SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TRUNG
--------------***--------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
RÈN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 4 THÔNG QUA
KIỂU BÀI KỂ CHUYỆN ĐƯỢC CHỨNG KIẾN HOẶC THAM GIA
TRONG PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN
--------------***---------------
Người thực hiện: Lê Thị Thúy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Hà Bình
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt
1
HÀ TRUNG NĂM 2016
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1
1.Lý do chọn đề tài…………………………………………………
3
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………
4
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………..
4
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………….
4
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
5
1. Cơ sở lí luận ………………………………………………
5
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu…………………………….
5
2.1. Thực trạng dạy học môn kể chuyện
5
2.2. Kết quả thực trạng ………………………………………………
6
3. Các giải pháp thực hiện………………………………………..
7
4. Các biện pháp thực hiện……………………………………
8
5. Vận dụng các giửi pháp và biện pháp rèn kỹ năng nói cho HS lớp
12
4 trong phân môn kể chuyện………………………….
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1 Kết luận kết quả nghiên cứu…………………………………….
2. Kiến nghị……………………………………………………….
2
15
15
16
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phân môn kể chuyện ở Tiểu học có vị trí quan trọng. Nó góp phần bồi
dường tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển
tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí
tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì
vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy
cho học sinh tập nói, tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu dùng ngôn
ngữ của bản thân để diễn đạt (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện học sinh
được tiếp xúc với một văn bản truyện khá lí thú, cảm nhận được nội dung và thu
hoạch được những bài học bổ ích…Nhưng quan trọng hơn là các em học được
cách dùng từ ngữ,câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một
bài. Đây chính là yêu cầu rèn kĩ năng nói cho học sinh. Kể chuyện là một cách
nói có nghệ thuật về một văn bản mang tính thẩm mĩ. Kĩ năng kể chuyện chỉ có
thể rèn luyện đạt kết quả trên cơ sở học sinh nói tốt. Do đó muốn rèn luyện kĩ
năng kể chuyện trước tiên phải rèn luyện kĩ năng nói sao cho rõ ràng, khúc chiết,
lưu loát. Một yêu cầu của kĩ năng kể chuyện là phải hấp dẫn, phải có sự truyền
cảm. Người kể chuyện phải thu hút người nghe vào câu chuyện, phải tạo cho
người nghe cùng vui, buồn, giận dữ, cảm thương…với diễn biến của số phận
nhân vật, với các tình huống và cảnh ngộ trong truyện. Phân môn kể chuyện có
thể nói là một môn học gây được nhiều hứng thú với học sinh. Hơn lúc nào hết,
qua môn học này các em được thể hiện , được bộc lộ năng lực của mình một
cách toàn diện và hoàn mĩ ở mọi góc độ: kiến thức, tài năng. Niềm say mê học
hỏi và hứng thú học tập của học sinh được tạo ra không chỉ nhờ những giờ học
được tổ chức một cách hấp dẫn và khác thường. Bí quyết làm nảy sinh hứng thú
và niềm say mê học tập của trẻ là phải làm cho các em đạt được thành công, cảm
giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc thực sự của ham muốn học hỏi
và hiểu biết. Một vấn đề đặt ra cho bản thân tôi đó là: Trong giờ kể chuyện lớp
4, giáo viên cần phải làm những gì ? Chú ý những gì ? Hướng dẫn học sinh như
thế nào để học sinh đạt được thành công khi học và giáo viên đạt được thành
công khi dạy? Trong chương trình lớp 4 phân môn Tập làm văn có các kiểu bài:
- Kể lại câu chuyện vừa nghe trên lớp.
- Kể chuyện đã nghe, đã đọc.
- Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia.
Trong đó kiểu bài: Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia là kiểu bài ở
tuần thứ ba trong một chủ điểm học tập. Kiểu bài này yêu cầu học sinh kể
những chuyện người thật, việc thật có trong cuộc sống xung quanh mà các em
đã biết, đã nhìn, đã thấy. Có khi chính các em là nhân vật trong câu chuyện.
Kiểu bài này vốn nằm trong phân môn tập làm văn của sách cải cách giáo dục,
nay được chuyển sang phân môn kể chuyện ( chương trình sau 2000) để thực sự
rèn kĩ năng nói. Các bài kể chuyện đã chứng kiến tham gia trong sách Tiếng
Việt 4 rất đa dạng vì gắn với 10 chủ điểm của chương trình. Không đơn điệu như
đề tài trong sách lớp 4 cũ. Bên cạnh mục đích chung là rèn luyện kĩ năng nói cho
3
học sinh, kiểu bài tập này còn có mục đích rèn cho học sinh thói quen quan sát,
ghi nhớ.
Kiểu bài này có vai trò vô cùng quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng
nói, nhằm phát triển ngôn ngữ nói và viết của học sinh, là công cụ tư duy và
giao tiếp, giúp cho học sinh học tốt các phân môn của môn Tiếng Việt cũng như
các môn học khác trong nhà trường.
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn trên, là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 4
nhiều năm liên tiếp, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề nghiên cứu vận dụng và đưa
ra kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong giờ kể chuyện được
chứng kiến hoặc tham gia với đề tài: “Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 4
thông qua kiểu bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia trong phân
môn kể chuyện ”. Với mục tiêu lớn lao là tìm hiểu để làm giàu vốn hiểu biết và
kỹ năng sư phạm của bản thân trong giảng dạy phân môn này và phần nào tháo
gỡ thực trạng về chất lượng dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 4 .
