Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 4 trường tiểu học thành kim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 27 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 4 - TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH KIM

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:

Lê Thị Luyến
Giáo viên
Trường Tiểu học Thành Kim,
Thạch Thành, Thanh Hóa
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2016

1


MỤC LỤC
Nội dung
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm


1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

Trang
1
1
2
2
2
2
2
4

nghiệm
3. Giải pháp
3.1. Thống kê các bài tập chính tả cần thay thế
3.2. Xây dựng hệ thống bài tập thay thế cho những bài tập chính

7
7
8

tả lựa chọn và cung cấp, mở rộng các quy tắc chính tả
3.3. Giáo viên đọc mẫu chính xác và rèn đọc đúng cho học sinh.
3.4. Trang bị sổ tay chính tả cho học sinh
3.5. Chấm chữa bài thường xuyên, cẩn thận.
3.6. Giúp học sinh thực hành nói đúng chính tả qua giao tiếp
3.7. Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua hoạt động trò

12

12
13
13
14

chơi
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo

14

dục với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. Kết luận, kiến nghị
15
1. Kết luận
15
2. Kiến nghị
16
Tài liệu tham khảo
18
Phụ lục
19- 24
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Từ sau cách mạng tháng Tám, với sự ra đời của một nước Việt Nam độc
lập, tiếng Việt đã chiếm giữ một vị trí xứng đáng của mình là ngôn ngữ chính
thống của dân tộc. Là một giáo viên Tiểu học, tôi luôn mong muốn học sinh của
mình nhận thức sâu sắc vế sự giàu đẹp của tiếng Việt và các em phải có ý thức
giữ gìn và phát huy bản sắc tiếng Việt trong nhà tường thông qua các hoạt động
giáo dục. Cụ thể là tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra biện pháp dạy - học tốt
nhất để giúp học sinh nói và viết đúng chính tả tiếng Việt.

Mặt khác, trong chương trình cấp Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vai trò
hết sức quan trọng và chiếm thời lượng tương đối nhiều, trong đó phân môn

2


chính tả với thời lượng 1 tiết/ tuần. Phân môn này có nhiệm vụ hình thành và
phát triển kĩ năng viết và kĩ năng nói cho học sinh.
Để giúp học sinh viết đúng chính tả, các chuyên gia giáo dục đã rất coi
trọng việc xây dựng chương trình, nội dung sách giáo khoa và các biện pháp
hình thức dạy học theo hướng đổi mới là lấy người học là trung tâm. Song, vấn
đề chính tả luôn là vấn đề khá phức tạp do ảnh hưởng phát âm của từng vùng,
miền, do thói quen của người lớn trong gia đình phát âm theo tiếng địa phương
dẫn đến học sinh cũng nói sai theo và dẫn đến viết cũng sai lỗi chính tả theo quy
định.
Từ ngày 05 tháng 5 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kí
quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông
– cấp Tiểu học, trong đó có hướng dẫn chung chương trình các môn học ở Tiểu
học bằng tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng. Phân môn chính tả phần bài tập được
xây dựng hai loại bài: Bài tập bắt buộc và bài tập lựa chọn. Điều này giúp gợi ý
cho giáo viên cách chọn bài tập phù hợp với đối tượng học sinh. Do đó giáo viên
có thể căn cứ vào lỗi chính tả của học sinh do ảnh hưởng phát âm của địa
phương mình để lựa chọn các bài tập chữa lỗi chính tả cho phù hợp hoặc giáo
viên có thể tự soạn một bài tập chữa lỗi khác mà học sinh thường sai khi viết,
khi nói.
Thạch Thành là một huyện miền núi nằm ở phía Bắc tỉnh Thanh Hoá với
địa hình tương đối phức tạp, dân di cư ở các huyện khác như Thiệu Hoá, Hoàng
Hoá khá đông với hai dân tộc chủ yếu là Mường và Kinh. Cũng giống như nhiều
địa phương khác trên đất nước ta, vấn đề phương ngữ cũng đang là đề tài nóng
cho giáo viên trực tiếp đứng lớp cũng như các nhà quản lí giáo dục. Để soạn

được một bài chữa lỗi chính tả thay thế cho sát với đối tương học sinh của mình
không phải giáo viên nào cũng có thể làm được.
Song, trên thực tế lại chưa có một hệ thống bài tập cụ thể nào ở địa phương
bàn sâu và cung cấp các dạng bài tập cụ thể cho giáo viên trực tiếp giảng dạy
phân môn chính tả.
Là giáo viên trẻ có nhiều năm được giao chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy
học sinh lớp 4, tôi đã luôn trăn trở: “Làm thế nào để khắc phục lỗi chính tả
phương ngữ cho học sinh lớp 4?”. Sau nhiều năm nghiên cứu, học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp tôi đã tiến hành xây dựng hệ thống bài tập thay thế cho
các bài tập chính tả lựa chọn cho phân môn chính tả lớp 4. Vì những lí do trên,
tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho
học sinh lớp 4 - Trường Tiểu học Thành Kim huyện Thạch Thành tỉnh
Thanh Hóa ”. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và các cấp quản lí
giáo dục!
2. Mục đích nghiên cứu:
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất
để thể hiện tư duy. Vì thế mà Tiếng Việt không chỉ là phương tiện nhận thức, tư
duy, giao tiếp giữa mọi người trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày mà nó còn là
một công cụ để học tập, nghiên cứu,…Đối với học sinh Tiểu học cũng vây,

3


Tiếng Việt giúp các em vui chơi, học tập và giao tiếp. Ngược lại, trong môi
trường học tập các em lại được học những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt một cách
thành thạo, đúng quy chuẩn. Điều này góp phần giúp các em nói đúng, viết đúng
và sử dụng đúng Tiếng Việt trong mỗi văn cảnh cụ thể. Mà khi các em đã biết sử
dụng đúng ngữ pháp Tiếng Việt thì các em mới cảm nhận hết được cái hay, cái
đẹp của Tiếng Việt. Trong phạm vi đề tài này, tôi muốn xây dựng được một hệ
thống các bài tập chính tả thay thế cho các bài tập chính tả lựa chọn trong

