1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Tập đọc là một phân mơn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây
là một phân mơn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tiếng Việt vì
nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ
năng quan trọng hàng đầu của học sinh bậc Tiểu học.
Biết đọc ( đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm) giúp các em học
sinh có khả năng tiếp nhận kiến thức lên nhiều lần, giúp học sinh phát triển tư
duy, hình thành các phẩm chất tốt đẹp như: yêu cái thiện, cái đẹp, phê phán cái
xấu, cái ác...Từ đây, các em biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các
mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy; có những rung động tình cảm và nảy nở
nhiều ước mơ tốt đẹp trong cuộc sống,...
Đọc tốt, giúp các em học tốt các môn học khác và sử dụng được nhiều
nguồn thông tin quan trọng, bổ ích, lí thú. Do đó, đọc trở thành một địi hỏi cơ
bản đầu tiên đối với mỗi học sinh. Có thể khẳng định rằng, đọc là cầu nối của
mọi tri thức, của mọi môn học. Bởi vậy, việc dạy đọc có hiệu quả là một trong
các yêu cầu cần thiết.
Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy ở trường Tiểu học Tân Thành 1, tôi nhận
thấy việc dạy đọc (đặc biệt là phần luyện đọc diễn cảm) bên cạnh những thành
công, cịn gặp khơng ít những khó khăn và hạn chế. Kết quả đọc của các em
chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Trong các giờ tập
đọc, hầu như học sinh chỉ mới biết đọc đúng, đọc trơn, số lượng học sinh biết
đọc diễn cảm cịn rất ít. Các em chưa quan tâm mình đọc có diễn cảm bài văn,
bài thơ đó khơng mà chỉ đọc to, đọc nhanh là được…
Mặt khác, các phương pháp hướng dẫn rèn đọc diễn cảm cho học sinh
Tiểu học cũng ít được quan tâm, chưa cụ thể, rõ ràng nên một số giáo viên còn
lúng túng khi hướng dẫn học sinh, còn đặt ra nhiều câu hỏi như: cần đọc bài tập
đọc với giọng như thế nào? Làm thế nào để các em đọc hay, diễn cảm hơn? Khi
đọc diễn cảm một bài văn, bài thơ, một câu chuyện, đọc lời tác giả, lời nhân vật
phải đọc như thế nào? Làm sao để những gì đọc được tác động vào chính cuộc
sống của các em? v.v...Đó cũng là những câu hỏi còn trăn trở của nhiều giáo
viên khi giảng dạy phân mơn Tập đọc ở Tiểu học.
Chính vì vậy, nhằm bổ trợ thêm kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ cho
mình trong q trình dạy nói chung, dạy học mơn học Tiếng Việt ở Tiểu học nói
riêng, tơi đã lấy việc tìm hiểu: “ Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm
cho học sinh lớp 5, tại trường Tiểu học Tân Thành 1, Thường Xuân” làm đề
tài nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Thơng qua đề tài này, tơi mong muốn được góp phần vào việc nâng cao kĩ
năng đọc diễn cảm một số loại văn bản khác nhau cho học sinh lớp 5 nói riêng
và nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
+ Học sinh lớp 5A – Trường Tiểu học Tân Thành 1,Thường Xuân.
1
Năm học 2016- 2017.
+ Nghiên cứu về các biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
trong các tiết Tập đọc lớp 5.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được nghiên cứu đề tài này, tôi đã tiến hành sử dụng phối
hợp nhiều phương pháp như:
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.
- Phương pháp phân loại, hệ thống hố lí thuyết
- Phương pháp giả thuyết
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp điều tra giáo dục.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp so sánh đối chứng.
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận :
Ngơn ngữ học đã chỉ rõ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngơn
ngữ chữ viết, chính âm, chính tả, nghĩa của từ, câu, đoạn, ngữ điệu, nhịp điệu,
…Đó là những vấn đề gắn bó với việc dạy và học Tập đọc ở bậc Tiểu học.
Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học là dạy cho học sinh biết đọc đúng
tiếng, từ, câu, chữ, hiểu nội dung rồi đọc đúng ngữ điệu, nhịp điệu, diễn cảm,
cảm nhận được ý nghĩa tình cảm,có cảm xúc, biết tư duy, tưởng tượng, hình
thành ý thức tốt đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp, nghĩa là học sinh biết
chuẩn ngôn ngữ và biết cảm thụ văn học. Dạy Tập đọc sẽ càng tinh tế, càng sáng
tạo khi ta nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu của ngôn ngữ văn học.
Tập đọc là một phân mơn thực hành. Nhiệm vụ của nó là hình thành năng
lực đọc cho học sinh. Năng lực đó được thể hiện ở 4 yêu cầu: Đọc đúng, đọc
nhanh, đọc có ý thức ( đọc hiểu) và đọc hay ( đọc diễn cảm).
Đối với học sinh lớp 5, trên cơ sở kĩ năng đọc đã được rèn luyện ở các lớp
dưới, phân môn Tập đọc tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc một cách đầy
đủ, toàn diện cho học sinh nhằm hoàn thiện yêu cầu cần đạt theo qui định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo là: Đọc rành mạch, bài văn ( khoảng 120 tiếng/ phút);
đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài đọc.
Yêu cầu dạy học về kĩ năng đọc nói trên được thơng qua một hệ thống
văn bản gồm 40 bài văn xuôi, 2 vở kịch và 18 bài thơ được dùng để dạy trong
phân môn tập đọc lớp 5. Các em được rèn luyện để có kĩ năng đọc trơn, đọc
thầm với tốc độ nhanh hơn, nâng cao thêm một bước về kĩ năng đọc diễn cảm đã
được luyện tập ở lớp 4 (thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự
việc, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài.)
2
Đọc giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp
và học tập, đọc là công cụ để học tập tất cả các môn học, đọc tạo ra hứng thú và
động cơ học tập, đọc tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần
học tập cả đời. Do đó, việc rèn cho học sinh biết đọc diễn cảm các văn bản là
điều rất quan trọng ở mỗi giờ dạy tập đọc cho học sinh lớp 5. Học sinh biết cách
đọc diễn cảm các văn bản sẽ có tác dụng giúp các em sẽ hiểu sâu sắc hơn về nội
dung bài đọc tức là đã góp phần giúp các em biết cảm thụ văn học được tốt hơn.
Hơn thế nữa, việc dạy cho học sinh biết đọc diễn cảm giúp các em biết cách giao
tiếp lịch sự hơn khi nói lời cảm ơn, lời xin lỗi, lời chào hỏi, lời nhờ, lời yêu cầu
…
Ở mỗi dạng văn bản khác nhau, cách thể hiện giọng đọc diễn cảm khác
nhau. Tuy nhiên, dù ở dạng văn bản nào thì yêu cầu về kĩ năng đọc diễn cảm
phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Đọc ngắt, nghỉ đúng chỗ.
- Đọc đúng kiểu câu,
- Đọc đúng tốc độ.
- Đọc đúng cường độ,
- Đọc đúng cao độ.
Mỗi bài tập đọc là một văn bản, là một bức tranh thu nhỏ về hiện thực, về
cảnh đẹp đất nước, con người, xã hội...Mặt khác, thể hiện được tâm hồn của tác
giả khơng chỉ có nội dung hấp dẫn của bài văn, bài thơ mà còn phụ thuộc vào
người đọc tác phẩm đó. Trước hết, người đọc phải đọc đúng, đọc chính xác, đọc
trơi chảy, tiến tới đọc diễn cảm thì mới diễn tả cảm xúc, tình cảm thái độ của tác
giả bộc lộ qua từng nhân vật trong tác phẩm.
