không cần đồ dùng trực
quan mà dễ dàng lập được một số phép tính của các bảng nhân khác, chẳng hạn
từ:
3 × 4 = 12

4 × 3 = 12

3 × 5 = 15

5 × 3 = 15

+ Về phần thực hành làm bài tập ở bài tập 1 (tính nhẩm) ở tất cả các tiết nội
dung bài tập sắp xếp không theo trật tự của mỗi bảng nhân. Chính vì vậy để
củng cố và khắc sâu được bảng nhân vừa học tôi đã cho các em thi đua nhẩm và
nêu miệng nhanh kết quả của từng phép tính sau đó có biểu dương khen ngợi

11


những học sinh nhẩm nhanh và nêu được nhiều phép tính đúng. Động viên
những em làm còn sai.
Ở bài tập 3 của các tiết học về các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 ngoài yêu cầu
trong sách giáo khoa là đếm thêm 2 từ 2 đến 20, đếm thêm 3 từ 3 đến 30, đếm
thêm 4 từ 4 đến 40, đếm thêm 5 từ 5 đến 50. Để học sinh học tốt các bảng chia
sau này tôi đã giúp các em biết đếm bớt trong mỗi bảng nhân và không quên
giúp các em biết ở bài tập 3 này dãy số các em vừa đếm hoàn thiện chính là tích
của bảng nhân các em vừa học.
Chẳng hạn bài 3 tiết 94 - bảng nhân 2: Đếm thêm 2 rồi viết số thích hợp vào
ô trống:

2

4

6

14

20

Cho học sinh tập đếm thêm 2 từ 2 đến 20, sau đó cho các em tập đếm bớt 2 từ
20 đến 2.
Để chuẩn bị cho học bài tiết sau được tốt, tôi luôn chú ý đến việc dặn dò các
em chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan và tự thực hành các thao tác lập từng
phép tính ở mỗi bảng nhân.
Qua trao đổi dự giờ và qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng khi dạy phép
nhân cách lập các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 cho học sinh lớp 2, người giáo viên
cần chú trọng những điểm sau:
+ Đồ dùng dạy học cho mỗi tiết dạy lập các bảng nhân phải đầy đủ, đảm bảo
tính khoa học.
+ Chú trọng phần dặn dò học sinh chuẩn bị bài trước khi học bài mới.
+ Phải giúp học sinh biết dựa vào phép cộng các số hạng bằng nhau để lập các
bảng nhân
+ Chỉ cần giúp học sinh biết cách lập vài dòng của mỗi bảng nhân sau đó dựa
vào quy luật lập bảng nhân: Ở bảng nhân với “n” thì tích ở dòng dưới nhiều hơn
tích ở dòng trên liền nó “n đơn vị” để hoàn thiện bảng nhân đỡ mất nhiều thời
gian trong tiết học.
+ Khi thực hành lập các bảng nhân học sinh luôn là người chủ động phát hiện và
tìm tòi, lĩnh hội các kiến thức mới còn giáo viên chỉ là người dẫn dắt, giúp đỡ
học sinh

+ Phải giúp học sinh hiểu được tính chất giao hoán của phép nhân: đổi chỗ các
thừa số trong phép nhân nhưng tích không đổi.
2.2: Bảng chia - cách lập bảng chia cho 2, 3, 4,5