chương trình Tiếng Việt lớp 4. Điều này chắc chắn sẽ giúp học sinh lớp 4 trên
địa bàn huyện Thạch Thành nắm vững hơn các quy tắc chính tả, khắc phục được
một số lỗi do thói quen của địa phương.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này sẽ nghiên cứu về một số lỗi chính tả phổ biến của học sinh do cách
phát âm địa phương và lỗi chính tả do chưa nắm được quy tắc chính tả của học
sinh lớp 4 trên địa bàn huyện Thạch Thành. Từ đó xây dựng hệ thống bài tập
thay thế cho các bài tập lựa chọn trong phân môn chính tả lớp 4 phù hợp.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra, tôi đã
sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Các nhà ngôn ngữ cho rằng: Thuật ngữ chữ viết chỉ chung hệ thống kí hiệu
dùng để ghi ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu thì chữ viết là hệ thống
kí hiệu của kí hiệu.
Tuy nhiên không thể đồng nhất ngôn ngữ và chữ viết. Người ta có thể không
biết chữ nhưng vẫn có ngôn ngữ như thường. Về mặt lịch sử, ngôn ngữ xuất
hiện cùng với xã hội loài người, nhưng tới giai đoạn cao của xã hội loài người
mới có chữ viết. Chữ viết là hệ thống kí hiệu ghi lại ngôn ngữ. Hiện nay chữ viết
tiếng Việt bao gồm 29 chữ cái và được viết theo một kích thước nhất định với
những dáng chữ khác nhau ( chữ thẳng, chữ nghiêng, chữ có nét thanh đậm,…).
Trong nhà trường, chữ viết tiếng Việt là một phương tiện đẻ giao tiếp giữa thầy
và thầy, thầy và trò, trò và trò. Vì vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết cho học sinh
trong nhà trường là rất cần thiết. Đặc biệt đối với bậc Tiểu học, chữ viết là một
trong những công cụ dạy học của giáo viên. Bên cạnh việc dạy cho học sinh viết

đẹp thì yêu cầu dạy cho học sinh viết đúng rất quan trọng. Muốn làm được điều
đó, giáo viên phải nắm được những nguyên tắc chính tả Tiếng Việt sau:
+ Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực: Nghĩa là nội dung giảng dạy về
chính tả phải sát với phương ngữ.
+ Nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không có ý thức. Trong
nhà trường, giáo viên cần sử dụng và khai thác tối đa phương pháp có ý thức.

4


Muốn vậy, giáo viên cần phải được trang bị những kiến thức về ngữ âm học, về
từ vựng – ngữ nghĩa học liên quan đến chính tả.
+ Nguyên tắc phối hợp giữa biện pháp tích cực với biện pháp tiêu cực 9 xây
dựng cái đúng, loại bỏ cái sai). Đối với học sinh Tiểu học có ba loại lỗi cơ bản
sau:
- Lỗi chính tả do không nắm được trình tự.
- Lỗi chính tả do không nắm được cấu trúc Tiếng Việt.
- Lỗi chính tả do viết theo lỗi phát âm địa phương.
Việc dạy cho học sinh viết đúng chính tả, đặc biệt là dạy cho các em nắm
vững nguyên tắc chính tả để thay cho cách viết theo phương ngữ lại càng khó.
Trong khi đó chính tả tiếng Việt lại đang còn một số hạn chế như:
- Để ghi một âm lại dùng nhiều con chữ khác nhau. Ví dụ: Ghi âm /k/ dùng 3
con chữ (c, k, q),..
- Chữ viết còn chưa tốt do những qui định tuỳ tiện. Ví dụ: cách viết “i”, “y”,..
- Nhiều vần còn chưa hợp lí: nhiều khi cùng một vần nhưng lại viết bằng
những cách khác nhau. Ví dụ: ia/iê, ua/uô, ưa/uô,…
Từ xa xưa, dân tộc ta đã có truyền thống quý trọng, giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt và đề cao cái hay cái đẹp trong lời ăn tiếng nói. Những phẩm chất cao
đẹp trong lời ăn tiếng nói được đánh giá như những tiêu chuẩn thẩm mĩ, đồng
thời như là giá trị đạo đức con người. Do đó mà việc bảo về tiếng nói, chữ viết

của dân tộc đã trở thành tư tưởng có tính chất chính thống. Giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt là phải có tình cảm yêu quý, có thái độ trân trọng đối với tiếng nói
và chữ viết của dân tộc. Muốn vậy thì chúng ta phải nói và viết tiếng Việt một
cách chính xác, hơn nữa phải đạt hiệu quả giao tiếp cao. Mà sử dụng tiếng Việt
trong sáng là sử dụng theo các chuẩn mực của tiếng Việt, trong đó chuẩn mực
quan trọng là: Chuẩn mực về chính tả.
Thế nhưng, học sinh Tiểu học có đặc điểm là nhanh nhớ nhưng cũng rất
nhanh quên, nếu giáo viên không nhắc, không chú ý sửa sai thường xuyên thì
các em sẽ quên ngay. Bên cạnh đó, khi rời trường về nhà các em lại tiếp xúc với
những người thân, người xung quanh,… thì những lỗi do phát âm lại hình
thành.Vì vậy mà đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên quan tâm đến học sinh,
phải biết lựa chọn các bài tập chính tả chữa lỗi phù hợp với địa phương để giúp
học sinh viết đúng chính tả theo tiếng nói phổ thông của cả nước. Điều này cũng
sẽ giúp các em - những chủ nhân tương lai của đất nước góp phần giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt.
Mặt khác, xuất phát từ cơ sở tâm lí học, việc dạy học các bài tập chính tả cho
học sinh còn cần phải sử dụng những phương pháp dạy học thích hợp nhằm
khêu gợi và kích thích sự chú ý, tích cực hoá hoạt động tư duy của học sinh,
giúp các em thấy được tầm quan trọng về ý nghĩa thực tiễn của việc viết đúng
chính tả trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ viết. Từ đó, các em sẽ thực
hiện tốt các yêu cầu của kĩ năng chính tả và tự giác rèn luyện để ứng dụng có
hiệu quả trong thực tiễn.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:

5


Trong chương trình phân môn chính tả hiện nay của bậc học tiểu học, tuy
phần bài tập chính tả, đã được các Nhà nghiên cứu Giáo dục có xây dựng
chương trình theo hướng mở để giáo viên có thể vận dụng linh hoạt vào thực