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu việc dạy và học môn Kể chuyện ở lớp 4 từ đó đưa ra các giải pháp
rèn kỹ năng nói cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Giáo viên và học sinh lớp 4 trường tiểu học Hà Bình
Kiểu bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia trong phân môn kể
chuyện lớp 4 .
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Các phương pháp nghiên cứu lí luận:
4.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4.3- Phương pháp thống kê:
4
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Kể chuyện được coi là một bộ môn nghệ thuật có từ xa xưa. Nhiều thế hệ
đã tiếp nhận được trong tuổi thơ ấu của mình những ấn tượng không bao giờ
phai nhạt về những câu chuyện dân gian qua giọng kể của mẹ, của bà hoặc
những người thân khác trong gia đình. Trong trường tiểu học, kể chuyện là một
kiểu bài học nhằm phát triển lời nói cho học sinh, bồi dưỡng cho các em những
cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, cung cấp những kiến thức về vốn sống và văn học,
nêu những tấm gương có tác dụng giáo dục. Vì vậy rèn kĩ năng kể chuyện cho
học sinh là một việc làm cần thiết của mỗi giáo viên. Trong mục tiêu dạy học ở
tiểu học đã khẳng định: Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn
kĩ năng cơ bản: Nghe, nói, đọc, viết. Đây là môn học gồm nhiều phân môm: Tập
làm văn, tập đọc, chính tả, kể chuyện,…Trong đó, kể chuyện được xem là nội
dung quan trọng, tạo cho học sinh tư duy, phân tích tổng họp, biết cách tóm tắt,
diễn đạt; rèn kĩ năng nói giúp học sinh mở rộng vốn từ; rèn kĩ năng kể rõ ràng,
diễn cảm, nhập tâm vào nhân vật khi kể, hiểu ý nghĩa nội dung từng câu chuyện.
Những câu chuyện sẽ mở ra cho trẻ thế giới tình cảm bao la, cho tre một tâm
hồn trong sáng, hồn nhiên, cho trẻ tình yêu cuộc sống và sự hiểu biết về thế giới
xung quanh muôn màu muôn vẻ. Hơn thế nữa, kể chuyện góp phần rất lớn vào
việc phát triển trí tuệ, tình cảm, đạo đức, hình thành phẩm chất, nhân cách cho
trẻ. Mỗi tiết kể chuyện phải đi sâu vào tâm hồn ngây thơ của các em , thật sự thu
hút sự chú ý, lắng nghe , sự suy ngẫm hồn nhiên của học sinh tiểu học. Để làm
được điều đó, việc gây hứng thú cho các em sẽ say mê học tập, thích thú, chăm
chú lắng nghe. Tiết dạy nhờ đó đạt hiệu quả cao như mong muốn.
Đối với lớp 4, 5 có ba kiểu bài kể chuyện :
- Kiểu bài 1: Kể lại câu chuyện vừa nghe thầy cô kể trên lớp
- Kiểu bài 2: Kể chuyện đã đọc, đã nghe theo chủ điểm
- Kiểu bài 3: Kể chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, đối với kiểu bài kể chuyện đã được chứng
kiến hoặc tham gia là kiểu bài học sinh gặp rất nhiều khó khăn, từ việc xâu
chuỗi sự kiện, xây dựng cốt chuyện và thể hiện nội dung câu chuyện. ở tất cả
các khâu đều yêu cầu học sinh phải có sự tái hiện trí nhớ và sử dụng ngôn ngữ
cá nhân để diễn đạt. Do vậy đòi hỏi kỹ năng sư phạm của người thầy là rất cao.
Cần có những giải pháp nâng cao hiệu quả của môn học, trong đó việc rèn kỹ
năng nói là một trong những vấn đề mấu chốt góp phần thực hiện mục tiêu môn
học nói riêng và mục tiêu của giáo dục tiểu học nói chung.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
2.1. Thực trạng của việc dạy và học phân môn Kể chuyện:
a.Về phía giáo viên:
Kể chuyện là phân môn có vị trí vô cùng quan trọng trong môn Tiếng
Việt ở tiểu học. Đa số giáo viên đã nhận thức đầy đủ về vị trí và vai trò của phân
môn kể chuyện. Khi giảng dạy chương trình sau 2000, nhiều giáo viên đã tỏ ra
5
hết sức cố gắng để đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, nhưng
chất lượng giảng dạy chưa cao, chưa đáp ứng kịp thời với nhu cầu học tập của
học sinh.
Thực tế khi tìm hiểu về việc dạy học phân môn kể chuyện, đặc biệt là khi
dạy kiểu bài kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia tôi đã nhận ra thực trạng
tồn tại cơ bản sau:
- Một số giáo viên còn gặp rất nhiều khó khăn về phương pháp và hình
thức tổ chức giờ kể chuyện, nhất là với kiểu bài bài kể chuyện đã chứng kiến
hoặc tham gia.
- Giáo viên chưa quan tâm đến việc gợi mở, dẫn dắt để giúp học sinh
trong việc lựa chọn và sắp xếp các sự việc thành một câu chuyện.
- Giáo viên xem nhẹ việc rèn kỹ năng kể chuyện của học sinh bằng lời kể
tự nhiên, chân thực. Chưa hướng cho học sinh biết kết hợp lời kể với cử chỉ,
điệu bộ… Do vậy kết quả trong giờ kể chuyện chưa cao.
- Giáo viên chưa gây được hứng thú cho học sinh, chưa làm cho học sinh
có nhu cầu kể lại chuyện cho cô giáo và các bạn cùng nghe về việc mình đã
tham gia hoặc chứng kiến.