Bởi vậy nâng cao năng lực đọc cho học sinh, nhất là đọc diễn cảm là hết
sức cần thiết đối với giáo viên cuối bậc Tiểu học.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua quá trình giảng dạy ở Trường Tiểu học Tân Thành 1, Thường Xuân
và trao đổi với đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy
học như sau:
+ Đối với giáo viên:
Ở trường chúng tôi, phân môn Tập đọc là môn học được chú trọng nhiều
trong q trình dạy học. Giáo viên ln cố gắng tìm tịi nghiên cứu để giảng dạy
phân mơn tập đọc. Tuy nhiên, giáo viên mới chỉ coi trọng một vấn đề đọc thành
tiếng to, rõ, còn phần luyện đọc diễn cảm vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Trong các giờ dạy tập đọc, việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh cịn hạn
chế, mang tính chất hình thức. Một số giáo viên chưa cảm nhận được ý tưởng,
cảm xúc để hoà nhịp với tác giả, giúp các em cảm nhận được nội dung bài đọc
qua ngơn từ; đơi khi cịn lúng túng khi hướng dẫn học sinh rèn đọc phần luyện
đọc diễn cảm. Có những giờ tập đọc, giáo viên chỉ chú trọng đến việc tìm hiểu
nội dung bài nên số lượng học sinh được đọc trong lớp ít, các em chưa biết lên
giọng, hạ giọng khi nào, nhấn giọng ở những từ ngữ nào...
+ Đối với học sinh:
3
Qua trò chuyện, trao đổi với giáo viên và học sinh, qua quan sát một số
giờ dạy phân môn Tập đọc của giáo viên, tôi nhận thấy rằng: Khả năng đọc của
học sinh còn thấp, phần lớn các em mới chỉ đạt được ở mức độ đọc trơn, nhiều
em đọc chưa đảm bảo được yêu cầu về tốc độ, âm lượng đọc, chưa ngắt nghỉ hơi
hợp lí, nhấn giọng lên xuống tuỳ tiện và cịn đọc sai lỗi chính tả tương đối nhiều.
Số lượng học sinh biết đọc diễn cảm rất ít, thậm chí có lớp khơng có học sinh
nào, ngay cả ở các lớp 4- 5.
Các em không hiểu được nội dung, không hiểu được nghệ thuật, không
hiểu được cái hay cái đẹp của tác phẩm. Bởi vì trình độ học sinh không đồng
đều, chưa nghiên cứu kĩ nội dung bài, chưa cảm nhận được cái hay của bài tập
đọc, nhất là khi đọc lời các nhân vật chưa thể hiện được tính cách của các nhân
vật, qua đó giờ dạy chưa đạt được mục tiêu của tiết học.
Vì vậy, luyện đọc diễn cảm trong giờ tập đọc ở bậc Tiểu học đã và đang là
vấn đề cần được quan tâm đúng mức, cần làm sáng tỏ, để tìm ra được những
biện pháp, hình thức dạy học có hiệu quả nhất cho từng thể loại văn bản, từng
bài học cụ thể, phù hợp với từng đối tượng học sinh, nhằm đạt được hiệu quả
giáo dục cao nhất trong mỗi giờ tập đọc ở Tiểu học.
+ Khảo sát kĩ năng đọc của học sinh lớp 5A Trường Tiểu học
Tân Thành 1, Thường Xuân. Năm học 2016 - 2017
Năm học 2016 - 2017, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A gồm có 25
học sinh, trong đó: 12 em nam và 13 em nữ. Các em sống rải rác ở tất cả 2 thơn
đó là thơn Thành Thượng và Thơn Thành Lãm của xã.