trạng học sinh của địa phương mà soạn những bài tập thay thế phù hợp. Song
trên thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các giáo viên vẫn dạy theo chương trình đã
được biên soạn sẵn như trong sách giáo khoa, mà chưa dành thời gian nghiên
cứu, tìm tòi để xây dựng hệ thống bài tập thay thế. Như vậy, việc xây dựng
chương trình theo hướng mở sẽ không hề có hiệu quả. Học sinh viết sai chính tả
do phương ngữ, do chưa nắm vững quy tắc chính tả thì vẫn sai, các bài tập trong
chương trình thì không mang lại hiệu quả gì cho học sinh. Bởi vì, trên địa bàn
Thạch Thành học sinh không hoặc có chăng cũng rất hạn hữu mắc các lỗi chính
tả như: có âm đầu l/n; có vần uôn/uông; ât/âc; an/ang,… Mà lỗi chính tả cơ bản
của các em thường mắc do cách phát âm địa phương là các tiếng có thanh hỏi,
thanh ngã, các tiếng có nguyên âm đôi,.. hay những lỗi phổ biến do các em
không nắm được quy tắc chính tả như: r/ d /gi, s/x, ch/tr, c/q, g/gh, ng/ngh…
hay cách viết hoa tên riêng, tên tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,… do
các cụm từ biểu thị như: Bộ giáo dục, Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ ngoại giao,
Bộ trưởng bộ Ngoại giao, Trường Đại học Hồng Đức,… Trong chương trình
Tiếng Việt lớp 4, phân môn Luyện từ và câu (tuần 7) có dành 2 bài/2 tiết cung
cấp cho học sinh: Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam. Sang tuần 8 có 1
bài/1tiết cung cấp cho học sinh kiến thức: Cách viết tên người, tên địa lí nước
ngoài. Song theo tôi với thời lượng như vậy là quá ít, không đủ để học sinh với
năng lực hoàn thành có thể nắm bắt được.
Mặt khác, mục đích của việc dạy chính tả là hình thành cho học sinh kĩ năng
viết thông thạo tiếng Việt theo các chuẩn chính tả. tức là giáo viên phải rèn cho
học sinh viết chính tả một cách tự động hoá, khi viết các em không cần phải
trực tiếp nhớ đến các quy tắc chính tả, không cần đến sự tham gia của lí trí.
Là một giáo viên, nhiều năm liền trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 4,
tôi nắm rất kĩ những vướng mắc của học sinh khi viết sai chính tả. Cụ thể, đầu
năm học 2014 – 2015 có những bài chính tả viết sai lỗi như sau:

6



(Bài viết của em: Trịnh Hồng Thêm - Lớp 4A trường TH Thành Kim)

(Bài viết của em: Hoàng Thị Ngọc - Lớp 4A trường TH Thành Kim)

7


Từ thực trạng trên, để giúp các em tránh được các lỗi phương ngữ, lỗi do
chưa nắm vững quy tắc viết chính tả tiếng Việt, tôi đã mạnh dạn xây dựng hệ
thống các bài tập chính tả thay thế cho phần bài tập lựa chọn trong phân môn
chính tả lớp 4. Tôi tin rằng, với hệ thống bài tập này sẽ phần nào giúp các em
nói và viết sẽ không mắc lỗi chính tả, sẽ dùng từ, đặt câu, hành văn trong sáng
góp phần để học tốt môn Tiếng Việt cũng như những môn học khác. đồng thời
góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Để nắm được chính xác, cụ thể những lỗi chính tả mà học sinh trường tôi
thường mắc phải, tôi đã tiến hành làm một bài khảo sát với học sinh khối lớp 4,
năm học 2014- 2015 như sau:
- Tổng số học sinh tham gia khảo sát: 78 em
- Nội dung khảo sát gồm 2 bài tập chính tả sau:
- Thời gian khảo sát: Tháng 10 năm 2014
- Thời gian: 15 phút/ bài
Bài 1:
a, Điền vào chỗ trống l hoặc n để hoàn chỉnh đoạn văn sau:
Điên điển, …oại cây hoang dã, thân mềm mà dẻo, …á nhỏ …i ti, mọc từng
chòm từng vạt …ớn trên đồng ruộng đồng bằng sông Cửu Long. Từ An Giang,
Đồng Tháp dài xuống Cần Thơ, Rạch Giá, Cà Mau, ruộng đồng …ào cũng có.
Theo Mai Văn Tạo
b, Điền vào chỗ trống vần an hoặc ang để hoàn chỉnh đoạn văn:
Chuyến ô tô h... sơn màu v... đ… lê ì ạch trên bờ đê dưới những bụi tre già.

Bụi đường và ánh nắng bốc lên đỏ xuộm. Trong l... bụi, mờ mờ thấy những h...
cơm, quán nước.
Theo Tô Hoài
c, Điền tiếng có vần ât hoặc âc để tạo từ ngữ đúng:
… ngủ
… đèn
… đống
… vả
lật …
… chội
quả…
… thang
d, Điền vào chỗ trống vần ut hoặc uc để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Tiếng nhạc v... lên cao
Bé lắc người theo nhịp
Tr... ngoài vườn xào xạc
Nước trong hồ xôn xao.
Hoàng Trang
Bài 2:
a, Điền vào chỗ trống r, d hay gi để hoàn chỉnh truyện sau:
Hai chú bé đang …ủ …ỉ trò chuyện:
- Mẹ cậu là cô …áo mà cậu chẳng biết viết một …òng chữ nào!
- Thế sao cha cậu là bác sĩ …ăng mà em cậu lại không có cái nào?
Theo Trần Mạnh Thường
b, Đặt thanh hỏi hoặc thanh ngã trên các chữ in đậm để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Thấy anh mơ sách học
Em lâm châm đến bên

8



Anh dạy em chư nhé
Chư A này bé ơi.
Nguyễn Thị Hồng Ngát
c, Trong các từ ngữ sau, từ ngữ nào viết sai chính tả? Em hãy viết lại cho đúng.
Sạch sẽ, xanh sao, sang sông, sáng xủa, ngôi xao, sôi gấc, cặp xách, sương
đêm, xửa chữa, xức khoẻ.
d, Điền vào chỗ trống ch hay tr:
Nền …ời rực hồng. Từng đàn én …ao lượn, bay ra phía biển. Những con tàu
sơn …ắng đậu san sát, tung bay cờ đủ màu sắc, …ông …úng như những toà lâu
đài nổi ẩn hiện …ong gió ban mai.
Kết quả khảo sát như sau:
Bài 1:
Lỗi/
l/n
an/ang
ât/âc
ut/uc
Ghi chú
HS
78
SL TL
SL TL
SL TL
SL TL
em
2
2,6% 3
3,84% 1
1,3% 2

2,6%
Bài 2:
Lỗi/
r/d/gi
thanh hỏi/
s/x
ch/tr
Ghi chú
HS
thanh ngã
78
SL TL
SL TL
SL TL
SL TL
em
41 52,6% 52 66,7% 58 74,4% 59 75,6%
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát trên, tôi nhận thấy học sinh khối lớp 4
trường Tiểu học Thành Kim không viết sai cặp phụ âm l/n nhiều ( cá biệt có 2
học sinh mắc lỗi là do các em nói ngọng). Các cặp vần an/ang, ât/âc, ut/uc sô
học sinh viết sai cũng rất ít, nguyên nhân là những học sinh này không suy nghĩ
kĩ khi làm bài. Nên đến khi giáo viên hỏi các em lại biết đưa ra đáp án đúng.
Ngược lại, số lượng học sinh viết sai các cặp phụ âm: r/d/gi, thanh hỏi
/thanh ngã, s/x, ch/tr còn sai rất nhiều. Mặc dù trong chương trình sách giáo
khoa Tiếng Việt, phần bài tập chính tả cũng có hệ thống bài tập tương đối phong
phú giúp học sinh được thực hành để nắm chắc cách viết các phụ âm này. Tuy
nhiên, đa số học sinh ở mức độ hoàn thành cũng chưa nắm được các luật chính
tả này. Ngoài ra trong quá trình giảng day, tôi còn thống kê thêm một số lỗi
chính tả học sinh lớp 4 trường Tiểu học Thành Kim thường nhầm lẫn như:
ng/ngh, g/gh, oc/ooc, iu/uyu.