12


Ở phần này cũng như ở phần dạy cách lập các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 để
nắm rõ nguyên nhân và tìm ra biện pháp giải quyết có hiệu quả tôi đã tiến hành
dự giờ cả 2 lớp trong khối: Tiết108: bảng chia 2; Tiết 112: bảng chia 3; Tiết 117:
bảng chia 4; Tiết 120: bảng chia 5.
Sau khi dự giờ và trao đổi qua giáo viên tôi được biết ở phần dạy học các
bảng chia cho 2, 3, 4, 5 phần đa học sinh tiếp thu nhanh và học sinh diện đại trà
trong cả 2 lớp các em thuộc được các bảng chia, số học sinh còn lại các em chỉ
thuộc được 3, 4 phép chia trong mỗi bảng. Tuy thuộc được hầu hết các bảng chia
nhưng khi vận dụng vào làm tính hoặc giải toán các em còn lúng túng và có em
còn sai kết quả, thậm chí có em muốn biết được kết quả của phép chia cần tìm
các em phải nhẩm lại từ đầu bảng chia đó, chẳng hạn khi tìm kết quả của phép
chia: 28 : 4 = ? các em phải nhẩm lại từ đầu bảng chia 4 (4 : 4 = 1; 8 : 4 = 2; .....
28 : 4 = 7).
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên qua việc dự giờ trên lớp và qua trao đổi
với giáo viên và học sinh tôi được biết: nguyên nhân này một phần là do sức học
của học sinh, một phần do sự quan tâm của phụ huynh đối với việc học bài của
các em. Nhưng nguyên nhân cơ bảng nhất vẫn là phương pháp dạy của giáo
viên. Tìm hiểu về kế hoạch bài học tôi được biết:
2.2.1: Về đồ dùng dạy - học: Cũng như khi dạy về bảng nhân đồ dùng dạy học
của học sinh thiếu quá nhiều còn của giáo viên quá sơ sài thậm chí không có mà
chỉ dựa vào hình vẽ sách giáo khoa để dạy.
2.2.2: Về các bước lên lớp: Giáo viên cũng đã tiến hành dạy theo đúng trình tự
của một tiết dạy dạng bài hình thành kiến thức mới, giáo viên cũng đã nắm được

thuật toán chia là thuật toán khó nhất trong 4 thuật toán cộng trừ, nhân, chia nên
khi dạy lập các bảng chia giáo viên cũng đã hướng dẫn học sinh đi theo nhiều
bước, cụ thể qua tiết dạy: Bảng chia 3, Sách giáo khoa Toán 2 trang 113:
Bước 1: Giới thiệu phép chia 3
+ Cho HS ôn về phép nhân 3
Chẳng hạn: Giáo viên gắn lên bảng 4 tấm bìa lên bảng mỗi tấm bìa có 3 chấm
tròn và hỏi học sinh: mỗi tấm bìa có 3 chấm tròn vậy 4 tấm bìa có tất cả bao
nhiêu chấm tròn? Học sinh trả lời và viết thành phép nhân 4 × 3 = 12 (chấm
tròn).
+ Hình thành phép chia 3
- Giáo viên giới thiệu: Trên các tấm bìa có 12 chấm tròn, mỗi tấm bìa có 3 chấm
tròn. Hỏi có mấy tấm bìa. Học sinh trả lời rồi viết: 12 : 3 = 4 tấm bìa )
- Giáo viên giới thiệu: Từ phép nhân 3 là 3 × 4 = 12 ta có phép chia là 12 : 3 = 4

13


Bước 2: Lập bảng chia 3
Giáo viên viết từ 3 × 4 = 12 ta có 12 : 3 = 4
HS tiếp thu nhanh lên lập tiếp các phép tính còn lại để hoàn thiện bảng chia 3
Cho học sinh học thuộc bảng chia 3.
Bước 3: Thực hành: Ở tất cả các tiết dạy về các bảng chia cho 2, 3, 4,5 đều có
3 bài tập, giáo viên cũng đã hướng dẫn học sinh thực hành làm hết số lượng các
bài tập đó nhưng do phần dạy lập bảng chia 3 giáo viên khai thác bài chưa sâu,
học sinh chưa được chủ động làm việc, trong lớp chủ yếu là học sinh tiếp thu
nhanh được làm việc vì thế chất lượng bài tập của các em làm còn sai nhiều.
Qua trên tôi nhận thấy rằng ở tất cả các tiết dạy, giáo viên cũng đã đi đúng
trình tự các bước dạy đối với dạng bài hình thành kiến thức mới. Nhưng nguyên
nhân cơ bản dẫn đến chất lượng dạy học các bảng chia ở lớp 2 chưa cao là:
Nguyên nhân thứ nhất: Ở tất cả các tiết học, học sinh chưa thực sự là người