- Giáo viên ít quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh, nhất là học sinh
yếu. Như chúng ta đã biết, dạy học kể chuyện là nhằm rèn kĩ năng nói cho học
sinh. Trong giờ kể chuyện giáo viên cần giúp cho mỗi học sinh, cả những học
sinh yếu, kém cũng có cơ hội được rèn luyện và thành công, để các em có niềm
tin vào bản thân, tạo đà cho những cố gắng tiếp theo. Nếu không đạt được thành
công, học sinh sẽ sợ những giờ học này và cuối cùng, giờ học sẽ chỉ là giờ “ trổ
tài ” của một số học sinh khá, giỏi.
- Giáo viên còn xem nhẹ công tác chuẩn bị giờ học của học sinh.Để giờ kể
chuyện thành công giáo viên phải là người giúp đỡ học sinh trong quá trình
chuẩn bị giờ học.
- Giáo viên chưa chú ý đến tổ chức khích lệ học sinh kể chuyện trong
nhóm và trước lớp, tổ chức việc đánh giá kết quả. Nếu học sinh hoạt động tích
cực thì điều đó có nghĩa là giáo viên đã thực hiện tốt vai trò tổ chức của mình.
Nhưng trong thực tế hoạt động của giáo viên trong các giờ kể chuyện được
chứng kiến hoặc tham gia có phần “chìm hơn.”Giáo viên cho giờ kể chuyện lúc
này thực sự trở thành sân chơi của học sinh. Giáo viên không phải kể cho học
sinh nghe mà chỉ nghe học sinh kể chuyện. Không có tác động lớn đến “cuộc
chơi” của học sinh.
- Giáo viên chưa vận dụng chưa linh hoạt các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học.
b)Về phía học sinh:
Giáo viên là nhân tố tác động trực tiếp đến học sinh. Nếu không có sự
giúp đỡ của giáo viên. Học sinh sẽ không tìm được đề tài cho các bài kể chuyện,
các em sẽ không hiểu sâu được mỗi chủ điểm trong sách. Không ít học sinh có
cách quan sát và ghi nhớ tốt nhưng giáo viên không khơi gợi vốn sống của học
sinh để mỗi em tìm được nội dung cho bài kể của mình không rèn được kĩ năng
6
kể chuyện cho các em nên dẫn đến hạn chế. Còn một vấn đề nữa trong thực tế
học sinh có khả năng kể chuyện tốt không nhiều gìơ học, lớp học khi có đồng
nghiệp dự giờ thì chỉ có một số ít em có năng khiếu được thể hiện dẫn đến bản
thân các em đó được phát huy nhưng ngược lại các em khác thì không được rèn
luyện, phát triển. Chưa có kĩ năng quan sát và ghi nhớ nên chọn chuyện không
phù hợp với chủ điểm đang học. Hoặc khi có được đứng trước thầy cô và các
bạn thì các em lúng túng, mất tự tin. Các em không ham thích và hứng thú học
kiểu bài này.
2.2. Kết quả của thực trạng :
Thực trạng trên đã dẫn đến chất lượng học tập kiểu bài kể chuyện được
chứng kiến hoặc tham gia ở lớp 4 chưa cao. Sau đây là kết quả khảo sát 20 em
học sinh lớp 4A Trường tiểu học Hà Bình – Hà Trung:
Bảng 1
Nội dung, yêu cầu
Đạt
Chưa đạt
SL
TL
SL
TL
1. Biết chọn và sắp xếp các sự việc
thành một câu chuyện.
14
70
6
30
2. Biết kể câu chuyện theo trình tự
logic và hiểu ý nghĩa câu chuyện
10
50
10
50
3. Lời kể tự nhiên, chân thực, biết
kết hợp lời kể với cử chỉ, điệu bộ
4
20
16
80
Kết quả ở bảng 1 cho thấy, ở yêu cầu tối thiểu là việc lựa chọn và sắp xếp
các sự việc thành một câu chuyện đã là một việc làm hết sức khó khăn với học
sinh, ở yêu cầu này chỉ có 70% số học sinh đạt yêu câu, với những yêu cầu cao
hơn thì tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu càng thấp, ở yêu cầu (2) có 50% học sinh đạt
và ở yêu cầu (3) chỉ có 20% học sinh đạt. Như vậy, chất lượng học sinh như ở
bảng 1 là rất thấp.
Trăn trở với kết quả trên, trong quá trình dạy học tôi đã học hỏi, nghiên cứu
đưa ra một số giải pháp, biện pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học phân môn kể chuyện kiểu bài được chứng kiến hoặc tham gia ở lớp
4.
3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Căn cứ tính khả thi của vấn đề quan tâm cùng với thực tiễn dạy học kiểu bài
được chứng kiến hoặc tham gia ở đơn vị tôi đã vận dụng nhiều con đường để
dẫn đến hiệu quả cao nhất cho học sinh. Cụ thể đó là:
Giải pháp 1: Nghiên cứu kĩ cách thức tổ chức một giờ dạy kể chuyện kiểu bài
đựợc chứng kiến hoặc tham gia ở lớp 4 theo phương pháp dạy học mới với các
hình thức tổ chức có hiệu quả cao.
Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng góp phần đáng kể trong sự thành
công của một tiết dạy kể chuyện. Không có những hiểu biết cơ bản, không có sự
nhận định đúng đắn về phương pháp dạy học đặc trưng trong dạy học kể chuyện,
giáo viên không thể tổ chức được một giờ học mang lại chất lượng cao. Vì vậy
việc nghiên cứu kĩ cách thức tổ chức một giờ dạy kể chuyện kiểu bài đựợc
7
chứng kiến hoặc tham gia ở lớp 4 theo phương pháp dạy dạy học đặc trung là
việc làm hết sức cần thiết.
