Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.15 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1 Lý do chọn đề tài
I.2.Mục đích nghiên cứu
I.3.Đối tượng nghiên cứu
I.4.Phương pháp nghiên cứu
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
II.PHẦN NỘI DUNG SÁNG KIẾN
II.1 Cơ sở lý luận
II.2 Thực trạng
II.3 Giải pháp
II.4 Hiệu quả của sáng kiến
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1 Kết luận
III.2 Kiến nghị
MỘT SỐ BIỆN PHÁP

Trang
2
2
3
3
3
3
3
5
6
13
14


14
15

“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 5"

Người thực hiện: Trần Thị Hiền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đồng Lợi
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2017


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
2.PHẦN NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1 Cơ sở lý luận
2.2 Thực trạng
2.3 Giải pháp
2.4 Hiệu quả của sáng kiến
3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị

Trang
2

2
3
3
3
3
4
5
6
16
17
17
18

2


1.Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động
ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn
dạng hoạt động ,tương ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe ,nói,đọc, viết. Đọc là
một dạng hoạt động ngôn ngữ ,là quá trìng chuyển dạng thức chữ viết sang lời
nói có âm thanh và thông hiểu nó ( ứng với hình thức đọc thành tiếng ) là quá
trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm
thanh ( ứng với đọc thầm ).
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn học, khoa học,tư
tưởng ,tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn
đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc con người sẽ không thể tiếp
thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường ,có
hạnh phúc trong xã hội hiện đại .Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận

lên nhiều lần từ đây con người đã biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống ,nhận thức
các mối quan hệ tự nhiên xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế
ngự mỗi phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp với thế giới bên trong của
người khác ,thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các
tác phẩm văn chương ,con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn
rung động về tình cảm nảy nở với những ước mơ tốt đẹp được khơi dậy năng lực
hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn.
Không biết đọc, con người sẽ không có điêù kiện hưởng thụ sự giáo dục
mà xã hội dành cho họ , không thể hình thành được một nhân cách toàn diện .
Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó
sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học mãi, học mãi
, đọc để tự học, học cả đời .
Vì những lẽ trên, dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học. Đọc trở
thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đọc giúp trẻ em
chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để
học tập các môn học khác, nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều
kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả
năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của con người đọc. Việc dạy học sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn,
bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện, và cái đẹp , dạy cho các em biết suy nghĩ
một cách lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to
lớn nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Tậy đọc là một phân môn thực hành . Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực học cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng
3


cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “ đọc “ :Đọc đúng, đọc nhanh ( lưu lóat,
trôi chảy ), đọc có ý thức (không hiểu nội dung nhữnh điều mình đọc hay còn

gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai
hình thức đọc : Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời
và hỗ trợ lẫn nhau . Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có các động
tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng
như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại nếu không hiểu mình đang
đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh
của bài đọc một cánh chính xác, không có lỗi . Đọc đúng không đọc thừa không
sót từng âm, từng tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn,
tức là đọc đúng chính âm. Đọc đ.úng bao gồm đọc đúng các âm, thanh (đúng
các âm vị ), ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu )
Đọc diễn cảm là đọc đúng ngữ điệu, : Lên giọng, xuống giọng , chuyển
giọng , ngắt, nghỉ ngơi , cường độ trường độ. Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng
đọc vui , buồn , giận giữ, trang nghiêm … phù hợp từng ý cơ bản của bài đọc,
phù hợp kiểu câu thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu
cảm gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả.
Vậy để giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm, hiểu và cảm thụ được bài
văn, bài thơ thơ đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo
định hướng mới đó là “Mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt động
học tập”.
Do đó với mong muốn làm thế nào để chất lượng đọc đúng, đọc diễn cảm
của học sinh lớp 5 ngày càng nâng cao, tôi đã viết sáng kiến kinh nghiệm: Một
số biện pháp "Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5".
1.2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra phương pháp dạy đọc tốt nhất để giúp
học sinh học tốt phân môn Tập đọc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
-Nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 5.
- Các tài liệu: SGK, SGV, sách tham khảo.
- Qua kiểm tra khảo sát HS. Qua dự giờ và trao đổi ý kiến với đồng nghiệp.
-Học sinh lớp 5B trường tiểu học Đồng Lợi – Triệu Sơn Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

- Phướng pháp điều tra
- Phương pháp nhóm.
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp kiểm tra đánh giá.
-Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
-Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
-Phương pháp quan sát, trả lời câu hỏi.
-Phương pháp trực quan.
-Phương pháp thực hành.

2. Nội dung
4


2.1. Cơ sở lí luận
a. Cơ sở tâm sinh lí, đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học
Học sinh Tiểu học - con người với cấu tạo đầy đủ các bộ phận của một cơ
thể đang phát triển. Trong đó, cơ quan phát âm, ngôn ngữ phát triển mạnh, phù
hợp với sự tiếp nhận và thực hiện dễ dàng các hoạt động mới, theo chức năng
của chúng. Chức năng phát âm - Tập đọc.
Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân cách
học sinh đang được trưởng thành, tiềm tàng khả năng phát triển và đang phát
triển.
Trong thực tế hiện nay, ở trường Tiểu học việc dạy đọc, bên cạnh những
thành công, cũng nhiều hạn chế. Học sinh đọc cũng ngọng rất nhiều, chưa biết
cách đọc hiểu, đọc diễn cảm, kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu
cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các giờ Tập đọc thỡ hầu như học sinh chỉ
mới biết đọc đúng, đọc trơn, đọc to, số lượng học sinh biết đọc diễn cảm tốt
cũng rất ớt. Một số giỏo viên chưa thực sự quan tâm đến rèn đọc diễn cảm cho
học sinh, phương pháp cụ thể hướng dẫn rèn đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu

học cũng rất ít được quan tâm.
Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tỉ mỉ, thích
hoạt động, khám phá thường độc lập, tự lực làm việc theo hứng thú của mình
Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng nhất, mọi điều trẻ
đều nhất nhất nghe theo, sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học phụ
thuộc phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy cô trong nhà trường
Tiểu học.
Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học bước đầu đem đến sự vận động khoa
học cho não bộ và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn
hoá, văn học nghệ thuật trong tâm hồn trẻ, rèn kĩ năng đọc, hiểu, cảm thụ văn
học, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát
triển khả năng học tập các môn khác, là điều kiện phát triển toàn diện cho học
sinh Tiểu học.
Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ thuộc
vào quá trình giáo dục của người thầy mà trong đó mà phương tiện là nghe, nói,
đọc, viết có được nhờ học Tập đọc. Dạy Tập đọc đặc biệt là dạy đọc diễn cảm
cho học sinh Tiểu học đòi hỏi người thầy phải có phương pháp dạy học phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học, phù hợp với sự phát triển tiến bộ
của khoa học xã hội đáp ứng như cầu ham hiểu biết của học sinh Tiểu học và
tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách cho trẻ.
b. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy Tập đọc
Ngôn ngữ học đó chỉ trừ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngôn
ngữ chữ viết, chính âm, chính tả, nghĩa của từ, câu ,đoạn, văn bản, ngữ điệu,
nhịp điệu, tình cảm ngôn ngữ. Đó là những vấn đề gắn bó với việc dạy và học
Tập đọc của thầy và trò bậc tiểu học.
5


Văn học nghệ thuật, là tinh hoa của ngôn ngữ, là tình cảm đạo đức lý
tưởng tình yêu, nó có được nhờ cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con

người thêm phong phú và sâu sắc.
Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học là dạy cho học sinh biết đọc đúng
tiếng, từ, câu, chữ, hiểu nội dung rồi đọc đúng ngữ điệu, nhịp điệu, diễn cảm,
cảm nhận được ý nghĩa tình cảm, có cảm xúc, biết tư duy, tưởng tượng, hình
thành ý thức tốt đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp, nghĩa là học sinh biết
chuẩn ngôn ngữ và hiểu biết cảm thụ văn học. Đây là một nghệ thuật, nghệ thuật
trong lao động dạy học sáng tạo của người thầy Tiểu học. Dạy Tập đọc sẽ càng
tinh tế, càng sáng tạo, càng hiệu quả khi ta nghiên cứu vận dụng tốt những thành
tựu của ngôn ngữ văn học.
c. Cơ sở giáo dục và phát triển
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng của nó là hình
thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đó thể hiện ở 4 yêu cầu: Đọc đúng,
đọc nhanh, đọc có ý thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm). Cần phải hiểu kĩ
năng đọc có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau.
Đầu tiên là giải mã chữ - âm một cách sơ bộ, tiếp theo đọc là phải hiểu
được nghĩa của từ, tìm được các từ, câu “chìa khóa” (chốt, trọng yếu) trong bài,
biết tóm tắt nội dung của đoạn. Với những bài văn biết phát hiện ra yếu tố “văn”
và đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Như vậy, biết
đọc đồng nghĩa với kĩ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được văn bản ở các
tầng bậc khác nhau.
2.2. Thực trạng của việc dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5.
a. Thực trạng của việc dạy học phân môn Tập đọc nói chung.
Phân môn Tập đọc có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học sinh Tiểu
học. Do đó, vấn đề dạy học phân môn Tập đọc hiện nay rất được chú trọng. Có
nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng đọc của các em nâng
lên. Nhưng nhìn chung chủ yếu chỉ tập trung đến các lớp đầu cấp để làm sao các
em đọc đúng, đọc trôi chảy là được. Còn ở các lớp cuối cấp, giáo viên chỉ tập
trung nhận xét cách đọc đúng, đọc trơn chứ chưa có biện pháp cụ thể để dành
cho việc luyện đọc diễn cảm.
b. Thực trạng dạy học phân môn Tập đọc lớp 5 ở trường Tiểu học

Đồng Lợi
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu khảo sát chất lượng phân môn Tập
đọc của học sinh lớp 5, bản thân tôi nhận thấy: một số học sinh mới chỉ ở mức
độ đọc đúng, đọc trơn. Có em chẳng cần quan tâm mình có đọc diễn cảm bài
thơ, bài văn đó không mà chỉ đọc to, đọc nhanh là được.
Qua tìm hiểu tôi nhận thấy sở dĩ các em chưa thể đọc lưu loát văn bản là do
các nguyên nhân sau:
1. Do vốn từ ngữ của các em còn hạn chế nên chưa hiểu hết nghĩa của từ
trong văn bản dẫn đến ngắt, nghỉ không đúng và đọc lặp từ hoặc vấp nhiều.
2. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng môn học chưa đúng nên chưa
có ý thức tự rèn luyện.
6


Đối với các em đã đọc tương đối lưu loát các văn bản nhưng chưa biết đọc
diễn cảm, tôi nhận thấy nguyên nhân là do:
1. Các em chưa cảm nhận được ý nghĩa nội dung và nghệ thuật của bài đọc.
2. Điều kiện để bộc lộ năng lực của học sinh còn ít nên chưa phát huy hết
khả năng của mình.
Do cách phát âm theo phương ngữ, thường phát âm lệch chuẩn viết, cụ thể
các em thường mắc lỗi sau:
+ Các lỗi phụ âm đầu: r/d. Ví dụ: rổ rá/dổ dá, rau má/ dau má, chú rể/ chú
dể, rách rưới/ dách dưới…
+ Các lỗi về thanh: Các em đọc còn nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh
hỏi .Ví dụ: suy nghĩ/ suy nghỉ, ý nghĩa / ý nghĩa
+ Do các em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết
nhấn giọng, lên giọng hạ giọng những từ cần thiết.
+ Do các em lười đọc sách không chịu khó rèn đọc.
Nên ngay từ đầu năm học, trong phạm vi nghiên cứu, tôi đã thống kê chất
lượng đọc của học sinh lớp 5 như sau:

Bảng 1: Chất lượng khảo sát phân môn Tập đọc lớp 5 đầu năm như sau:
Tổng
số HS

Lớp
5B

28

Số em đọc chưa
đạt yêu cầu
SL
%
14
50

Số em đọc đúng, rõ
ràng
SL
%
13
46,4

Số em đọc diễn
cảm tốt
SL
%
1
3,6


Qua việc điều tra trên cho thấy tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm còn thấp. Từ lí
do trên tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 5”.
Đây là một việc làm thiết thực mà trong mỗi giáo viên đứng lớp như chúng
ta băn khoăn, suy nghĩ nên dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các giờ dạy
trên lớp nói chung và dạy đọc diễn cảm cho học sinh cuối bậc Tiểu học nói
riêng.
Để đưa chất lượng đọc đúng, đọc diễn cảm có sự thay đổi, tôi xin mạnh
dạn đưa ra một số biện pháp sau:
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả dạy đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 5.
Giải pháp 1:. Luyện đọc đúng.
Vấn đề đọc đúng đối với học sinh là đặc biệt quan trọng và muốn đọc được
diễn cảm các bài văn, bài thơ trước hết học sinh phải đọc lưu loát bài văn, bài
thơ đó.
Vì vậy, trong thời gian của một tiết Tập đọc để học sinh đọc diễn cảm tốt
cần phải phân chia thời gian dành cho luyện đọc và tìm hiểu bài một cách hợp lý
để tránh sa vào giảng văn mà cùng tránh tình trạng chỉ luyện đọc mà không tìm
hiểu được nội dung, nghệ thuật của bài dẫn tới không diễn tả hết được cảm xúc
7


của tác phẩm đó. Vì vậy, tôi luôn dành thời gian hợp lý cho học sinh luyện đọc
đúng.
Thông thường học sinh hay đọc sai những từ hoặc cụm từ mà các em chưa
hiểu đúng nghĩa của nó trong bài văn. Tuy nhiên, cũng có nhiều từ, cụm từ do
được đặt trong một câu dài, hoặc do sự thay đổi của phụ âm đầu, của vần mà nếu
phát âm nhanh hoặc chuẩn bị tâm thế không kỹ sẽ dễ đọc sai, đọc thầm.
Vì vậy, công việc đầu tiên của việc luyện đọc đúng là tìm ra những từ ngữ
mà các em dễ sai nhất để luyện đọc. Việc làm này, nhìn qua chỉ chẳng có gì đặc

biệt thậm chí có giáo viên còn có thể bỏ qua vì cho rằng nó chỉ quan trọng với
học sinh lớp dưới, còn ở lớp 5 học sinh đã thành kỹ năng rồi. Thực ra, việc luyện
đọc đúng lại có một ý nghĩa quan trọng. Thông qua luyện đọc từ tôi có thể giúp
học sinh củng cố về nghĩa, về cách đọc từ đúng, từ đó tìm ra được cách ngắt,
nghỉ hơi đúng trong mỗi câu, cũng có thể giúp học sinh quen với việc sử dụng
bộ máy phát âm một cách điêu luyện, dẫn tới đọc lưu loát.
Để làm tốt bước này tôi ghi những từ dễ đọc sai nhất qua lần đọc nối tiếp
của học sinh rồi luyện đọc cho các em đọc còn hay vấp, hay sai.
Ví dụ: Khi dạy bài: Kì diệu rừng xanh)[ 1]
Học sinh cần được luyện đọc các từ sau:
- Lúp xúp…( luyện đọc đúng vần)
- Lúp xúp, giang sơn vàng rợi, màu sặc sỡ rực lên, nấm dại, chồn sóc,
rừng rào rào chuyển động,...( luyện âm dầu và cụm từ)
* Bài: Tiếng đàn Ba- la- lai – ca trên sông Đà)[ 1] , học sinh luyện đọc
các từ ngữ:
- Chơi vơi, lấp loáng, ba- la- lai- ca…( luyện âm đầu)
- Say ngủ cạnh dòng sông, nối liền hai khối núi…( luyện đọc cụm từ)
* Bài: Mùa thảo quả)[ 1]
Học sinh luyện đọc các từ ngữ:
- Lướt thướt, ngọt lựng, thơm nồng, chín nục, lặng lẽ, rực lên,...( luyện
đọc âm đầu)
- Sự sinh sôi, nơi tầng rừng thấp...( luyện đọc cụm từ) )[ 3]
* Bài: Bầm ơi)[ 2]
Học sinh cần được luyện đọc các từ:
- Lâm thâm, mạ non, mấy lần…( luyện đọc âm đầu) )[4]
- Muôn nỗi tái tê lòng bầm( luyện đọc cụm từ) )[ 4]
Có thể thấy, luyện đọc đúng từ ngữ cho học sinh cũng là giúp cho học sinh
quen với các từ, các cụm từ tránh ngắt nhịp sai và cũng là để đọc đúng âm dầu
8



đồng thời để thay đổi nhanh, uyển chuyển tư thế của lưỡi khiến học sinh có thể
đọc lưu loát bài văn, bài thơ.
Đối với những câu dài trong bài văn hoặc một số câu thơ, học sinh rất hay
bị lúng túng do thiếu chủ động trong lấy hơi dẫn đến ngắt nhịp sai, có khi không
đủ hơi để đọc hát câu theo ý định của mình. Vì vậy, tôi thường cho các em luyện
đọc những câu như thế để các em tự phát hiện chỗ cần ngắt hơi, ngắt nhịp trong
câu. Từ đó, các em sẽ chủ động trong việc lấy hơi, thả hơi khi đọc.
Ví dụ: Học sinh cần luyện đọc và phát hện cách ngắt câu sau đây:
* Bài: Kì diệu rừng xanh)[ 1]
- Những chiếc chân vàng đãm lên thảm lá vàng/ và sắc nắng/ cúng rực
vàng trên lưng nó.
* Bài: Phong cảnh đền Hùng)[ 2]
Học sinh cần ngắt hơi ở câu: Dãy Tam Đảo như bức tường xanh/ sững
sững chắn ngang bên phải/ đỡ lấy mây trời cuồn cuộn.
Và câu: Trước mặt/ là Ngã Ba Hạc, nơi gặp gỡ giữa ba dòng sông lớn/
tháng năm mải miết đắp bồi phù sa cho đồng bằng xanh mát.
* Bài: Đất nước)[ 2]
Học sinh cần ngắt nhịp thơ như sâu:
Mùa thu nay/ khác rồi
Gió thổi rừng tre/ phấp phới
Trời thu/ thay áo mới
Trong biếc / nói cười thiết tha.
Ngắt nhịp, nghỉ hơi không đúng chỉ có ý nghĩa trong việc giúp học sinh đọc
lưu loát không vấp hoặc thiếu hơi; nó còn có ý nghĩa làm tăng hiệu quả trong
diễn tả nội dung, tình cảm của bài đọc. Vì vậy, tôi không chỉ giúp các em ngắt
nghỉ đúng ở các câu dài mà còn quan tâm đến các câu ngắn nhằm mục giúp các
em cảm nhận thêm ý nghĩa nội dung và cảm xúc khi đọc bài.
VD: * Bài: Lập làng giữ biển)[ 2]
Học sinh cần ngăt nhịp đúng câu: Nhụ đi/ và sau đó/ cả nhà sẽ đi. )[ 4]