chủ động tìm và phát hiện ra kiến thức mới (các phép tính chia trong mỗi bảng
chia). Trong các tiết học hầu như chỉ học sinh tiếp thu nhanh được làm việc
nhiều, số học sinh còn lại trong lớp lĩnh hội các kiến thức mới còn mang tính
chất thụ động.
Nguyên nhân thứ 2: Cũng như khi dạy về các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 sự
chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên còn nhiều hạn chế, đồ dùng học tập của
học sinh thiếu quá nhiều dẫn đến việc học sinh chưa được làm việc nhiều, chưa
chủ động tìm và phát hiện ra các kiến thức mới, việc việc lĩnh hội hệ thống kiến
thức mới của các em còn quá lệ thuộc vào người thầy. Trong các tiết dạy giáo
viên còn lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa và sách giáo viên, chưa có nhiều đổi
mới phương pháp trong dạy học.
2.2.3: Để hiệu quả dạy học các bảng chia cho 2, 3, 4, 5 đạt kết quả cao hơn khi
dạy tôi đã tiến hành chú trọng những điểm cơ bản sau:
+ Về đồ dùng dạy học: Cũng như khi học về các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 giáo
viên và học sinh cả lớp chuẩn bị đủ 50 que tính và 10 dây buộc để học. Nhắc
học sinh khi học đến bảng chia nào thì các em cũng chia đều và bó thành 10 bó,
số lượng que tính ở mỗi bó tương ứng theo tên gọi của bảng chia đó, chẳng hạn
học bảng chia 2 các em thành 10 bó, mỗi bó 2 que tính,.... bảng chia 5 bó thành
10 bó mỗi bó có 5 que tính.
+ Các bước tiến hành trên lớp:
Thuật toán chia là thuật toán khó nhất trong 4 thuật toán cộng, trừ, nhân, chia.
Chính vì vậy mà khi giúp học sinh lập các bảng chia cho 2, 3, 4, 5 tôi đã dẫn dắt
giúp các em tiến hành theo từng bước cụ thể sau:

14


Bước 1: Giới thiệu phép chia: + Cho HS ôn về phép nhân
+ Hình thành phép chia
+ Cho học sinh nhận xét

Bước 2: Lập bảng chia
- Khi dạy về lập các bảng chia cho học sinh chủ động thực hành theo nhóm các
thao tác để lập ra từng phép tính của mỗi bảng chia, nhắc các em lập ra phép tính
nào ghi ngay ra giấy nháp các phép tính đó, sau đó chỉ định từng học sinh nêu
từng phép tính (chủ yếu là những học sinh diện đại trà và học sinh yếu trong
lớp), phép tính nào các em còn lúng túng giáo viên yêu cầu học sinh tiếp thu
nhanh giúp đỡ hoặc cần thiết giáo viên trực tiếp giảng giải cho các em. Sau khi
hoàn thiện bảng chia giáo viên nên hỏi học sinh giải thích một vài phép tính cụ
thể, chẳng hạn: tại sao em lại viết được phép tính 12 : 3 = 4. Do được chủ động
lập bảng chia 3 nên các em có ngay câu trả lời đúng Dựa vào phép nhân 3 để
lập: Tức là từ 3 × 4 = 12 ; 12 : 3 = 4 hoặc có em lại có câu trả lời khác: Cũng
như khi dạy về phép nhân cách hỏi này giáo viên có thể căn cứ vào đối tượng và
trình độ của học sinh lớp mình phụ trách mà đưa ra số lượng các câu hỏi để
khắc sâu bài học.
Ở phần này tôi cũng không quên lưu ý khi dạy:
- Khi dạy bảng chia, tuỳ vào đối tượng học sinh trong lớp, tuỳ vào mức độ dễ
hay khó, phức tạp hay không phức tạp của từng bảng chia để nhắc các em nên
dùng que tính để lập hết các phép tính ở mỗi bảng chia hay chỉ lập 3 - 4 phép
tính đầu tiên ở mỗi bảng, các phép tính còn lại có thể cho các em tự tìm tòi bằng
hình thức khác để hoàn thiện bảng chia mà đỡ mất nhiều thời gian.
Bước 3: Thực hành
Ở phần này tôi đã tiến hành giúp học sinh hoàn thành ba bài tập theo hình
thức cuốn chiếu, sau mỗi bài nên củng cố và khắc sâu cho các em về bảng chia
vừa học, luôn chú trọng những lời khen đối với những học sinh làm bài tốt và
những lời động viên đối với những em còn mắc lỗi khi làm bài. Đồng thời
những em làm bài còn kém ở phần nào thì tranh thủ ngay trong tiết học hoặc giờ
ra chơi tôi bổ sung những "lỗ hổng" kiến thức đó cho các em.
Qua trao đổi dự giờ và qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng khi dạy
phép chia cách lập các bảng chia cho 2, 3, 4, 5 cho học sinh lớp 2, người giáo
viên cần chú trọng những vấn đề cơ bản sau :