Phương pháp dạy học đặc trưng trong giờ dạy kiểu bài kể chuyện đã tham
gia hoặc chứng kiên là phương pháp dạy học nêu vấn đề và phương pháp dạy
học thực hành luyện tập.
+ Phương pháp dạy học nêu vấn đề dùng để gợi mở học sinh trong việc tìm
hiểu và lựa chọn câu chuyện định kể. Giúp học sinh tái hiện nội dung cốt chuyện
và sắp xếp cốt chuyện theo logíc.
+ Phương pháp luyện tập thực hành : là phương pháp dạy học đặc trung khi
dạy kể chuyện, nhằm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh.
Hình thức tổ chức dạy học đặc trưng của phân môn và kiểu bài này là hình
thức học tập theo cấu trúc : cả lớp – nhóm – cả lớp
Giải pháp 2. Tìm hiểu và khảo đối tượng học sinh của lớp 4 để nắm bắt mức độ,
khả năng của các em khi học kiểu bài này.
Học sinh là trung tâm của hoạt động dạy học. Vì vậy, thành công của tiết dạy
có đạt được hay không là ở mức độ chiếm lĩnh tri thức của người học. Do đó đây
có thể nói là một công việc nên làm vì nó có tác dụng lớn đến sự điều chỉnh
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của giáo viên, cũng như mức độ yêu
cầu của giáo viên đối với học sinh trong giờ dạy.
Giải pháp 3 : Quan tâm đến các điều kiện cho việc tiến hành giờ học
Để có một giờ dạy kể chuyện có hiệu quả, có rất nhiều yếu tố chi phối :
Thầy, trò, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học....Tranh, chuyện, một số
đề tài gợi mở cho học sinh tại hiện thực cũng là một yếu tố quyết định đến chất
lượng giờ học. Vì vậy, trao đổi trực tiếp với giáo viên đang dạy phân môn kể
chuyện lớp 4 để biết được thuận lợi cũng như khó khăn của họ khi dạy kiểu bài
này, đồng thời có phương án chuẩn bị tốt cho các giờ dạy tiếp theo của bản thân.
Ngoài ra cần dự giờ đồng nghiệp để có đánh giá chính xác chất lượng giờ dạy
của giáo viên và chất lượng học của học sinh, từ đó có điều chỉnh với các tiết
dạy tương tự.
4. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Biện pháp 1 : Tham gia có hiệu quả các chuyên đề về chuyên môn và
chương trình bồi dưỡng thường xuyên.
Bản thân nhận thức được rằng: Kiến thức khoa học là vô hạn, sự hiểu biết
của con người là có hạn. Chỉ có sự hiểu biết mới giúp chúng ta thành công, nhất
là đối với giáo viên đứng lớp, tiết dạy có thành công được hay không tuỳ thuộc
phần lớn là sự hiểu biết về khoa học nói chung, về môn học về đơn vị kiến thức
của bài học đó nói riêng. Song song với kiến thức là năng lực sư phạm, là sự
hiểu biết về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học . Và con đường giúp cho
chúng ta có được hành trang đó là con đường học tập : Học tập qua các buổi
chuyên đề, các buổi hội thảo của các cấp và đặc biệt là sự miệt mài chịu khó
trong việc học tập theo nội dung chương trình bồi dưỡng thường xuyên theo chu
kỳ.
8
Biện pháp 2 : Quan tâm đến việc thực hiện mục tiêu chung và mục tiêu riêng
của môn, của phân môn và của từng kiểu bài cụ thể :
Trong dạy học cũng như trong các hoạt động khác của thực tiến đời sống,
mục tiêu là cái đích cuối cùng của một hành động hay một loạt hành động khác
nhau. Trong dạy Kể chuyện cũng vậy, giáo viên cần quan tâm đến mục tiêu
chung và mục tiêu riêng của môn, của phân môn và của từng kiểu bài cụ thể.
Với kiểu bài kể lại chuyện đã tham gia hoặc chứng kiến giáo viên cần quan tâm
mấy điểm sau :
*/ Quan tâm đến việc rèn thói quen quan sát, ghi nhớ, lựa chọn chủ điểm:
Kiểu bài này đòi hỏi sự sáng tạo của học sinh ở mức độ cao hơn: Học sinh
phải nhớ lại những câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia, rồi dựa vào
cách thức xây dựng câu chuyện đã được học trong giờ tập làm văn để sắp xếp lại
các chi tiết và kể. Bên cạnh mục đích chung là rèn luyện khả năng cho học sinh,
kiểu bài này còn có mục đích rèn cho học sinh thói quen quan sát, ghi nhớ sự
việc. Đây là một kiểu bài tập khó. Do đó giáo viên không nên đòi hỏi quá cao ở
học sinh, giáo viên cần khơi gợi vốn sống của học sinh để mỗi em tìm được nội
dung cho bài kể chuyện về mình, về những người, những việc có thật trong đời
sống xung quanh mà các em đã biết đã nhìn, đã thấy. Học sinh có thể kể những
câu chuyện các em mắt thấy tai nghe trong thực tế hoặc được chứng kiến trên
sân khấu, truyền hình. Điều cốt yếu là câu chuyện đúng chủ điểm, không cần
nhiều tình tiết phức tạp. Từ đó kích thích học sinh đọc sách ngoài nhà trường,
vừa rèn cho các em thói quen suy nghĩ về mình, quan sát và suy nghĩ về những
người xung quanh, về cuộc sống trong gia đình, lớp học, trường học, ngoài xã
hội. Qua gợi ý tìm chuyện trong sách giáo khoa và sự giúp đỡ của giáo viên học
sinh sẽ tìm được đề tài cho các bài kể chuyện, các em sẽ hiểu sâu hơn nội dung
mỗi chủ điểm trong sách. Nội dung kể chuyện sẽ mở rộng hiểu biết của các em.