3. Giải pháp:
3.1. Thống kê các bài tập chính tả lựa chọn cần thay thế:
Sau khi có kết quả khảo sát, tôi tiến hành nghiên cứu nội dung chương trình
sách giáo khoa hiện hành một cách tỉ mỉ, chi tiết. Đặc biệt là nghiên cứu hệ
thống bài tập lựa chọn của phân môn chính tả. Tôi nhận thấy trong chương trình,
các nhà viết sách đã có rất nhiều bài tập được xây dựng theo hướng mở để giúp
giáo viên có thế soạn bằng các bài tập thay thế phù hợp với địa phương. Trong
đó những bài tập chưa phù hợp với đối tượng học sinh trường Tiểu học Thành

9


Kim. Cụ thể gồm các bài ở một số tuần học sau:
STT
Bài/ tuần
Nội dung bài tập lựa
chọn
1
2
3
4
5
6
7

Tuần 1
Tuần 9
Tuần 14
Tuần 16
Tuần 17

Tuần 22
Tuần 26

phân biệt l/n, an/ang
phân biệt l/n,uôn/uông
phân biệt ât/âc
phân biệt ât/âc
phân biệt l/n, ât/âc
phân biệt l/n, ut/uc
phân biệt l/n, in/inh

Nội dung thay thế
phân biệt thanh hỏi/ thanh ngã
phân biệt ch/tr
phân biệt r/d/gi
phân biệt r/d/gi
phân biệt s/x
phân biệt s/x, ch/tr, iu/uyu
phân biệt ng/ngh, g/gh, oc/ooc

3.2. Xây dựng hệ thống bài tập thay thế cho những bài tập chính tả lựa
chọn và cung cấp, mở rộngcác quy tắc chính tả:
(Hệ thống bài tập và quy tắc chính tả này tôi đã biên soạn và hướng dẫn cho
các giáo viên trong khối 4 cùng thực hiện ).
*Tuần 1: Bài tập thay thế là:
Bài tập: Em hãy điền thanh hỏi hoặc thanh ngã trên các chữ in đậm để hoàn
chỉnh truyện sau:
Có một người nôi tiếng bun xin. Một hôm, anh ta có khách.Gà, vịt, ngan,
ngông thì đầy sân, nhưng chu thì luôn miệng than là chăng có gì đai khách.
Đến trưa, vẫn chăng thấy động tinh gì dưới bếp, người khách nói: “ Thôi bác

giết quách ngựa cua tôi đi. Ta làm bưa chen, mấy khi mình gặp nhau”.Chu nhà
ngạc nhiên: “ Thế lúc về thì bác đi bằng gì?” Khách than nhiên: “ Bác cho tôi
mượn một con ngông to nhất đàn. Tôi cươi ngông về cung được”.
Theo truyện cười dân gian Việt Nam
*Tuần 9:
Bài tập: Điền vào chỗ trống tr hoặc ch để hoàn chỉnh đoạn văn:
a) Tôi yêu những cánh đồng vàng rực ngày mùa, thơm vị mía lùi và …ắng
xoá sương mù sau Tết. Tôi yêu tiếng …uông …ùa ngân thăm thẳm canh khuya.
Tôi yêu ánh nắng …iều tà …ải màu vàng …ên rẫy khoai mì, nghiêng nghiêng
bên …iền núi.
Theo Mai Văn Tạo
b) ...oáng ngợp
bé ...oắt
...uệch choạc
chập ...oạng tối
choảnh ...ọe
mở ...oàng mắt
c) nông ...ường
phù hộ độ ...ì
...ại an dưỡng
...ưởng họ
...ọng nhau vì tài
phong ...ào
d) ...én trà
...ảo gang
...õ đồ xôi ...ắp vá
...áu nội vắt ...anh bỏ vỏ ...è bưởi
...ớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
Sau bài tập này tôi lại củng cố, mở rộng thêm cho học sinh về quy tắc chính
tả tr/ch như sau:

+ Chữ tr không đứng trước các tiếng có âm đệm ( oa, oă, oe, uê, oo, eng, en).
Do đó nếu gặp các dạng này ta chọn ch để viết, không chọn tr.
Ví dụ 1:

10


- choa đèn, chóa lòa, sáng chóa, vỡ choang, choàng dậy, choáng ngợp, chếnh
choáng, chăn choắt, choảnh chọe, bảnh chọe, vàng chóe, …
- chòong khoan, đục chòong, nện chòong,...
- cheng cheng, chập cheng, cá chẻng, chẹn cổ, chẹn đường, ăn chẹn,...
- chuệch choạng, ...
+ Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Do
đó nếu gặp các từ này ta chọn tr để viết, không chọn ch.
Ví dụ 2:
- quảng trường, trường đấu, Trường Giang, can trường, trọng án, trọng tâm,
trang trại, cao trào, trào dâng, trì hoãn, trì trệ,...
+ Những từ chỉ đồ vật trong nhà, chỉ tên các loại quả, chỉ tên các món ăn, chỉ tên
các hoạt động, chỉ quan hệ của những người trong gia đình và những từ mang ý
nghĩa phủ định thường có âm đầu ch.
Ví dụ 3:
- chăn, chiếu, chén, chạn, chảo,… chuối, chanh, chôm chôm, … cháo, chè, chả,
… chạy, chặt, chẻ,… cha, chú, chị, cháu, chắt,… chớ, chưa,…
+ Một số từ có thể thay âm đầu tr bằng âm đầu gi.
Ví dụ 4:
- trồng - giồng, trời - giời, trầu - giầu, trăng – giăng,…
+ Cả tr và ch đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp từ láy âm đầu thì ta có thể chọn
cả hai tiếng cùng có âm đầu ch hoặc ch.
Ví dụ: chông chênh, chen chúc, chăm chỉ,..tròn trĩnh, trùng trục, trăn trở,…
+ Trong các từ láy vần chỉ có tiếng có âm đầu ch ( trừ một số trương hợp đặc

biệt: trét lẹt, trót lọt, trụi lủi, trọc lóc).
Ví dụ: chơi vơi, lừng chừng, chênh vênh, chán ngán, chót vót,..
+ Một số từ chỉ vị trí thường viết là tr.
Ví dụ: Trên, trước, trong.
*Tuần 14:
Bài Tập: Điền vào chỗ trông r, d hoặc gi để hoàn chỉnh đoạn thơ sau:
Đồng làng vương chút heo may
Mầm cây tỉnh …ấc, vườn đầy tiếng chim
Hạt mưa mải miết trốn tìm
Cây đào trước cửa lim …im mắt cười.
Quất gom từng …ọt nắng …ơi
Làm thành quả - trăm mặt trời vàng mơ
Tháng …iêng đến tự bao …ờ
Đất trời viết tiếp bài thơ ngọt ngào.
Đỗ Quang Huỳnh
Sau bài tập này, tôi lại cung cấp cho học sinh cách phân biệt r/d/gi như sau:
- Chữ r và gi không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm oa, uê, oe, uy. Do đó
gặp các tiếng dạng này thì chọn d để viết.
Ví dụ: kinh doanh, doạ nạt, hậu duệ, duy nhất, duyệt binh,…

11


- Trong từ Hán Việt:
+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.
Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, mậu dịch, kỳ diệu,…
+ Các tiếng có thanh sắc, thanh hỏi thường viết với gi.
Ví dụ: giám sát, giới thiệu, giá cả, tam giác, giảng giải, giải thích,…
+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi khi vần
có âm đầu a, và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.

Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia,…du dương, do thám, dư dật,..
- Trong cấu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả gi, d, r đều có từ láy âm. Nếu gặp từ láy âm thì có thể chọn cả hai
tiếng cúng có âm đầu gi, r hoặc d.
Ví dụ: giãy giụa, giành giật, giục giã, già giặn,…dai dẳng, dào dạt, dập dìu, …
ríu rít, ra rả, rì rào, réo rắt, run rẩy,…
+Láy vần: Tiếng có d thường láy với tiếng có l; tiếng có r thường láy với tiếng
có b, c; Tiếng có gi thường láy với tiếng có n.
Ví dụ: lim dim, lò dò, lai dai,…bịn rịn, cập rập, co ro, cò rò, bủn rủn, gian nan,
gieo neo, giãy nãy.
- Trong cấu tạo từ ghép giữa r, d và gi. Chỉ có từ ghép có tiếng âm đầu gi và
tiếng âm đầu d, không có từ ghép có tiếng âm đầu r và âm đầu d hay âm đầu r
và âm đầu gi.
Ví dụ: già dặn, giáo dục, giao dịch, giả dối, giản dị, giao du, giảng dạy, giận
dữ, gian dối, giận dỗi, giao duyên,….
*Tuần 16:
Bài tập: Điền vào chỗ trống tiếng chứa âm đầu r, d hoặc gi để hoàn chỉnh
đoạn văn sau:
Sang ngày 24 tháng chạp, chợ Bưởi mới … thật đông vui. Người ta chen
nhau vào chợ … súc, … cầm. Ai cũng muốn mua … ba con gà. Ít … thì cũng
phải có lấy một chú trống choai để cúng … thừa.
* Tuần 17:
Bài tập: Điền vào chỗ trống s hay x:
a) Người hái củi van vỉ …in cây cho một nhánh nhỏ. Cây tốt bụng cho ngay.
Người đó liền lấy ngay nhành cây ấy làm cán rìu và đốn luôn cây. Chỉ đến lúc bị
ngã …uống, cây mới thật …ự hối hân. Nó thốt lên: “Tại …ao mình lại ngu …i
đến thế, cấp cho người ta chính cái để hại mình!”
b) Vừa đánh vừa ...oa
tóc ...oăn
làm không ...uể

Tóc ...òa xuống mắt
...òe bàn tay
cung chúc tân ...uân
c) xập ...ệ
lôi xềnh ...ệch
săm ...oi
xa ...ỉ
cười ...ằng sặc
sặc ...ỡ
d) lạo ...ạo
...áng láng
lệch ...ệch
lấc ...ấc
đồ ...ộ
liêu ...iêu
Theo Mạnh Linh
Sau bài tập tôi cung cấp cho học sinh kiến thức phân biệt s/x:
- Chữ s không đứng đầu các tiếng có âm đệm (oa, oă, oe, uê, uâ) ngoại trừ các

12


trường hợp: soát, soạt, soạng, soạn, suất. Do đó gặp các tiếng dạng này thì ta
chọn x để viết, không chọn s.
Ví dụ:
- xoa xuýt, xùm xòa, xuề xoà, xoay xở, xoành xoạch, xuềnh xoàng, xoăn xoe,
xuân, xí xóa, xoai xoải, xuệch xoạc, xoắn ốc, xập xòe, tròn xoe, xuê xoa, du
xuân, xuất bản, trục xuất,…
- Trong cấu tạo từ láy:
+Láy âm: Cả x và s đều có từ láy âm . Do đó nếu gặp từ láy âm đầu thì có thể

chọn cả hai tiếng cùng có âm đầu s hoặc x.
Ví dụ: xệu xạo, xềnh xệch, xềnh xoàng, sậm sịch, sặc sụa, sèn sẹt, sắc sảo, suy
suyễn, sục sạo, sung sướng, số sàng, sáng sủa, sôi sục, suồng sã, sường sượng,
… xao xuyến, xôn xao, xì xào, xí xoá, xấp xỉ, xồm xộp, ...
+ Láy vần: Tiếng có x thường láy với tiếng có l, trừ một số trường hợp: lụp sụp,
lè sè, sinh linh, sáng láng. Do đó nếu gặp láy vần thì ta chọn tiếng chứa âm đầu
x.
Ví dụ: lao xao, lăng xăng, lì xì, lếch xếch, lỉnh xỉnh, liểng xiểng, loăn xoăn, loà
xoà, lộn xộn, lao xao, xoi mói, xích mích, loảng xoảng, lộc xộc, lúp xúp, lười
xười, lăng xa lăng xăng,...
*Tuần 22:
Bài tập: Điền vào chỗ chấm:
a, Tiếng chứa âm đầu s hay x để hoàn chỉnh đoạn thơ sau:
Mùa … chia cho bé
Chiếc kẹo bi tròn …
Và mở trang … mới
Rủ bé cùng … tranh.
Ý Nhi
b, Tiếng chứa ch hay tr để hoàn chỉnh đoạn thơ sau:
Thăm thẳm … xanh lộng đáy hồ
Mùi hoa thiên lí thoảng … thu
Con cò bay lả … câu hát
Giấc … say dài nhịp võng ru.
Nguyễn Bính
c, Vần iu hay uyu:
- bận b…
- r… rít
- khúc kh…
- n… kéo
- ngã kh...

- tiu ngh...
Sau bài tập này giáo viên lưu ý HS: vần iu và vần uyu giống ở âm chính và
âm cuối i (y) – u, khác nhau ở chỗ vần vần iu không có bán âm đầu vần, vần
uyu có bán âm đầu vần. Khi viết thêm chữ u đầu vần. Khi đọc, tròn môi. trong
tiếng Việt vần uyu chỉ có trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, khuỵu chân, ngã
khuỵu.