+ Đồ dùng dạy học cho mỗi tiết dạy lập các bảng chia phải đầy đủ, đảm bảo tính
khoa học.
+ Chú trọng phần dặn dò học sinh chuẩn bị bài trước khi học bài mới.

15


+ Phải giúp học sinh hiểu được phép chia là phép tính ngược của phép nhân để
từ đó các em biết dựa vào bảng nhân để lập bảng chia
+ Chỉ cần giúp học sinh biết cách lập vài dòng của mỗi bảng chia rồi dẫn dắt
giúp các em biết dựa vào quy luật lập bảng chia để lập hoàn thiện mỗi bảng chia:
ở bảng chia cho “n” thì số bị chia ở dòng dưới nhiều hơn số bị chia ở dòng trên
liền nó “n đơn vị”. Thương tìm được ở dòng dưới nhiều hơn thương tìm được ở
dòng trên liền nó 1 đơn vị.
+ Khi thực hành lập các bảng chia học sinh luôn là người chủ động phát hiện và
tìm tòi, lĩnh hội các kiến thức mới còn giáo viên chỉ là người dẫn dắt, giúp đỡ
học sinh
Giải pháp 3: Lập kế hoạch dạy học cho một tiết dạy bảng nhân 3 theo
phương pháp mới.
Toán
BẢNG NHÂN 3
I. MỤC TIÊU. Giúp HS:

- Lập được bảng nhân 3.
- Nhớ được bảng nhân 3.
- Biết giải bài toán có một phép nhân (thuộc bảng nhân 3).
- Biết đếm thêm 3.
II. ĐỒ DÙNG DẠY - HỌC. + GV : 10 tấm bìa, mỗi tấm có 3 chấm tròn.
+ HS : Vở toán.
III. HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC.

HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY

A. Bài cũ.
Gọi HS đọc bảng nhân 2.
B. Bài mới *GTB.
* HĐ1. Lập bảng nhân 3.
- Gắn 1 tấm bìa có 3 chấm tròn lên
bảng và hỏi: Có mấy chấm tròn?
- 3 chấm tròn được lấy mấy lần?
- 3 được lấy mấy lần?
- 3 được lấy 1 lần nên ta lập được
phép nhân. 3 x 1 = 3
- GV ghi bảng: 3 x 1 = 3.
- Gắn tiếp 2 tấm bìa lên bảng và hỏi:
Có 2 tấm bìa, mỗi tấm có 3 chấm
tròn, vậy 3 chấm tròn được lấy mấy
lần?
- Vậy 3 được lấy mấy lần?

HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ

- Đọc cá nhân .
- Nhận xét

- HS quan sát hoạt động của GV và trả
lời: Có 3 chấm tròn.
- Được lấy 1 lần.
- 3 được lấy 1 lần.
- HS đọc phép nhân: 3 nhân một bằng
3.

- 3 chấm tròn được lấy 2 lần.
- 3 được lấy 2 lần.

16


- Hãy lập phép tính tương ứng với 3
được lấy mấy lần?
- 3 nhân 2 bằng mấy?
- GV ghi bảng: 3 x 2 = 6.
- Tương tự các phép nhân còn lại.
- Chỉ và nói: Đây là bảng nhân 3. Các
phép nhân trong bảng đều có 1 thừa
số là 3, thừa số còn lại lần lượt là: các
số 1, 2, , .. 10.
- Yêu cầu HS đọc bảng nhân 3.
- Xoá dần bảng cho HS đọc thuộc
lòng.
- Tổ chức cho HS thi đọc thuộc lòng.
* HĐ2. Luyện tập - thực hành
- Yêu cầu HS làm bài 1, bài 2, bài 3.
Nếu còn thời gian các em làm tiếp các
bài còn lại.
Bài 1. Tính nhẩm
Gọi HS nêu yêu cầu.
- Yêu cầu HS tự làm bài, sau đó 2 HS
ngồi cạnh nhau đổi chéo vở để kiểm
tra bài lẫn nhau.
Bài 2. Giải toán
- Gọi HS đọc đề bài.