* Bài: Tiếng rao đêm)[ 2]
Câu: Mặt mày đen nhẻm/ thất thần/ khóc không thành tiếng.
Khi đọc đúng các từ khó, biết ngăt câu hợp lý thì học sinh dễ dàng đọc lưu
loát được toàn bài )[ 4]. Lúc này, các em không còn lo lắng đến những lỗi về âm
hay ngắt hơi, ngăt nhịp mà sẽ tự tin để thể hiện toàn bộ cảm xúc theo những
9


điều các em đã cảm nhận được về tác phẩm trong bài đọc của mình. Đó cũng là
bước khởi đàu quan trọng cho việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh.
Giải pháp 2- Ngữ điệu, cường độ và cao độ của giọng đọc.
Muốn thể hiện đúng cảm xúc của tác phẩm thì chỉ đọc đúng thôi chưa đủ
mà người đọc còn phải biết kết hợp ngữ điệu, cường độ và cao độ của giọng
đọc. Bởi vậy, mỗi bài học, bài đọc tôi đều khuyến khích học sinh tự tìm ra
những cách thể hiện hay nhất bài đọc thông qua ngữ điệu, độ to nhỏ, trầm bổng
và nhanh chậm của âm thanh câu từ.
Tôi chia các bài tập đọc thành hai dạng bài để luyện đọc.
Dạng 1: bài đơn thuần chỉ là tả cảnh hoặc thông qua tả cảnh để tả tình.
Dạng 2: bài mang tính chất kẻ chuyện, có dẫn lời đối thoại hay lời nói của
nhân vật.
a- Với dạng bài thứ nhất, để làm nối bật cảnh định tả, người đọc cần nhấn
mạnh ở các từ gợi tả và gợi cảm. Khi vào phần luyện đọc, tôi thường cho học
sinh tự phát hiện các từ cần nhấn mạnh. Muốn làm tốt việc này cần tạo cho các
em thói quen phát hiện, nhận biết các từ này ngay từ khi nghe bạn đọc, nghe
giáo viên đọc mẫu và trong quá trình khai thác tìm hiểu nội dung nghệ thuật của
bài. Bài: Tiếng đàn ba- la- lai- ca trên sông Đà)[ 1]
Học sinh cần biết nhấn giọng ở những từ: nối liền, nằm bỡ ngỡ, chia
muôn ngả, lớn, đầu tiên,…
Bài: Cao Bằng[ 2]
Học sinh cần nhấn giọng: Qua, lại vượt, rõ thật cao, bằng bằng xuống,

mận ngọt, đón môi, rất thương, rất thảo, như hạt gạo, như suối trong…
Từ đó, khi đọc học sinh cần nhấn giọng vào những từ ngữ này, tạo nên
hiệu quả nhất định làm nối rõ cảnh định tả thông qua đó bật lên cảm xúc của tác
phẩm, tăng sức hấp dẫn của cảnh vật.
Nhịp độ nhanh chậm khi đọc cũng góp phần tạo cảm xúc cho bài đọc.
Ví dụ: Bài: Kì diệu rừng xanh [ 1].
Toàn bài đọc với giọng thong thả vừa phải, nhẹ nhàng. Song ở đoạn 1 để
thể hiện thái độ ngỡ ngàng, ngưỡng mộ của tác giả trước vẻ đẹp kì diệu của cảnh
rừng đọc với giọng khoan thai: “ Loanh quanh trong rừng, chúng tôi đi lạc
vào một lối đầy nấm dại, một thành phố nấm lúp xúp dưới bóng cây thưa.
Những chiếc nấm to bằng cái ấm tích…” Nhưng ở đoạn 2 lại đọc nhanh hơn ở
những câu miêu tả hình ảnh thoắt ẩn thoắt hiện của muông thú: “ Chúng tôi đi
đến đâu, rừng rào rào chuyển động đến đấy. Những con vượn bạc má ôm con
gọn ghẽ chuyền nhanh như tia chớp. Những con chồn sóc với chùm lông
đuôi to đẹp vút qua không kịp đưa mắt nhìn theo” và tiếp đến ở đoạn 3 lại đọc
10


giọng thong thả những câu miêu tả vẻ thơ mộng của cảnh rừng trong sắc vàng
mênh mông.
Cũng giống như khi thể hiện một bài hát, giọng đọc không thể lúc nào
cũng đều đều mà cần có lúc to, lúc nhỏ, khi bổng, khi trầm mới diễn tả hết cảm
xúc của nhân vật, của tác phẩm mà tác giả gửi gắm vào đó.
Ví dụ: Bài: Đất nước [ 1]
- Ở khổ thơ 1,2 cần đọc với giọng tha thiết, bâng khuâng để thể hiện vẻ
đẹp và buồn của những ngày thu đã xa.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội…

- Ở khổ thơ 3,4 nhịp lại nhanh hơn, giọng vui, khỏe khoắn, tràn đầy tự
hào:
Mùa thu nay khác rồi!
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới…
Để thể hiện niềm vui phơi phới, rộn ràng của thiên nhiên, trời đất trong
mùa thu thắng lợi.
- Ở khổ 5 cần đọc với giọng chậm rãi, trầm lắng, chứa chan tình cảm, sự
thành kính cũng như lòng tự hào về đất nước tự do và truyền thống bất khuất của
dân tộc.
…Nước chúng ta,
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
b- Với dạng bài thứ hai, những bài có dẫn lời nói hoặc đối thoại của nhân
vật, việc thể hiện tốt lời nói, ngữ điệu theo từng tuyến nhân vật sẽ làm tăng hiệu
quả diễn đạt của tác phẩm. Vì vậy, khi gặp những bài này, ở phần luyện đọc
đúng tôi luôn yêu cầu học sinh đọc những câu đối thoại hoặc lời nói đã dẫn
trong bài, thể hiện giọng đọc theo từng tuyến nhân vật với tính cách của mỗi
nhân vật được nêu trong từng câu nói.
Ví dụ: Khi dạy bài: Một vụ đắm tàu( A- mi- xi, )[ 2]
Học sinh biết nhấn giọng vào các từ ngữ: còn chỗ, sực tỉnh, lao ra, sững
sờ, thẫn thờ, hét to, Giu- li- et- ta, xuống đi, bàng hoàng, ngửng cao, bật khóc
nức nở, vĩnh biệt)