13


*Tuần 26:
Bài tập: Điền vào chỗ chấm:
a, ng hay ngh:
- …ĩ ngợi
- …ành nghề
- nghe …óng
- ngoằn …oèo
- ngoan …oãn
- …iên cứu
- ngộ …ĩnh
- dấu …oặc
b, g hoặc gh:
- gập …ềnh
- …ần gũi
- gặp …ỡ
- Lên thác xuống …ềnh
- …é thăm
- Mặt hồ …ợn sóng
c, Vần oc hay ooc:
- t... mây

- đàn ... - gan
- moi m...
- rơ – m...
- đàn ắc – c...
- đầu ...
Sau bài tập giáo viên lưu ý học sinh:
Vần oc và vần ooc là hai vần khác nhau ở âm chính o ngắn trong oc và o
dài trong ooc. Khi có hai chữ o ta đọc dài hơn. Khi viết chú ý nghe đọc phân
biệt hai vần này. Vần ooc thường có trong các từ vay mượn.
3.3. Giáo viên đọc mẫu chính xác và rèn đọc đúng cho học sinh:
Việc đọc mẫu của giáo viên rất quan trọng vì đó chính là trực quan để học
sinh bắt chước. Vì vậy, để giúp học sinh viết đúng chính tả, tôi luôn rèn cho
mình thói quen đọc đúng và rèn cho học sinh phát âm chuẩn theo tiếng phổ
thông. Nhất là khi hướng dẫn học sinh viết chính tả tôi luôn luôn đề cao việc
hướng dẫn các chữ khó viết để học sinh nắm được cách viết và nghĩa của từ.
Điều này giúp học sinh có thể viết đúng từ mọi lúc, mọi nơi. Khi đọc cho học
sinh viết tôi đọc rõ ràng để học sinh dễ nghe, mặt khác tôi luôn yêu cầu học sinh
đánh vần nhẩm khi viết cho đỡ sai chính tả.
Để giúp học sinh đọc đúng, tôi luôn yêu cầu học sinh luyện đọc đúng ở tất cả
các môn học và luôn nhắc nhở học sinh có ý thức tự giác luyện viết đúng, viết
đẹp ở tất cả các môn học. Việc làm này đã được tôi thống nhất cho tất cả giáo
viên khối 4 cùng thực hiện.
3.4. Trang bị sổ tay chính tả cho học sinh:
Đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học là các em rất nhanh nhớ nhưng cũng
rất nhanh quên. Vì vậy, để giúp học sinh ghi nhớ lại các quy tắc, mẹo luật chính
tả hay cả những lỗi chính tả mà các em đã nhầm lẫn trong các bài viết, bài tập
chính tả, tôi đã trang bị cho mỗi học sinh một sổ tay chính tả. Quyển sổ này
được tôi thiết kế nhiều hoa văn hấp dẫn, đẹp mắt nên nó không chỉ có tác dụng
giúp các em dùng làm sổ ghi chép các từ ngữ thường viết sai chính tả đã được
chữa lại và các mẹo, luật chính tả mà còn tạo thêm hứng thú học tập cho mỗi

học sinh. Nó được các em ghi chép đầy đủ và giữ gìn rất cẩn thận. mỗi khi gặp
từ dễ viết sai, các em lại mang ra đọc. Điều này giúp học sinh có thói quen
thường xuyên ôn lại các lỗi chính tả các em đã sai, nhớ lại quy tắc, mẹo chính tả

14


để các em viết đúng chính tả Tiếng Việt như một thói quen. Trong sổ tay chính tả
tôi hướng dẫn cho các em ghi lại những mẹo luật chính tả một cách ngắn gọn
nhất.
Ví dụ: Để giúp các em nhớ được cách viết dấu hỏi, dấu ngã với từ Hán –
Việt bắt đầu bằng: D, L, V, M, N, Nh, Ng, Ngh thì được viết với dấu ngã. Tôi
tóm tắt cho học sinh nhớ mẹo luật này bằng 1 câu ngắn gọn: “Mình nên nhớ viết
là dấu ngã”. Những trường hợp còn lại được viết với dấu hỏi ( trừ 1 số trường
hợp ngoại lệ như: kĩ năng, bãi khóa, phẫu thuật, linh cữu, tống tiễn, hỏa tiễn, ấu
trĩ, túng quẫn, tích trữ, hỗn chiến, hữu dụng, hãm tài, thi sĩ, cưỡng đoạt, kĩ nữ, kĩ
sư, bĩ cực, tiễu trừ, thủ quỹ, mĩ thuật, ...).
- Với M: mẫn cảm, mĩ lệ, miễn dịch, mẫu số, mãnh liệt,...
- Với N: não bộ, nữ trang, nữ nhi, nỗ lực,...
- Với D: dũng mãnh, hoang dã, diễm lệ, dã tâm,..
- Với L: thành lũy, lão tướng, kết liễu, lễ độ, lễ hội,...
- Với V: viễn thông, viễn thị, vĩ mô, vĩ đại, phong vũ,..
- Với Nh: thổ nhưỡng, truyền nhiễm, nhẫn nại,....
- Với Ng: ngoại ngữ, ngôn ngữ, quân ngũ, ...
- Với Ngh: nghĩa hiệp, đạo nghĩa,...
Sổ tay chính tả rất có ích đối với học sinh Tiểu học và tạo thêm hứng thú học
tập cho các em.
3.5. Chấm chữa bài thường xuyên, cẩn thận:
Tôi cho rằng việc chấm chữa bài cho học sinh sau khi viết chính tả cũng rất
quan trọng. Từ tháng 10 năm học 2014 -2015 Bộ Giáo dục đã ban hành thông tư

30, thông tư này quy định việc chấm chữa bài của giáo viên đối với bậc Tiểu học
chỉ chấm bằng nhận xét mà không chấm bằng điểm số.
Thực hiện theo thông tư 30, tôi đã hướng dẫn học sinh đổi chéo vở để kiểm
tra giúp học sinh sửa lỗi chính tả lẫn nhau. Điều này, giúp các em khắc sâu được
những lỗi chính tả của bạn và của mình. Đồng thời khi chấm bài cho học sinh,
tôi soát lỗi cẩn thận và chỉ ra tững lỗi cụ thể cả về chính tả và chữ viết. Khi trả
bài cho các em, tôi yêu cầu học sinh đọc lời nhận xét của cô và viết lại những từ
mình viết sai sau đó sửa lại vào sổ chính tả cá nhân của từng em. Việc làm này,
tôi luôn nhắc nhở và động viên các em làm thường xuyên ở tất cả các môn học,
chứ không phải riêng môn chính tả.
Đặc biệt, đối với các bài tập chính tả tôi chấm, chữa bài thường xuyên để
sửa lỗi và cung cấp thêm cho các em những quy tắc chính tả cơ bản. Biện pháp
này, được tôi thống nhất ngay từ đầu năm học trong buổi họp khối để các bạn
đồng nghiệp cùng áp dụng.
3.6. Giúp học sinh thực hành nói đúng chính tả qua giao tiếp:
Để khắc phục được lỗi chính tả cho học sinh, tôi thiết nghĩ cần phải tạo cho
các em một môi trường giao tiếp tự nhiên lành mạnh. Bởi vì, khi các em tiếp xúc
với một môi trường giao tiếp có nhiều người nói sai lỗi chính tả thì các em sẽ
cũng nói sai một cách tự nhiên vô thức. mà nói sai sẽ dẫn đến viết sai. Vì vậy mà
tôi cho rằng giáo viên cần phối hợp tốt với gia đình, cùng gia đình uốn nắn, sửa

15


lỗi cho học sinh. Từ đó, phụ huynh học sinh cũng ý thức được trong qúa trình
trò chuyện ở nhà với các em cũng cần nói chuẩn để con em mình bắt chước.
Trong các giờ học ở trường, trong tất cả các môn học tôi đều gọi những học
sinh hay mắc lỗi ra để trò chuyện và tìm hiểu nguyên nhân mà các em hay viết
sai chính tả. Từ đó tôi giúp các em luyện cách phát âm chuẩn khi nói. Việc lám
này giúp các em nhớ lâu rồi dần dần các em nói đúng rồi viết đúng.