Sau một thời gian giảng dạy ( từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 10 năm
2016), qua trao đổi với phụ huynh học sinh, tôi đã nắm bắt được mức độ đọc,
khả năng đọc diễn cảm của học sinh lớp tơi như sau:
Tổng
số HS
25
Đọc cịn sai lỗi
SL
TL
6
24%
Đọc đúng
SL
TL
11
44%
Đọc lưu loát
SL
TL
6
24%
Đọc diễn cảm
SL
TL
2
8%
+ Nguyên nhân:
Sau khi khảo sát thực trạng, tơi tiến hành phân tích, thâm nhập thực tế
cuộc sống của các em, đồng thời trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm trước và
tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tồn tại nêu trên là:
- Học sinh lớp tôi chủ yếu các em là người dân tộc thiểu số, nhiều em nói
tiếng kinh cịn lớ, các em có hồn cảnh kinh tế khó khăn, trong đó có 1 em bố
mất sớm, 3 em ở với ông bà ( bố mẹ đi làm ăn xa), bố mẹ các em chủ yếu làm
nghề nơng. Một số gia đình chưa thực sự quan tâm tới việc học tập của con cái,
phó mặc mọi việc cho nhà trường. Thời gian học của các em chủ yếu ở trường,
còn ở nhà gần như là khơng có, nên phần nào đó đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến việc học tập văn hoá của các em (trong đó có phân mơn tập đọc phần luyện đọc diễn cảm).
4
- Mặt khác, do ảnh hưởng của cách phát âm theo phương ngữ, thường
phát âm lệch chuẩn viết, nên các em cịn đọc sai ở những tiếng có phụ âm ch/tr,
s/x, r/d/gi, đọc tiếng có thanh ngã thành thanh hỏi, những tiếng có ngun âm
đơi …Các em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết nhấn
giọng, lên giọng, hạ giọng ở những từ ngữ cần thiết. Khả năng cảm thụ văn, thơ
của các em và vốn hiểu biết về từ ngữ cịn có những hạn chế. Các em chưa hiểu
rõ tác dụng của việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong thơ.
- Trong khi đó, việc chữa lỗi cho học sinh của giáo viên chưa được tiến
hành một cách thường xuyên và triệt để trong tất cả các giờ học. Giáo viên
thường sửa các lỗi mà sách giáo viên gợi ý chứ chưa sửa được các lỗi mà thực tế
học sinh lớp mình mắc phải.
- Một thực tế cho thấy, khả năng đọc diễn cảm của nhiều giáo viên còn
hạn chế do ảnh hưởng của phương ngữ nên việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm
cho học sinh là một vấn đề khó.
- Các em có đọc đúng- đọc nhanh, hiểu được nội dung- ý nghĩa bài học thì
các em mới từng bước tiến hành đọc diễn cảm tốt. Trong khi đó thời gian dành
cho phần luyện đọc diễn cảm trong một tiết tập đọc lại ít ( 5- 7 phút), khơng đủ
để giáo viên hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách luyện đọc, học sinh chưa thẩm
thấu hết được yêu cầu, ý nghĩa của việc đọc diễn cảm (từ, ngữ, câu, đoạn, bài)
trong một bài văn cụ thể thì đã hết giờ. Vì vậy, số lượng các em được đọc ít và
chỉ chú trọng vào các em đọc khá giỏi với hình thức đọc lại bài, cịn học sinh
trung bình, yếu thì dường như khơng có.
Bên cạnh đó, cơng việc chuẩn bị cho việc luyện đọc diễn cảm trong một
giờ tập đọc cũng khá cơng phu như: phải có bảng phụ viết sẵn đoạn văn, đoạn
thơ cần luyện đọc, bút dạ, phấn màu, bút chì...nên giáo viên thường có tư tưởng
“ngại” vì mất nhiều thời gian, đa số giáo viên chỉ chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy
học ở các tiết học có người dự giờ, cịn lại thì thực hiện dạy “chay” nội dung
này. Trong khi đó, phần hướng dẫn đọc diễn cảm (đọc hay) trong sách giáo khoa
và sách giáo viên chưa thật cụ thể, rõ ràng cho từng thể loại văn học; Chưa nêu
yêu cầu cụ thể cần đạt được và các biện pháp tiến hành rèn đọc diễn cảm...