Văn học trong nhà trường theo cách đó sẽ gắn với văn học ngoài đời sống, cuộc
sống trong khuôn viên nhà trường gắn với cuộc sống rộng mở ngoài xã hội . Đó
là điều kiện tốt, góp phần giúp nhà trường đào tạo được những con người năng
động, có khả năng thích ứng với đời sống xã hội luôn biến đổi.
*/ Quan tâm đến việc rèn kĩ năng nói qua việc lập dàn ý để hướng dẫn học
sinh xây dựng câu chuyện được chứng kiến hoặc tham gia:
Chỉ cần quan sát, chính ta sẽ thấy trong giờ chơi cũng như ở ngoài đường
phố, trẻ em (nhất là trẻ em lớp 4,5) kể cho nhau nghe những câu chuyện các em
vừa được chứng kiến, tham gia một cách rất hào hứng. Các em cũng thường kể
cho ông bà, cha mẹ, anh chị nghe một chuyện xảy ra ở trường, lớp, chuyện về
một người bạn, về một người hàng xóm, chuyện về giấc mơ của mình đêm qua.
Nhưng đứng trước thầy cô và các bạn trong lớp, hình như các em lại dễ lúng
túng, mất tự tin.
Có thể giải thích điều ấy bằng hai lý do: Trẻ hào hứng kể chuyện vì đó là
những câu chuyện các em thích và có nhu cầu kể lại cho người khác nghe để
cùng chia sẻ cảm xúc. Vả lại, khi kể chuyện cho những người thân quen, trẻ
không sợ bị đánh giá, nhận xét. Xem như vậy thì kiểu bài này không xa lạ với
9
học sinh. Trong chương trình lớp 4 cũ cũng không có kiểu bài đã chứng kiến,
tham gia khác đặt ở môn tập làm văn và nội dung cũng chỉ bó hẹp ở một vài việc
tốt ở nhà, ở trường hay ở địa phương. Theo yêu cầu của chương trình mới, nội
dung câu chuyện cần phù hợp với chủ điểm đang học ở trong tuần. Kể chuyện
gắn với từng chủ điểm là một yêu cầu không dễ nhưng được khắc phục bằng
những gợi ý cụ thể của sách giáo khoa và chỉ dẫn cụ thể của giáo viên. Điều kiện
thuận lợi để thực hiện các kiểu bài này là sự đa dạng về chủ điểm học tập sẽ
giúp học sinh dễ cảm thấy hứng thú hơn khi tìm tòi và kể lại câu chuyện.
Chương trình lớp 4 cũng không đòi hỏi học sinh phải tìm được những câu
chuyện có tình tiết phức tạp li kì. Điều quan trọng nhất là học sinh tìm được câu
chuyện phù hợp và kể nó với thái độ hồn nhiên, như là các em đang kể chuyện ở
sân trường trong giờ chơi, trên đường đi học hoặc kể chuyện ở nhà với người
thân. Để thực hiện được nhiệm vụ kể chuyện, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
chuẩn bị trước nội dung câu chuyện và tình tiết câu chuyện sẽ được ghi trong lại
trong dàn ý học sinh dựa vào đó để lại một cách dễ dàng câu chuyện được chứng
kiến hoặc tham gia trong cuộc sống hằng ngày.
Ví dụ: - Em kể cho thầy (cô) và các bạn nghe câu chuyện mình được chứng
kiến hoặc tham gia? Để học sinh tái hiện được tình tiết chính trong câu chuyện,
giáo viên nên dùng biện pháp gợi ý bằng câu hỏi.
- Câu chuyện đó nói về điều gì?
- Chuyện xảy ra khi nào, ở đâu?
- Sự việc bắt đầu thế nào, diễn biến ra sao, kết thúc thế nào?
- Sau sự việc ấy em có suy nghĩ gì?
Không cần lập dàn ý quá chi tiết, dẫn đến chỉ phụ thuộc vào dàn ý, hạn chế
sự phát triển kĩ năng nói. Giáo viên cần tránh xa hướng dạy tiết kể chuyện đã
chứng kiến hoặc tham gia như dạy tập làm văn.
*/ Quan tâm đến việc gây hứng thú học tập và công tác đánh kết quả học tập
của học sinh.
Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học sinh có ý nghĩa hết sức cần
thiết.Qua việc tổ chức đánh giá giúp học sinh điều chỉnh hoạt động học. Tạo cơ
hội cho học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để giúp học sinh nhận ra sự tiến
bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập của học sinh..
- Khi tổ chức cho lớp nhận xét lời kể của một học sinh cần hướng các em đi
tìm cái đáng học, đáng khen, tránh chăm chăm “Vạch lá tìm sâu” tìm khuyết
điểm của bạn. Lời nhận xét của giáo viên cần nêu đúng ưu điểm, khuyết điểm
trong lời kể của học sinh nhưng diễn đạt khéo léo, tế nhị, sao cho mỗi em vẫn
cảm thấy mình đạt được ít nhiều thành công, được thầy cô và các bạn biểu
dương, thừa nhận. Cần khen ngợi những thành công, tiến bộ nhỏ nhất của các
em để các em thêm mạnh dạn, tự tin, phấn khích, càng ngày càng tiến bộ nhiều
hơn khi kể chuyện trước các bạn.