Đồng thời, trong quá trình giảng dạy tôi luôn đề cao tầm quan trọng của
việc tự học của các em. Đặc biệt là tạo điều kiện cho các em học tập chính bạn
mình. Đúng như lời ông cha ta đã từng nói: “ Học thầy không tày học bạn”. Vì
thế mà tôi đã bố trí để những học sinh viết đúng, viết đẹp ngồi cùng bàn với
những học sinh hay viết sai chính tả để các em có thể sửa lỗi cho nhau. Đây là
biện pháp mang lại hiệu quả rất tốt và giúp học sinh tiến bộ rất nhanh và đặc biệt
là các em tiến bộ một cách tự nhiên.
3.7. Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua hoạt động trò chơi:
Hứng thú có vai trò quan trọng trong học tập, không có việc gì người ta
không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. Đúng như M.Gorki từng nói:
“Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Vì vậy bồi dưỡng hứng thú học
tập cho học sinh rất quan trọng. Song hứng thú không tự nhiên nảy sinh nếu
không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể mất đi. Đối với học sinh Tiểu học, hứng
thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức được lợi
ích của việc học để tạo động cơ học tập và thông qua các trò chơi học tập. Theo
tôi không có con đường nào khác để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của học
sinh với Chính tả Tiếng Việt là giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả
năng kì diệu của nó. Để tạo hứng thú học tập cho học sinh trong các giờ học làm
các bài tập chính tả, tôi đã giúp các em hoàn thành bài tập bằng cách tham gia
vào các hoạt động trò chơi như: Thi tìm nhanh, tìm đúng; Chiếc hộp biết đi; Ai
nhanh hơn?... Mặt khác, thông qua trò chơi tôi còn giúp học sinh nhận ra được
những điều lí thú của Tiếng Việt như cùng phát âm gần giống nhau nhưng cách
viết và nghĩa của một số từ lại hoàn toàn khác nhau.
Ví dụ: sinh- xinh, xắn- sắn, sâu – xâu, sấu –xấu, xập – sập, sương – xương,
sướng – xướng, che- tre, châu – trâu, chồng – trồng, chầu – trầu, chăn- trăn,
trông – chông, da- ra- gia, râu- dâu, rận- giận, dữ - giữ, dành- giành- rành, sỉsĩ, nghỉ- nghĩ, xả - xã, ...
Đồng thời trong quá trình dạy- học tôi luôn đề cao tính sáng tạo của học sinh,
kích thích để các em tự tìm tòi và phát hiện ra kiến thức. Khi học sinh làm được
điều đó tôi luôn tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng và tôn trọng với những gì các em đã
tìm ra dù là rất nhỏ. Tôi luôn tìm ra những ưu điểm của các em để khuyến khích

các em, kích thích các em học tốt hơn. Bởi vì đạt được thành công trong học tập
sẽ tạo ra hứng thú và niềm say mê trong học tập ở học sinh. Chỉ có thành công,
niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc
thật sự của sự ham muốn học hỏi.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.

16


Với những biện pháp, cách làm trên, đã giúp học sinh lớp tôi trực tiếp giảng
dạy, cũng như học sinh khối lớp 4 ngày một tiến bộ cả về chữ viết cả về lỗi
chính tả.
Tháng 4 năm 2015 tôi đã xây dựng hệ thống bài tập và khảo sát lại mức độ
sai lỗi chính tả của học sinh khối lớp 4, với những bài tập phân biệt: s/x, ch/tr,
r/d/gi, thanh hỏi/thanh ngã, iu/uyu, oc/ooc. Kết quả như sau:
lỗi/
HS

s/x

ch/tr

r/d/gi

Thanh hỏi/
thanh ngã

iu/uyu


oc/ooc

78 SL
SL
SL
SL
SL
SL
em 3 3,8% 4 5,1% 2 2,5% 1 1,2% 1 1,2% 2 2,5%
Không chỉ thế mà chất lượng chữ viết của học sinh khối lớp 4 của trường
tôi cũng được nâng cao rất nhiều. Kết quả xếp loại Giữ vở sạch, viết chữ đẹp cấp
trường như sau:
- Xếp loại A: 60 em = 76,9%, xếp loại B: 18 em = 23,1%. Trong đó, số học sinh
được công nhận Giữ vở sạch, viết chữ đẹp cấp huyện là: 8em.Trong đó nhà
trường đã thưởng cho lớp tôi với mức vượt chỉ tiêu 2 em.
Năm học 2015 – 2016 tôi được BGH nhà trường giao chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 4A, tôi đã tiếp tục áp dụng sáng kiến của mình vào công tác giảng dạy
để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 4A, đồng thời cùng chia sẻ cho các
bạn đồng nghiệp trong khối cùng áp dụng và thực hiện. Kết quả cụ thể như sau:
Tháng 3 năm 2016 tôi đã xây dựng hệ thống bài tập và khảo sát lại mức độ
sai lỗi chính tả của học sinh khối lớp 4, với những bài tập phân biệt: s/x, ch/tr,
r/d/gi, thanh hỏi/thanh ngã, c/k/q, iu/iêu. Kết quả như sau:
lỗi/
HS

s/x

ch/tr

r/d/gi


Thanh hỏi/
thanh ngã

c/k/q

iu/iêu

68
em

SL
SL
SL
SL
SL
SL
2 2.9% 3 4,4% 2 2,9% 1 1,5% 0 0% 1 1,5%
Không chỉ thế mà chất lượng chữ viết của học sinh khối lớp 4 của trường tôi
cũng được nâng cao rất nhiều. Kết quả xếp loại Giữ vở sạch, viết chữ đẹp cấp
trường như sau: Tổng số học sinh: 68 em
- Xếp loại A: 54 em = 79,4%, xếp loại B: 14 em = 20,6%. Trong đó, số học sinh
được công nhận Giữ vở sạch, viết chữ đẹp cấp huyện là: 8em. Riêng lớp tôi với
số học sinh là 22 em, xếp loại A cấp trường là: 19 em = 86,4 %; xếp loại B: 3
em = 13,6%. Số học sinh đạt danh hiệu “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”cấp huyện
là 4 em.
III. Kết luận, kiến nghị:
1. Kết luận:
Việc rèn cho học sinh Tiểu học nói chung cũng như học sinh lớp 4 nói riêng
viết đúng chính tả không phải là việc quá khó đối với giáo viên trực tiếp giảng

dạy. Thế nhưng để làm tốt điều này, tôi thiết nghĩ rất cần có lòng yêu nghề, tâm
huyết với nghề dạy học, luôn yêu thương và tôn trọng học sinh. Bởi vì, nêu yêu
nghề, yêu trẻ, tất cả vì học sinh thì người giáo viên sẽ tìm tòi, học hỏi và nghiên