11


Bài: Lập làng giữ biển)[ 2]giọng đọc phải thể hiện được lời nói rành rẽ,
dứt khoát của bố Nhụ:

Ở đây đất rộng, bãi dài, cây xanh, nước ngọt, ngư trường gần. Chả còn
gì hay hơn một làng biển…
Lời ông Nhụ lại cương quyết, gay gắt:
- Tao chết ở đây thôi. Sức không còn chịu được sóng.
Lời đáp của Nhụ nhẹ nhàng:
- Vâng.
Như vậy, trong các giờ tập đọc tôi luôn cố gắng xác định đúng các dạng bài
đọc, giúp học sinh tìm cách thể hiện cảm xúc của bài để các em có thể vận dụng
đọc bài một cách tốt nhất góp phần nâng cao năng lực cảm thụ cho học sinh.
Giải pháp 3 - Đọc mẫu của giáo viên.
Việc đọc mẫu của giáo viên cũng có ý nghĩa quan trọng không kém trong
việc rèn đọc cho các em. Giáo viên đọc mẫu tốt sẽ giúp học sinh cảm nhận được
ngay từ đầu cái hay cái đẹp của tác phẩm gợi xúc cảm và tạo hứng thú học tập
cho học sinh. Nhận thức được điều đó, tôi luôn cố gắng nghiên cứu kỹ bài học,
đặt mình vào tâm trạng tình cảm của tác giả, của nhân vật để thể hiện một cách
tốt nhất tác phẩm mỗi khi đọc mẫu. Song song với việc đọc mẫu thật rõ nhằm
tạo cho học sinh một tâm thế sẵn sàng, hứng thú khi bước vào bài học thì việc
rèn cho học sinh biết nghe đọc là một điều không thể thiếu. Chính năng lực nghe
của học sinh đóng góp một phần không nhỏ vào kết quả bài đọc mẫu của giáo
viên. Bởi vì khi nghe với một sự tập trung cao độ, học sinh bước đầu phát hiện
được những tình cảm, những ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa trong từng câu, từng lời
đọc của giáo viên, cũng là cái hay cái đẹp của người thầy muốn truyền cho các
em. Ngay từ đó, học sinh dường như đã hình thành khái quát được cách đọc của
toàn bài.
Ví dụ: Khi đọc bài: “Trí dũng song toàn”, giáo viên cần chú ý đọc đúng
lời Giang Văn Minh ở từng đoạn đối thoại:
Đoạn Giang Văn Minh than khóc- giọng ân hận xót thương. Câu hỏi: Vậy,
tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm năm, sao hằng năm nhà vua vẫn bắt
nước tôi cử người mang lễ vật sang cúng giỗ?- giọng cứng cỏi. Đoạn Giang
Văn Minh ứng đối- giọng dõng dạc, tự hà0: Bạch Đằng thuở trước máu còn

loang. Qua cách đọc mẫu của giáo viên, học sinh hiểu được sự mưu trí dũng
cảm và lòng tự hào dân tộc tràn đầy của Thám Hoa Giang Văn Minh.
Ví dụ: Khi đọc khổ thơ 2,3 của bài: Đất nước [ 2] nếu chỉ nghe đọc với
giọng đều đều, lưu loát thì học sinh mới chỉ thấy được sự thay đổi của đất nước
trong mùa thu này.
12


Nhưng nếu giáo viên đọc mẫu với giọng đọc diễn cảm khỏe khoắn, tràn
đầy tự hào đồng thời nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả cảm xúc như:
Mùa thu nay/ khác rồi
Tôi đứng vui nghe/ giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre/ phấp phới
Trời thu/ thay áo mới
Trong biếc/ nói cười thiết tha.
, đất trời trong mùa thu thắng lợi của cuộc kháng chiến. Các em được sống
lại không khí tưng bừng náo nức của đất nước trong những năm đầu tiên đón
chào mùa thu của hòa bình. Điều đó gợi lên tình yêu thiên nhiên, đất nước, thôi
thúc trong các em một mong muốn thể hiện lại thật đầy đủ những tình cảm đó
trong bài đọc của mình.
Giải pháp 4 - Tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của bài.
Như đã đề cập ở trên, một trong những nguyên nhân đẫn đến việc học sinh
đọc chưa tốt là do vốn từ ngữ của các em còn hạn chế dẫn đến chưa thông hiểu
một số từ ngữ nói riêng và nội dung của văn bản nói chung. Vì vậy, bên cạnh
việc dạy học tốt môn Luyện từ và câu ( mà nội dung khuôn khổ đề tài này không
đề cập đến) thì giúp học sinh tìm hiểu đầy đủ nội dung bài học là việc làm không
thể bỏ qua trong quá trình dạy Tập đọc.
Có một số ý kiến cho rằng yêu cầu chủ yếu của giờ tập đọc là rèn đọc cho
học sinh, vì thế không cần thiết xem nhẹ việc giúp học sinh tìm hiểu nội dung
bài học. Thực tế thì để thực hiện được mục đích rèn đọc tốt cho học sinh không