2.3. Một số biện pháp tổ chức thực hiện:
Đứng trước thực trạng đó, tơi ln ln trăn trở, khơng ngừng tìm tòi, học
hỏi, tham khảo các tài liệu, kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp và mạnh dạn
đưa ra các biện pháp thực hiện để nâng cao chất lượng dạy học phần luyện đọc
diễn cảm - phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 5, tôi đã áp dụng những biện
pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh như sau:
* Biện pháp 1: Đọc mẫu
Để giúp học sinh có thể đọc diễn cảm được một câu, một đoạn hay cả bài
tập đọc trước hết giáo viên ( hoặc một học sinh đọc tốt của lớp) phải đọc mẫu.
Việc đọc mẫu như vậy nhằm giới thiệu, gây cảm xúc, tạo hứng thú và tâm thế
học tập cho học sinh. Việc đọc mẫu của giáo viên( hoặc học sinh) nhằm minh
hoạ, gợi ý hoặc “ tạo tình huống ” cho học sinh nhận xét, tự tìm ra cách đọc.
Ví dụ:
5
Học sinh nghe giáo viên đọc mẫu để phát hiện ra chỗ ngừng nghỉ, ngắt
nhịp, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ nào…Mỗi cá nhân có
cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn cảm bộc lộ sự sáng tạo của mình.
Muốn học sinh đọc hay, đọc diễn cảm trước hết người giáo viên phải đọc
tốt để thâm nhập, lây truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học sinh trong
tiết học. Từ đó, giáo viên thường xun rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức
tự điều chỉnh mình đọc đúng, đọc hay hơn, diễn đạt được đúng ý nghĩa và tình
cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài tập đọc.
* Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ giọng đọc đúng lúc, đúng
chỗ, nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm nhằm bộc lộ được ý tứ, nội
dung bài đọc:
Sau khi học sinh đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy tồn bài tơi hướng dẫn học sinh
biết ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu và giữa các cụm từ; biết nhấn giọng ở
những từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Cụ thể: nghỉ ít hơn ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu
chấm; phải ngắt nghỉ hơi, đọc nhấn giọng một cách tự nhiên, tránh kiểu đọc nhát
gừng hoặc đọc quá to những tiếng cần nhấn.
Đối với các bài văn xuôi: chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ
đoạn, nên khi đọc phải dựa vào nghĩa của các tiếng, các từ để ngắt hơi cho đúng,
không được tách từ ra thành hai phần. Khi đọc một bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải
tương ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn. Sự phân chia lời ở dạng nói được hình
thức hố bằng chỗ ngắt giọng, sự phân chia lời ở dạng viết được hình thức hố
bằng dấu câu. Chỗ ngắt giọng cũng là một căn cứ để người nghe xác định được
ý nghĩa từ vựng, ngữ pháp, nội dung bài đọc. Vì thế, trước khi dạy một bài tập
đọc cụ thể, ngoài việc giáo viên cần luyện đọc diễn cảm cho thật chuẩn cịn phải
dự tính được những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định điểm cần luyện
ngắt giọng.
Việc làm này tôi đã tiến hành theo mức độ từ thấp đến cao như sau: Thời gian
đầu, tôi treo bảng phụ ghi sẵn câu văn cần hướng dẫn, dùng bút dạ vạch chỗ cần
ngắt hơi, gạch chân những từ ngữ cần nhấn giọng, giáo viên đọc mẫu rồi yêu cầu
học sinh luyện đọc cho đúng. Khi học sinh đã đọc tốt hơn và được làm quen
nhiều với cách ngắt, nghỉ hơi tôi đã nâng dần yêu cầu lên bằng cách gợi ý để học
sinh tự phát hiện và chỉ ra chỗ cần ngắt hơi, những từ ngữ cần nhấn giọng, tổ
chức cho học sinh thảo luận để đi đến thống nhất, gọi một học sinh đọc mẫu giáo viên nhận xét, chỉnh sửa, sau đó yêu cầu học sinh luyện đọc.