17


cứu để tìm ra những biện pháp tốt nhất giúp các em viết đúng, viết đẹp. Để làm
được điều này, giáo viên khi nhận lớp phải tìm hiểu thông tin về học sinh, phải
biết được các em đang thiếu, đang yếu cái gì và nguyên nhân của nó. Từ đó,
giáo viên sẽ từng bước giúp đỡ, dẫn dắt các em vượt qua.
Bản thân tôi cũng vậy, khi thấy học sinh viết sai những lỗi giống nhau, tôi
đã tìm hiểu rõ nguyên nhân và giúp các em bằng cách soạn hệ thống bài tập để
thay thế cho các bài tập lựa chọn phù hợp với địa phương. Cung cấp, mở rộng
thêm các quy tắc chính tả mà trong chương trình sách giáo khoa không có. Làm
được điều này, là cả một quá trình tìm hiểu, học hỏi và tìm kiếm tư liệu của bản
thân tôi đã tích luỹ được trong quá trình dạy học. Đồng thời, với lòng yêu nghề,
tôi đã luôn quan tâm, chăm từng nét chữ của học sinh qua từng bài học, tôi là
người cầm tay chỉ việc, sửa từng nét chữ, từng lỗi cho các em. Thấy học sinh
của mình ngày càng tiến bộ tôi rất lấy làm tự hào và hạnh phúc.
Mặt khác, trong quá trình giảng dạy, tôi chú trọng phương pháp dạy học tích
cực: Lấy học sinh làm trung tâm, tôi để cho các em tự tìm ra cái sai của mình,
cái sai của bạn để từ đó các em có thể tự chữa lỗi cho mình và cho bạn. Từ đó
rèn cho các em ý thức và kĩ xảo viết đúng tả, tạo tiền đề để học sinh học tốt các
môn học khác và đặc biệt là có khả năng giao tiếp bằng văn bản tốt.
Thực hiện được điều đó, theo tôi, người giáo viên Tiểu học cần trang bị cho
bản thân những kiến thức về ngôn ngữ học, về từ vựng, chuẩn chính tả, quy tắc
chính tả, mẹo luật chính tả. Bên cạnh đó giáo viên cũng phải nắm được cơ sở
tâm lí học của học sinh Tiểu học. Bởi vì, một điều hiển nhiên là chúng ta không
thể rèn luyện cho người khác một kĩ năng nào đó mà chính chúng ta không có.

Như vậy để giúp học sinh của mình nói, viết đúng Tiếng Việt thì người giáo viên
cần phải có những kĩ năng Tiếng Việt thành thạo. Để làm tốt điều đó, giáo viên
cần phải xác định được những kĩ năng Tiếng Việt cần có và luyện tập cho mình
thành thục những kĩ năng này. Đặc biệt, giáo viên cần nắm vững những đặc
điểm phương ngữ ở học sinh và dự tính được những từ ngữ nào các em sẽ đọc,
viết sai do phương ngữ lệch với chuẩn chữ viết, từ đó mà định ra được các bài
tập chính tả thay thế phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Từng ngày, từng
ngày bằng tất cả tâm huyết của mình đối với nghề với những thế hệ học sinh
thân yêu, tôi tin rằng người thầy nào cũng có thể giúp học sinh của mình nói,
viết đúng chính tả Tiếng Việt một cách dễ dàng.
Hiện tại đề tài này được tôi thực hiện và ứng dụng với học sinh khối lớp 4,
thuộc địa bàn một trường trung tâm của 1 huyện miền núi, nhưng đã thu được
kết quả khả quan. Vì thế mà việc xác định lỗi chính tả theo đặc điểm phương
ngữ để xây dựng hệ thống các bài tập chính tả thay thế cho các bài tập chính tả
lựa chọn cho học sinh khối 4 cũng như học sinh các khối lớp khác là vấn đề cần
được vận dụng và có thể nhân rộng ở các địa phương, vùng, miền khác.
2. Kiến nghị:
Qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi xin phép được kiến nghị tới các
cấp Quản lí giáo dục những việc sau:

18


+ Cần tạo điều kiện cả tinh thần lẫn vật chất để khuyến khích giáo viên chủ
động, sáng tạo xây dựng các hệ thống bài tập thay thế phù hợp với thực tế lỗi
chính tả của học sinh trường mình, giúp khắc phục lỗi chính tả phương ngữ của
các em.
+ Tổ chức các chuyên đề về phương pháp dạy phân môn chính tả.
Trong quá trình thực hiện do điều kiện thời gian còn ít, khả năng lí luận của
bản thân, kĩ năng viết sáng kiến kinh nghiệm còn hạn chế, nên không tránh khỏi

những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp
để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

...................................................
...................................................

Thạch Thành, ngày 10 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

...................................................
...................................................
...................................................
...................................................

Lê Thị Luyến

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19


1. Bài giảng Tiếng Việt 1
- Tác giả: Lê Thị Thu Bình
2. Tiếng Việt nâng cao lớp 3
- Chủ biên: PGS.TS Lê Phương Nga
3. SGK Tiếng Việt lớp 4 (tập 1 + tập 2) - Nhà xuất bản Giáo dục
4. Tiếng Việt nâng cao lớp 4

- Chủ biên: PGS.TS Lê Phương Nga
5. Sổ tay chính tả
6. Từ điển chính tả HS
- Tác giả: Nguyễn Như Ý
7. Phương pháp dạy học Tiếng Việt
- Tác giả: Tiến sĩ Phạm Minh Diệu

PHỤ LỤC

20


Dưới đây là một số bài viết tiêu biểu của học sinh khối lớp 4, trường Tiểu học
Thành Kim.

( Bài viết của em: Nguyễn Thị Hà Trang - Lớp 4B – Năm học 2014 - 2015)

21


( Bài viết của em: Phạm Gia Linh - Lớp 4A – Năm học: 2014 -2015)

22


( Bài viết của em: Lê Thùy trang - Lớp 4A – Năm học: 2015 -2016)

23



( Bài viết của em: Lưu Thùy Dương - Lớp 4A – Năm học: 2015 -2016)

24


( Bài viết của em: Nguyễn Pương Anh - Lớp 4A – Năm học: 2015 -2016)

25


×