Biện pháp 3: Chú trọng rèn cho học sinh biết sử dụng kết hợp ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ cho học sinh khi kể chuyện
10
Trong kể chuyện, ngoài việc rèn cho học sinh biết sử dụng ngôn ngữ của
chính mình để diễn đạt lại câu chuyện định kể, giáo viên cần quan tâm đến việc
rèn cho học sinh biết sử dụng kết hợp các yếu tố phi ngôn ngữ như : ánh mắt,
điệu bộ , cử chỉ… Các yếu tố phi ngôn ngứ rất giàu ý biểu đạt, nó hỗ trợ đắc lực
cho người kể diễn đạt nội dung. Nội dung chuyện vui, đi kèm với ánh mắt mở
trò và sáng lên , buồn thì ngược lại, hoặc có khi là những giọt nước mắt hay nụ
cười, cái khoát tay, giậm chân… đều làm cho hình ảnh trong chuyện được thể
hiện toàn diện hơn. Vì vậy giáo viên cần quan tâm đến yếu tố phi ngôn ngữ để
rèn luyện cho học sinh khi tham gia kể chuyện.
Để dạy - học thành công ở kiểu bài này giáo viên cần lưu ý một số điều sau:
- Giáo viên cần tế nhị khi hướng dẫn học sinh kể chuyện.
- Nếu em đang kể bỗng lúng túng vì quên chuyện, giáo viên có thể nhắc
một cách nhẹ nhàng để em đó nhớ lại câu chuyện.
- Nếu có em kể thiếu chính xác, cũng không nên ngắt lời thô bạo.
- Nên động viên khuyến khích để các em kể tự nhiên, như là đang kể cho
anh, chị, em hay bạn bè ngoài lớp học.
- Chú trọng nhận xét lời kể của học sinh theo hướng khích lệ để các em cố
gắng.
- Khen ngợi học sinh chuẩn bị bài tập kể chuyện tốt, biết kể lại chuyện
bằng giọng kể biểu cảm.
- Giáo viên cần quan niệm một cách đúng mức về kể sáng tạo.
- Kể chuyện sáng tạo có nhiều mức độ khác nhau, gắn với những kiểu bài
tập khác nhau nhưng bản chất của kể chuyện sáng tạo không phải là kể khác
nguyên văn mà là kể tự nhiên như sống với câu chuyện, kể bằng ngôn ngữ,
giọng điệu của mình, thể hiện được cảm nhận của mình về câu chuyện đó.
- Khi kể tự nhiên, hồn nhiên bằng giọng điệu, cảm xúc của chính mình, trẻ
có thể thêm vào câu chuyện một số câu chữ của mình nhưng cũng có thể chỉ
diễn lại nguyên văn câu chuyện đã thuộc lòng. Giáo viên cần tránh các kiểu máy
móc dẫn đến sai lầm là khuyến khích học sinh thay những từ (chốt) bằng những
từ ngữ khác.
Một vấn đề được đặt ra qua trao đổi trực tiếp giáo viên đang dạy ở lớp 4 đó là:
Giáo viên làm thế nào để giúp đỡ những học sinh không biết cách kể chuyện.
Đến lớp 4 mà vẫn có học sinh không biết cách kể chuyện thì có nghĩa là
học sinh ấy đã “ngồi nhầm lớp”. Tuy nhiên, trong lớp bao giờ cũng có sự phân
hoá về trình độ khác nhau được luyện nói và đạt được thành công ít nhiều trong
kể chuyện.
Ví dụ: Trước khi dạy kiểu bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia.
Giáo viên có thể giới thiệu tên truyện, thậm chí cho học sinh yếu kém mượn
truyện, nhắc các em đọc kĩ truyện để tuần tới cô sẽ mời em thi tài cùng các bạn
trong lớp. Được thầy cô động viên và có sự chuẩn bị tâm thế tốt, những học sinh
này có thể kể tốt hơn những học sinh khá giỏi không có sự chuẩn bị chu đáo.
- Giáo viên cần quan tâm hơn đến học sinh yếu kém trong hoạt động nhóm
để giúp các em luyện tập tốt hơn trước khi tham gia thi kể chuyện trước cả lớp.
11
- Khi chọn học sinh thi kể chuyện trước lớp, giáo viên không nên chỉ nhằm
vào học sinh khá, giỏi. Cần chọn đại diện các nhóm có trình độ tương đương
Biện pháp 4: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học :
Ngoài việc, quan tâm sử dụng phương pháp dạy học đặc trưng là phương
pháp dạy học nêu vấn đề và phương pháp luyện tập thực hành trong dạy phân
môn kể chuyện với kiểu bài kể lại chuyện đã tham gia hoặc chứng kiến, giáo
viên cần sử dụng phối hợp và có hiệu quả các phương pháp dạy học khác như
phương pháp hỏi đáp, phương pháp phỏng vấn phương pháp trò chơi học tập ...
để tổ chức hướng dẫn các em hoạt động tích cực hơn. Một nguyên tắc khi sử
dụng các phương pháp dạy học là không coi phương pháp nào là "vạn năng" .
Với việc lựa chọn và sử dụng các hình thức dạy học, giáo viên cần chú ý
sử dụng các hình thức tổ chức cho học sinh học tập cần phong phú đa dạng hợp
lý tránh lạm dụng một hình thức tổ chức dạy học nào dễ gây nhàm chán cho học
sinh.
5. VẬN DỤNG CÁC GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC
SINH LỚP 4 TRONG PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN.
Áp dụng cho bài:
KỂ CHUYỆN:
Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia
Đề bài: Kể một câu chuyện em được chứng kiến hoặc trực tiếp tham gia thể
hiện tinh thần kiên trì vượt khó.