- Mỗi nhóm có ….HS ?
- Có tất cả mấy nhóm?
- Để biết tất cả có bao nhiêu nhóm ta
làm phép tính gì?
- Yêu cầu 1 HS lên bảng giải, cả lớp
làm vào VBT.
- Nhận xét - sửa sai.
Bài 3. Đếm thêm 3 rồi viết số thích
hợp vào ô trống.
Gọi HS nêu yêu cầu.
- Số đầu tiên trong dãy số này là số
nào?
- Tiếp số 3 là số nào?
- 3 cộng thêm mấy thì bằng 6?
GV: Trong dãy số này, mỗi số đều
bằng số đứng ngay trước nó cộng
thêm 3.
- Yêu cầu HS tự làm bài tiếp.

-3x2
3x2=6
- HS đọc
- Lập các phép tính 3 nhân với 3, 4, 5,
6, 7, 8, 9, 10

- HS đọc đồng thanh.
- Đọc bảng nhân.
- HS đọc cá nhân.

- HS nêu: Tính nhẩm.

- Làm bài và kiểm tra bài làm của bạn.
3x3=9
3x 5 = 15
3 x 9 = 27
- Nhận xét
- HS đọc đề.
- 3 HS.
- 10 nhóm.
- Phép nhân: 3 x 10
Giải
10 nhóm có số HS là:
3 x 10 = 30 ( học sinh)
Đáp số: 30 học sinh
- HS nêu: Đếm thêm 3 rồi viết số thích
hợp vào ô trống.
- Là số 3.
- Là số 6
- 3 cộng thêm 3 bằng 6

- Yêu cầu HS làm vào vở.

17


- Yêu cầu HS đọc xuôi đọc ngược dãy 3 ; 6 ; 9 ; 12 ; 15 ; 18 ; 21 ; 24 ;
số.
27 ; 30.
C. Củng cố - dặn dò.
- Nhận xét
- Nhận xét tiết học.

- Cho cả lớp đọc ĐT bảng nhân 3.
- Đồng thanh cả lớp .
- Dặn HS về nhà làm bài tập và chuẩn
bị tiết sau.
Sau khi thiết kế xong kế hoạch, tôi tổ chức thi công dạy trên lớp 2A theo kế
hoạch trên rồi tiến hành nhận xét, rút kinh nghiệm giờ dạy trong khối. Chúng tôi
đã chỉ ra những ưu, nhược điểm của tiết dạy và đi đến thống nhất cao với thiết
kế dạy học như trên. Từ đó, mỗi GV tự lập ra kế hoạch dạy học các bài về lập
bảng nhân, bảng chia cho các bài sau để tiết dạy đạt hiệu quả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sáng kiến của tôi được thực thi và áp dụng từ tuần 19 đến tuần 24.(Từ
07/01/2016 đến 26/2/2016 năm học 2015 – 2016. Để đối chứng với chất lượng
dạy học các bảng nhân, bảng chia ở lớp 2 qua khảo sát. Đồng thời để tỏ rõ được
tính khả thi của sáng kiến, tôi đã tiến hành điều tra và khảo sát chất lượng dạy
học qua dự giờ và trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và học sinh ở từng lớp trong
khối. Kết quả đạt được cụ thể như sau:
Lớp

Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

SL

TL%

SL


TL%

SL

TL%

2A: 22 HS

6

27.3

11

50.0

5

22.7

2B: 21 HS

4

19.0

10

47.7


7

33.3

Qua bảng tổng kết ta thấy rằng chất lượng dạy học các bảng nhân, bảng chia
ở lớp 2 từ cách làm của tôi chất lượng đã tăng lên một cách rõ rệt so với các
phương pháp dạy của giáo viên bấy lâu nay. So với chất lượng đầu năm tỷ lệ học
sinh đạt điểm 7- 8, 9-10 tăng 17 em, học sinh chưa đạt yêu cầu giảm 6 em. Đồng
thời qua quá trình tìm hiểu, điều tra và nghiên cứu việc dạy học các bảng nhân,
bảng chia của giáo viên và của cả học sinh trong khối, trường nơi công tác tôi
nhận thấy rằng: Việc học sinh hiểu, thuộc và nhớ được các bảng nhân với 2, 3, 4,
5 và các bảng chia cho 2, 3, 4, 5 ở lớp 2 là một mắt xích cực kì quan trọng làm

18


nền tảng, là tiền đề, làm chỗ dựa vững chắc cho các em học tốt phần nhân, chia
trong bảng và nhân chia ngoài bảng ở lớp 3 cũng như ở các lớp tiếp theo.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
a. Kết luận.
Qua thực tế dạy học, tôi nhận thấy rằng để giúp cho học sinh lớp 2 làm tốt các bài
toán về bảng nhân, bảng chia nói riêng và chất lượng môn toán được nâng lên, giáo
viên cần thực hiện một số việc sau:
- Nắm vững mục tiêu đào tạo và nhiệm vụ môn học.
- Ngoài việc có trình độ chuyên môn vững vàng, người giáo viên phải thực sự yêu
nghề, tận tâm với học sinh.
- Nghiên cứu kĩ chương trình SGK, hiểu được dụng ý của sách để có kế hoạch xây
dựng chương trình dạy học phù hợp và có hệ thống.
- Học sinh phải có đầy đủ ĐD học tập môn Toán.

- Giáo viên cần phải linh hoạt trong lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh.
- Thường xuyên ra các đề kiểm tra khảo sát nhanh để nhận được thông tin phản hồi từ
học sinh để điều chỉnh cách dạy cho phù hợp.
b. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường:
- Lên kế hoạch cụ thể và kiểm tra đôn đốc việc thảo luận về nội dung, PPDH
từng dạng bài cụ thể tránh hình thức.
- BGH tăng cường dự giờ thăm lớp để kiểm tra việc dạy học thực tế trên lớp của
GV- HS để có biện pháp uốn nắn kịp thời.
* Đối với các cấp giáo dục:
- Cung cấp đầy đủ thiết bị dạy học cho các trường Tiểu học.
- Tổ chức hội thảo về đề tài nghiên cứu khoa học, công bố các đề tài đạt giải cao
cấp Tỉnh cho đông đảo các GV được áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm hay
vào thực tế giảng dạy.
Trên đây là một số kinh nghiệm đã triển khai và thực hiện có hiệu quả ỏ
trường Tiểu học nơi tôi công tác. Do năng lực bản thân và thời gian có hạn, đề
tài này không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong được sự góp ý
của các đồng chí chỉ đạo chuyên môn, các cấp quản lí giáo dục để đề tài ngày
càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của Hiệu trưởng

Họ tên, chữ ký tác giả

19



TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU:

1. Sách giáo khoa Toán lớp 2 – Nhà xuất bản Giáo dục 2006.
2. Sách giáo viên Toán lớp 2 – Nhà xuất bản Giáo dục 2003.
3. Phương pháp dạy học các môn học lớp 2 tập II – Nhà xuất bản Giáo dục
2007.
4. Một số vấn đề về môn Toán bậc Tiểu học tập II tài liệu bồi dưỡng thường
xuyên chu kỳ 1992 - 1996.
5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Tiểu học chu kỳ III (2003 –
2007) tập II – Nhà xuất bản Giáo dục.

20


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU

Trang 1

a. Lí do chọn đề tài

Trang 1

b. Mục đích nghiên cứu

Trang 1

c. Đối tượng nghiên cứu

Trang 2


d. Phương pháp nghiên cứu

Trang 2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang 2

2.1. Cơ sở của sáng kiến kinh nghiệm

Trang 2

2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trang 2
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

Trang 3

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, Trang 18
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

Trang 19

a. Kết luận

Trang 19

b. Kiến nghị


Trang 19

21


22



×