thể tách rời việc giúp học sinh hiểu nội dung và nghệ thuật của bài. Bởi vì, chỉ
có hiểu thấu đáo nội dung và ý nghĩa nghệ thuật của bài học các em mới có được
những cảm xúc để thể hiện thật tốt bài đọc đó.
Trong giờ Tập đọc, ngoài việc khai thác nội dung bài đọc dựa vào các câu
hỏi trong sách giáo khoa, tôi thường cố gắng tìm thêm những câu hỏi phù hợp
nhằm giúp các em tìm tòi, phát hiện những biện pháp nghệ thuật được sử dụng
trong bài. Từ đó, các em sẽ cảm nhận được sâu sắc hơn nội dung, hiểu bài, ý
nghĩa của tác phẩm cũng như tình cảm của tác giả, của nhân vật ẩn chức trong
từng câu, từng chữ của bài đọc.
VD: Khi dạy bài: Mùa thảo quả [ 1]
Thông qua việc tìm hiểu từ ngữ: ngọt lựng, thơm nồng, đỏ chon chót,…
giúp học sinh hình dung được mùi thơm tất đặc biệt và vẻ đẹp của thảo quả khi
13


vào mùa. Song để học sinh thấy được hết vẻ đẹp đặc biệt đó tôi giúp học sinh
tìm hiểu thêm:
- Đoạn cuối bài tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gi?( So sánh: những
chùm thảo quả đỏ chon chót như chứa lửa chứa nắng- nhân hóa: rừng say
ngây và ấm nóng).
Từ đó học sinh thấy được bằng biện pháp nghệ thuật ( nhân hóa- so sánh)
hương thơm của thảo quả được miêu tả một cách cụ thể, sinh động và thật đặc
biệt làm cho người đọc như thấy mình đang lạc vào rừng thảo quả chín.
Qua đây, học sinh biết cần phải đọc bài với giọng nhẹ nhàng, cảm hứng ca
ngợi nhấn giọng ở các câu, từ gợi tả, gợi cảm mới lột tả hết được vẻ đẹp diệu kỳ
của thảo quả khi vào mùa.
Hoặc khi dạy bài: Đất nước [ 2], ngoài việc phân tích nội dung bài thấy
được vẻ đẹp của mùa thu đất nước xưa và nay tôi còn giúp học sinh tìm hiểu
nghệ thuật để thấy được niềm vui, niềm tự hào và tình yêu thiết tha của tác giả
đối với đất nước tự do và giàu truyền thống bất khuất:

VD: Khi phân tích câu thơ:
“ Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Tôi đặt câu hỏi:
Tác giả đã sử dụng biện pháp gì để tả thiên nhiên, đất trời trong mùa thu
thắng lợi của cuộc kháng chiến?( Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa- làm
cho trời cũng thay áo, cũng nói cười như con người để thể hiện niềm vui phơi
phới, rộn ràng của thiên nhiên, đất trời trong màu thu thắng lợi của cuộc kháng
chiến).
Qua phân tích tôi giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa của việc sử dụng biện pháp
nhân hóa của tác giả. Tác giả không chỉ quan sát miêu tả bằng mắt mà bằng cả
tấm lòng để thấy được vẻ đẹp kỳ diệu, niềm vui hân hoan của cả đất trời, của
thiên nhiên trong mùa thu mới. Từ đó, giúp học sinh tự tìm được cách đọc để thể
hiện tác phẩm một cách có hiệu quả nhất.
Giải pháp 5 - Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh.
Như đã nhận định ở trên, các em có thể đọc tương đối lưu loát các văn bản,
các tác phẩm song do vốn sống còn hạn chế, do chưa được trải nghiệm thực tế
14


cuộc sống các em khó có thể nào diễn đạt thật đầy đủ, thành công một tác phẩm
văn học.
Nếu như chưa một lần được về nông thôn, được ngắm cảnh đồng quê vào
vụ gặt trong một ngày thu đẹp trời chắc các em khó mà “ cảm” thấy hết được vẻ
đẹp trù phú, ấm no, thanh bình mà nhộn nhịp của “ Quang cảnh làng mạc ngày
mùa” [ 1 ] và [ 3] - Một vẻ đẹp trù phú, sống động nơi làng quê với những màu
vàng rất khác nhau: vàng xuộm của cánh đồng lúa chín, vàng hoe của nắng trời
mùa thu…vàng lịm của những quả xoan chín mọng, vàng mượt của những chú
chó, chú gà béo tốt,…

Cũng như nếu chưa một lần được tham quan cảnh rừng làm sao các em có
thể cảm nhận được cái “ Thế giới thần bí” của một “ Giang sơn vàng rợi” nơi
rừng khộp ( Kì diệu rừng xanh)[ 1].
Tất cả những điều đó các em chỉ có thể tiếp nhận chúng qua lời giảng,
giọng đọc của thầy cô và thể hiện lại mà không biết rằng mình đúng hay chưa
đúng.
Tôi luôn yêu cầu học sinh của mình cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của
nhân vật, hòa mình vào cảnh vật để cảm nhận hết cái tình của tác phẩm. Song để
đạt được điều đó, phải luôn tìm cách cho các em được trải nghiệm thực tế khi có
điều kiện.
Tôi hướng dẫn các em tìm đọc thêm sách, báo, tổ chức các cuộc thi kể
chuyện, đọc thơ, tham gia thi văn nghệ…đồng thời khuyến khích các em đi tham
quan dã ngoại, du lịch cùng gia đình trong các dịp nghỉ hè, nghỉ tết, nghỉ cuối
tuần, tạo điều kiện cho các em được tiếp xúc với thế giới xung quanh, trau dồi
vốn sống thực tế.
Các hoạt động ngoại khóa của trường tổ chức trong các dịp kỷ niệm các
ngày lễ lớn cũng có tác dụng rất nhiều trong việc trang bị cho các em vốn kiến
thức về sự vật, con người xung quanh.
Ngoài ra, qua những câu chuyện kể, những lúc trò chuyện ngoài giờ tôi cố
gắng giúp các em hiểu thêm về thế giới tự nhiên và xã hội, tạo cho các em
những cảm hứng nhất định khi tiếp nhận một bài đọc, một tác phẩm văn học.
Giải pháp 6- Xây dựng mô hình tổ nhóm đọc diễn cảm cho học sinh
Tâm lý của học sinh Tiểu học, ở bất kỳ môn học nào đều có sự ganh đua,
do đó tôi đã tổ chức xây dựng tổ nhóm đọc diễn cảm để các em có khả năng đọc
tốt, có điều kiện phát huy năng lực của bản thân. Đồng thời tôi cũng phát hiện
những học sinh đọc tốt và chưa tốt để có kế hoạch bồi dưỡng kèm cặp từng đối
tượng cho học sinh cho phù hợp. Từ đó, thúc đẩy việc thi đua học tập của các
em tạo cho các em một không khí học tập bộ môn thật sôi nổi mà cũng thật hiệu
quả.
15