I. Mục tiêu: Giúp học sinh.
1. Rèn kĩ năng nói:
- Học sinh chọn đuợc một câu chuyện mình đã chứng kiến hoặc tham gia thể
hiện tinh thần kiên trì vượt khó. Biết sắp xếp các sự việc thành một câu chuyện.
Biết trao đổi với các bạn về ý nghĩa câu chuyện.
- Lời kể tự nhiên, chân thực, có kết hợp lời nói với cử chỉ điệu bộ.
2. Rèn kĩ năng nghe:
- Học sinh chăm chú nghe bạn kể, biết nhận xét, đánh giá lời kể của bạn theo
các tiêu chí đã nêu.
3. Giáo dục: Biết kiên trì vượt khó vươn lên trong học tập cũng như trong
cuộc sống hàng ngày.
II. Đồ dùng dạy học:
GV: - Tranh SGK phóng to.
- Giấy khổ to viết gợi ý trong sách giáo khoa.
I.
Các hoạt động dạy- học:
A. Kiểm tra bài cũ(3 phút)
- Trong tiết kể chuyện tuần trước, mà - 1 học sinh lên bảng kể trước lớp.
em đã được nghe hặc được đọc nói về - Học sinh cả lớp nghe và nhận xét.
một người có nghị lực. Em nào xung
12
phong kể lại câu chuyện mình đã luyện
tập ở tiểttước để cô và cả lớp cùng
nghe? học trước các em hãy kể lại
truyện đã nghe, đã đọc về người có nghị
lực.
- Giáo viên nhận xét về nội dung và lời
diễn đạt của học sinh rồi cho điểm.
B. Bài mới:
1. Giới thiệu bài (1 phút)
GV : Tiết kể chuyện lần trước, các em
đã nghe, kể những truyện về người có ý
chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống.
Hôm nay, các em sẽ kể những truyện về
người có tinh thần, kiên trì vượt khó ở
xung quanh mình. Các em hãy tìm xem
bạn nào lớp mình đã biết quan tâm đến
mọi người xung quanh mình.
- GV ghi tên bài.
2. Hướng dẫn học sinh kể chuyện.
a. Tìm hiểu yêu cầu của đề bài (5phút)
- GV cho học sinh đọc đề trong sách
giáo khoa.
- Giáo viên ghi đề bài lên bảng.
- GV cho học sinh xác định yêu cầu:
- Đề bài yêu cầu kể về chuyện gì ?
- GV gạch dưới từ ngữ cần lưu ý: kể,
chứng kiến tham gia kiên trì vượt khó.
- Yêu cầu học sinh đọc nội dung gợi ý
trong SGK.
- Thế nào là người có tinh thần vượt
khó?
- Học sinh lắng nghe.
- 2 học sinh nhắc lại đề bài. Lớp ghi
vở.
- 2 học sinh đọc thành tiếng. Các em
khác đọc thầm.
- Học sinh phát biểu.
- 3 học sinh tiếp nối nhau đọc từng gợi
ý .Các em khác đọc thầm.
- Người không quản khó khăn vất vả,
luôn cố gắng,khổ công để làm được
công việc mà mình mong muốn hay có
ích.
- Em kể về ai? Câu chuyện đó như thế - Học sinh nối tiếp nhau trả lời.
nào?
- GV treo tranh minh hoạ lên bảng.
- Học sinh quan sát.
- Quan sát tranh minh hoạ và mô tả - 2 Học sinh giới thiệu.
những gì em biết qua bức tranh?
- Tranh 1 và tranh 4 kể về một bạn gái
có gia đình vất vả. Hằng ngày bạn phải
làm việc để giúp đỡ gia đình. Tối đến
bạn vẫn chịu khó học bài.
- Tranh 2 và tranh 3 kể về một bạn trai
13
khuyết tật nhưng bạn vẫn kiên trì, cố
b. Thực hành kể chuyện trong nhóm(5 gắng luyện tập và học hành.
phút )
- GV treo bảng phụ gợi 2 lên bảng.
- Yêu cầu học sinh lập nhanh dàn ý - 1 học sinh đọc thành tiếng.
trước khi kể.
- 1 HS đọc thành tiếng.
- Dùng từ xưng hô - tôi( kể cho bạn ngồi
bên, kể trước lớp).
- Yêu cầu học sinh kể chuyện theo cặp. - 2 học sinh ngồi cùng bàn trao đổi kể
chuyện.
- GV đi giúp đỡ các em yếu và khen
ngợi nếu có học sinh chuẩn bị tốt dàn ý
cho bài kể từ trước khi lên lớp.
c. Thi kể chuyện trước lớp(19 phút )
- Tổ chức cho học sinh thi kể chuyện - 5 đến 7 học sinh thi kể. Mỗi em kể
trược lớp.
xong có thể trao đổi cùng các bạn đối
thoại về nội dung, ý nghĩa câu chuyện.
- Giáo viên khuyến khích HS lắng nghe
và hỏi lại bạn kể những tình tiết về nội
dung, ý nghĩa truyện.
- GV hướng dẫn cả lớp nhận xét, bình - Nhận xét lời kể của bạn theo các tiêu
chọn bạn có câu chuyện hay nhất, bạn chí đã nêu.
kể chuyện hấp dẫn nhất.
- Nhận xét từng HS kể, HS hỏi và cho
điểm từng học sinh.
3. Củng cố, dặn dò (2 phút)
- Gợi ý HS tự rút ra một số điểm cần lưu
ý: Qua luyện tập kể một câu chuyện em - Học sinh nêu ý kiến.