Chất lượng đọc diễn cảm của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
vai trò của người giáo viên rất quan trọng. Xác định được điều này nên ngay từ
khi chuẩn bị tôi đã nêu rõ hai yêu cầu cần đạt :
. Luyện đọc diễn cảm cho học sinh trên lớp trong giờ Tập đọc .
* Chuẩn bị cho việc đọc
Ngay từ buổi học đầu tiên tôi đã hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để
đọc , khi ngồi học cần ngồi ngay ngắn , khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm
trong khoảng 30-35 cm , cổ và đầu thẳng , phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi
. Khi cô giáo đọc , học sinh phải bình tĩnh , tự tin , không hấp tấp đọc ngay .Để
tránh tình trạng học sinh đọc quá to và cũng không quá nhỏ tôi đã giúp học sinh
hiểu được mình đọc không chỉ cho mình cô giáo nghe mà còn để cho các bạn
trong lớp cung nghe thế là đủ . Khi đứng đọc phải vừa đoàng hoàng vừa thoải
mái , sách phải được mở rộng , và cầm bằng hai tay .
*. Kiểm tra bài cũ :
Bên cạnh yêu cầu kiểm tra đọc thông thường , tôi luôn chú ý đến việc đọc
diễn cảm với bài học thuộc lòng ( hoặc đoạn văn ,bài văn ) đã luyện đọc ở bài
trước .
Những học sinh đọc liến thoắng , tôi uốn nắn đọc lại cho thong thả , diễn
cảm . Thành công ở khâu này sẽ tạo ra được sự hào hứng cho lớp học để bước và
bài mới.
*. Luyện đọc đúng :
Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh là rất cần thiết để giúp học sinh có kỹ
năng đọc diển cảm . Vì vậy ở phần này học sinh đọc toàn bài , học sinh đọc
thành tiếng nối tiếp từng (đoạn văn , khổ thơ) theo cách chia “ đoạn đọc “ nhằm
củng cố kỹ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới , kết hợp tôi hướng dẫn học
sinh nắm nghĩa từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa . Để học sinh đọc
đúng và rành mạch tôi dành thời gian cho học sinh đọc theo cặp . [ 5]
*. Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài

Khai thác nội dung bài đọc rất quan trọng vì đọc và cảm thụ là hai hoạt
động có mối quan hệ qua lại trong tiếp xúc với bài đọc . Tôi nghĩ có hiểu sâu sắc
tư tưởng tình cảm của bài đọc thì các em mới đọc diễn cảm , mới bộc lộ được
cảm xúc . Chính vì thế , khi hướng dẫn tìm hiểu bài tôi dựa vào chủ đề , kết cấu ,
nhân vật quan hệ giữa nội dung và hình thức các biện pháp nghệ thuật thể hiện
trong bài đó dùng hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa để học sinh nắm được ý
của đoạn , bài .
GIáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm (đoạn, bài) và
trả lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học
sinh khác đọc thầm thảo luận vấn đề do giáo viên đưa ra. Ví dụ: Giáo viên yêu
cầu học sinh đọc thầm khổ thơ 3 trong bài “Mẹ ốm” )[ 6]để trả lời câu hỏi: Sự
quan tâm chăm sóc của xóm làng đối với mẹ của bạn nhỏ được thể hiện qua
những câu nào?
16


Tùy theo trình độ học sinh trong lớp, giáo viên có thể đưa ra nguyên văn
câu hỏi, bài tập trong SGK chia tách câu hỏI thành các ý nhỏ để học sinh dễ thực
hiện hoặc bổ sung câu hỏi phụ có tác dụng dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi.
Ví dụ 1: Câu hỏi 1 trong bài " Tre Việt Nam” )[ 6 ] nên tách thành 3 ý nhỏ
để học sinh dễ trả lời.
+ Những hình ảnh nào của tre tạo lên phẩm chất cần cù của người Việt
Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất đoàn kết của người Việt Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất ngay thẳng của người Việt Nam?
Bằng nhiều hình thức khác nhau (Làm việc cả lớp hoặc theo cặp, theo
lớp…. Giáo viên tạo điện kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực. Trong
quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi,
trao đổi ý kiến.
Ví dụ 2 : Bài “ Những con sếu bằng giấy “

Sau khi hướng dẫn học sinh đọc thầm và trả lời câu hỏi trong sách giáo
khoa , tôi cung cấp cho học sinh : Đây là một bài văn tố cáo tội ác chiến tranh
hạt nhân , nói lên khát vọng sống , khát vọng hoà bình của trẻ em toàn thế giới .
Nội dung đó được thể hiện qua bố cục rất rõ ràng :
Đoạn 1 : Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản
Đoạn 2 : Hậu quả mà hai quả bom đã gây ra .
Đoạn 3 : Khát vọng sống của Xa – da – cô - Xa – xa – ki .
Đoạn 4 : Ước vọng hoà bình của học sinh thành phố Hi rô- si – ma.
Thông qua việc tìm hiểu nội dung , học sinh nắm được tư tưởng chính của
bài , phần nào đã định ra giọng đọc chung của bài này là : Giọng trầm , buồn .
2.4. Hiệu quả
* Đối với nhà trường: Ban giám hiệu nhà trường cũng như các đồng chí phụ
trách chuyên môn của tổ, khối đã thấy được hiệu quả tích cực của đề tài khi áp
dụng vào thực tiễn dạy và học nên đã tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất,
tinh thần, tham gia đóng góp nhiều ý kiến tích cực để mang lại hiệu quả cho đề
tài, đồng thời thấy rõ hơn vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên trong dạy học
tích cực.
* Đối với đồng nghiệp: Các đồng chí giáo viên trong trường sau khi tôi áp dụng
đề tài này đã nâng cao hơn vai trò, trách nhiệm của mình trong việc áp dụng các
biện pháp dạy học tích cực đối với các môn học. Đồng thời cũng mạnh dạn áp
dụng nhiều phương pháp hay, tích cực trong dạy và học tại đơn vị.
* Đối với bản thân: Đã tự học tập và nâng cao được tay nghề trong sự nghiệp
trồng người của mình.
* Đối với học sinh: Trong suốt thời gian qua tôi luôn cố gắng rèn đọc diễn cảm
cho học sinh theo các giải pháp trên và kết quả đạt được khá khả quan. Học sinh
hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc
17


bài. Số em đọc chưa đạt yêu cầu đó giảm đi. Số em đọc đúng, đọc diễn cảm

được nâng lên rõ rệt. Kết quả thực nghiệm được thể hiện qua bảng sau:
BẢNG 2: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

Lớp

Tổng
số HS

5B

28

Số em đọc chưa
đạt yêu cầu
SL
%
2
7,1

Số em đọc đúng,
rõ ràng
SL
%
8
28,6

Số em đọc diễn cảm
tốt
SL
%

18
64,3

Như vậy với một thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà
tôi đưa ra đó thu được kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng
các biện pháp này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng đọc
diễn cảm của các em được nâng lên.

3 - Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Để thúc đẩy mạnh mẽ chí tưởng tượng khắc sâu những ấn tượng đẹp đẽ của
những bài văn thơ . Đặc biệt để giúp các em có sự cảm nhận sâu sắc về các áng
thơ văn ấy đòi hỏi người học phải có một tâm hồn hoà hợp, sống cùng tâm trạng
của tác giả , của nhân vật . Vậy mới có sự về rèn đọc đúng đọc hay tiến tới đọc
diễn cảm . Làm cho người nghe như đang sống cùng tâm trạng của tác giả , của
nhân vật tức là yếu tố nội dung , hình thức nghệ thuật sẽ đi vào tâm trí người
nghe qua hình thức đọc của người đọc .
Mặt khác giáo viên phải có cái tài trí tạo âm thanh , hình ảnh của tác phẩm
mình đã đọc làm thế nào để toát lên cái “ thần “ của bài đọc đó đến với từng học
sinh , người giáo viên phải biết tạo ra một không khí tran hoà trong lớp học , lôi
cuốn học sinh say mê rèn đọc và đọc diễn cảm.
Ngoài ra, giáo viên cần phải thương yêu, gần gũi giúp đỡ học sinh, luôn
quan tâm tìm hiểu xem các em vấp phải khó khăn gì trong cách đọc, cách phát
âm và cách đọc diễn cảm để từ đó khắc phục những khó khăn các em vướng
mắc.
Việc đọc mẫu diễn cảm của giáo viên là khâu quan trọng giúp học sinh
luyện tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bàI đọc qua giọng đọc,
đồng thời các em học tập cách đọc của giáo viên.
Trong quá trình giảng dạy nên tổ chức trò chơi học tập để thay đổi không
khí học tập gây hứng thú cho học sinh

Việc rèn học sinh có thói quen học ở nhà là một việc là cần thiết trong
khâu đọc diễn cảm, bởi vì ở lớp thời gian học tập rất ít. Các em chuẩn bị bài ở
nhà tốt thì đến lớp tiếp thu bài nhanh hơn, đọc tốt hơn.
18


Cùng với suy nghĩ trên đây , kết hợp với niềm say mê bộ môn, tôi luôn
suy nghĩ , tìm tòi cho mình một phong cách đọc diễn cảm hay nhất và kết hợp
với nhiều phương pháo dạy văn với mục đích cuối cùng. Tôi luôn là người
hướng dẫn tổ chức cho học sinh của mình sẽ không ngừng thay đổi tiến lên trong
phong cách đọc diễn cảm .
Tôi cũng luôn hy vọng với sự chỉ đạo sáng suốt tài tình của Ban giám hiệu
Ban chuyên môn của trường sẽ tham gia góp ý cho tôi có được kinh nghiệm rèn
đọc diễn cảm tốt cho học sinh lớp 5. Và nếu có thể các đồng chí , đồng nghiệp
cùng tham khảo góp ý xây dựng và áp dụng để có phương pháp rèn đọc diễn
cảm cho học sinh tốt nhất .
Với trình độ có hạn và thời gian nghiên cứu, thực nghiệm còn ngắn ,
những ý kiến trình bày trên chắc chưa thật đầy đủ. Rất mong các đồng chí lãnh
đạo và đồng nghiệp đóng góp ý kiến giúp đỡ khắc phục những hạn chế của tôi để
tôi có thể có một phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh ngày một hiệu quả
hơn.
3.2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên:
Muốn rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 giáo viên cần tìm hiểu rõ nội
dung chương trình của phân môn.
Điều tra, thống kê số học sinh đọc diễn cảm của lớp mình đang dạy .
Đề nghị dạy thử nghiệm giờ Tập đọc để Tổ chuyên môn tham gia giúp đỡ
ngay từ đầu năm học.
Tìm biện pháp và hình thức dạy đọc diễn cảm cho học sinh sao cho phù
hợp có hiệu quả.

Chuẩn bị luyện đọc tốt văn bản trước khi hướng dẫn học sinh.
* Đối với nhà trường:
Tổ chức Hội thi đọc diễn cảm hằng năm trong giáo viên và học sinh.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị.
Đồng Lợi, ngày tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là Sáng Kiến
Kinh nghiệm của tôi viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Trần Thị Hiền

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


[ 1] .Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1.
[ 2] .Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 2.
[ 3 ] .Sách giáo viênTiếng Việt lớp 5 tập 1.
[ 4 ] .Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5 tập 2.
[ 5 ] .Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Tiểu học.

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT,
20


Họ và tên tác giả:....Trần Thị Hiền...
Chức vụ và đơn vị công tác:.Trường Tiểu học Đồng Lợi,


TT

Tên đề tài SKKN

1.

Rèn kĩ năng cảm thụ văn học
cho học sinh lớp 5.
Một số biện pháp bỗi dưỡng
năng lực học sinh môn Tiếng
Việt cho HS lớp 5
Rèn kĩ đọc diễn cảm cho học
sinh lớp 5.
Dạy học tích cực để giải toán
chuyển động cho học sinh lớp
5

2.
3.
4.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,

loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Huyện
Loại C 2007 – 2008:
Huyện

Loại C

2013- 2014

Huyện

Loại B

2014 -2015

Huyện

Loại B

2015- 2016

21



×