được chứng kiến hoặc trực tiếp tham gia
thể hiện tinh thần kiên trì vượt khó, em
rút ra điểm gì cần nhớ về câu chuyện
được chứng kiên hoặc tham gia?
- GV nhấn mạnh: Cần giới thiệu nhân
vật ,hoàn cảnh mở đầu câu chuyện, diễn
biến và kết thúc câu chuyện; có nhiều - Học sinh lắng nghe.
chi tiết cụ thể, sinh động; lời kể rõ ràng,
rành mạch , hấp dẫn.
- Nhận xét tiết học,dặn HS kể chuyện
cho người thân nghe chuyện thể hiện
tinh thần kiên trì vượt khóvà xem trước
bài kể chuyện Búp bê của ai?
14
PHẦN III: KẾT LUẬN:
1. Kết luận
Qua gần nhiều năm thực dạy lớp 4 bản thân tôi đã nghiên cứu, điều tra, quan
sát, thực nghiệm, phân tích, thống kê cho đến thời điểm này tôi đã có những đổi
mới áp dụng vào trong dạy học kiểu bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham
gia. Đặc biệt là qua quá trình dạy học trong năm 2015- 2016 từ thực trạng dạy
học như đã phân tích tôi đã đúc rút kinh nghiệm cho bản thân đến thời điểm này
tôi đã và đang “ gặt hái” được thành công trong quá trình thực hành của mình.
Hầu hết các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội
dung câu chuyện, biết sử dụng giọng điệu, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể,
các em biết thay thế thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động
hơn.Tính đến giai đoạn giữa học kì II. Qua dạy thực nghiệm và tiến hành khảo
sát trên tổng số 20 học sinh lớp 4B tôi đã có được kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2
Nội dung, yêu cầu
Đạt
Chưa đạt
SL
TL
SL
TL
1. Biết chọn và sắp xếp
các sự việc thành một
20
100
0
0
câu chuyện.
2. Biết kể câu chuyện
theo trình tự logic và
14
70
6
30
hiểu ý nghĩa câu chuyện.
3. Lời kể tự nhiên, chân
thực, biết kết hợp lời kể
10
50
10
50
với cử chỉ, điệu bộ.
Kết quả ở bảng 2 cho thấy, ở yêu cầu tối thiểu là việc lựa chọn và sắp
xếp các sự việc thành một câu chuyện đã là một việc trở nên nhẹ nhàng với học
sinh, ở yêu cầu này đã có 100% số học sinh đạt yêu cầu, với những yêu cầu cao
hơn thấp dần nhưng cũng đã nâng lên đáng kể so với bảng 1, ở yêu cầu (2) có
70% học sinh đạt ( tăng 20%)và ở yêu cầu (3) có 50% ( tăng 20%).
Như vậy, chất lượng học sinh như ở bảng 2 đã tăng đáng kể điều đó chứng
tỏ rằng các giải pháp, biện pháp đã thực hiện là có hiệu quả. Cụ thể là : Hâù hết
học sinh đã biết kể trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời
gian để rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý, rất ít em
phải nhìn vào dàn ý để kể lại. Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm,
giáo viên là người chỉ đạo hướng dẫn, còn học sinh là ngừi thực hiện triển khai
công việc, tôi nghĩ trong giờ dạy, giáo viên nên tạo ra trong lớp học một không
khí sôi nổi thoải mái. Giáo viên nên dùng những hình thức động viên, khuyến
khích các em, đặc biệt là đối với những em rụt rè, chưa tự tin. Bởi lẽ ai cũng
biết, hoạt động giao tiếp là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với xã hội. Giao
tiếp đối với học sinh Tiểu học là vô cùng cần thiết.Việc rèn luyện trong giờ kể
15
chuyện cũng vậy, nó giúp các em khi tiếp xúc với bạn bè, với thầy cô, với người
thân một cách tự nhiên thân mật hơn và tự tin hơn rất nhiều.
Bằng việc sử dụng phương pháp dạy học mới một cách sáng tạo cùng
với việc nắm bắt tâm lý của giáo viên và học sinh tôi đã nghiên cứu thành công
đề tài này. Sau khi thực nghiệm, được sự góp ý của Ban giám hiệu, tổ chuyên
môn, giáo viên trong đơn vị tôi đã hoàn thiện cơ bản sáng kiến này và thể hiện
qua các trang viết như bạn đọc Phân môn kể chuyện luôn là một môn học lôi
cuốn học sinh, hấp dẫn học sinh và nó không hề khó nếu như chúng ta biết tìm
ra cái đích cuối cùng của nó.
2. Đề xuất:
Các cấp lãnh đạo cần kiểm tra, đánh giá chặt chẽ đối với giáo viên trong
quá trình dạy môn Kể chuyện ở tiểu học .
Cần trang bị cho giáo viên tiểu học một hệ thống tri thức xã hội đầy đủ có
liên quan đến phân môn Kể chuyện ở tiểu học.
Giáo viên cần được bồi dưỡng thêm về lý luận dạy học đặc biệt là trang bị
phương pháp dạy học mới, trong coi trọng các phương pháp dạy học thực hành
tập trung vào luyện kỹ năng nói cho học sinh.
Cần đầu tư cơ sở vật chất và đồ dựng dạy học trong phân môn kể chuyện ở
tiểu học để chất lượng dạy học ngày càng đạt hiệu quả cao, nhằm đạt mục tiêu
giáo dục tiểu học
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Hà Trung, ngày 12 tháng 3 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY.
(Tác giả ký và ghi rõ họ tên)
LÊ THỊ THÚY
16