Để thể hiện chỗ ngắt, nghỉ hơi tơi dùng kí hiệu: ngắt một nhịp (/), ngắt hai
nhịp (// ), từ ngữ cần nhấn giọng gạch chân.
Ví dụ 1:
Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay/ chúng ta
cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho
chúng ta theo kịp các nước khác trên hồn cầu. Trong cơng cuộc kiến thiết đó,
nước nhà trông mong/ chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sơng Việt Nam có trở
nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh
6
vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn
ở cơng học tập của các em.
( Thư gửi các học sinh – Tiếng Việt 5, tập 1)
Ví dụ 2:
Mùa thu nay/ khác rồi
Tơi đứng vui nghe/ giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre/ phấp phới
Trời thu/ thay áo mới
Trong biếc/ nói cười thiết tha.
Trời xanh đây/ là chúng ta của
Núi rừng đây /là của chúng ta
Những cánh đồng / thơm mát
Những ngả đường / bát ngát
Những dịng sơng/ đỏ nặng phù sa.
( Đất nước – Tiếng Việt 5, Tập 2)
* Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh thể hiện nhịp điệu đọc phù hợp với
nội dung bài học:
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ
nghĩa- ngữ pháp còn cần phải dạy cho học sinh đọc đúng tốc độ, ngắt giọng biểu
cảm. Điều này thể hiện ở chỗ: khi đọc cần thay đổi nhịp điệu lúc chậm rãi, lúc
dồn dập khẩn trương; chỗ đọc nhanh hoặc ngừng lâu hơn bình thường, hay chỗ
dừng khơng do lơgíc ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng
về cảm xúc, nhằm tạo nên những chỗ ngừng “gây bão tố”, tập trung sự chú ý của
người nghe vào những từ ngữ sau chỗ ngừng, những từ ngữ mang trọng âm ngữ
nghĩa.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm bài: Chú đi tuần
( Tiếng Việt 5, tập 2), tôi đã hướng dẫn học sinh không ngắt nhịp cố định mà chỉ
cần ngắt theo cảm xúc,chẳng hạn như:
Chú đi tuần/ đêm nay
Hải Phòng/ yên giấc ngủ say
Cây /rung theo gió /, lá /bay xuống đường...
Chú đi qua cổng trường /
Các cháu miền Nam /yêu mến.
Hay tôi hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm đoạn thơ trong bài: Bầm ơi
( Tiếng Việt 5, tập 2) như sau:
Ai về thăm mẹ/ quê ta
Chiều nay có đứa con xa /nhớ thầm…//
Bầm ơi /có rét khơng bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy/bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non/ bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm/ lại thương con mấy lần.
7
Mưa phùn/ ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Đoạn thơ trên cần đọc với giọng cảm động, trầm lắng, nhấn giọng ở
những từ ngữ gợi tả tình cảm, thể hiện tình yêu thương mẹ rất sâu đậm của anh
chiến sĩ. Đồng thời, chọn cách ngắt nhịp “Chiều nay có đứa con xa/ nhớ
thầm…//” để “nhớ thầm” được ngân dài tha thiết, phù hợp với việc diễn tả cảm
xúc nhớ thương đó.
Ngồi việc luyện cho học sinh đọc ngắt đúng nhịp thơ tơi cịn rèn cho học
sinh biết đọc vắt dòng đúng,chẳng hạn như khi đọc bài: Hành trình của bầy
ong
“ Bầy ong giữ hộ cho người. Những mùa hoa /đã tàn phai tháng ngày”
* Biện pháp 4: Thể hiện cường độ đọc nhấn mạnh hay lướt nhẹ, âm lượng
phát ra to hay nhỏ:
Khi giảng dạy tôi chú ý đến thể loại văn, thơ, truyện,... và nội dung của
bài học để có phương pháp hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm một cách cụ
thể và chính xác nhất. Giúp học sinh hiểu: đọc chậm quá, nhanh q hoặc đọc
liến thống đều làm cho người nghe khó theo dõi, không hiểu đúng và đầy đủ
nội dung của bài đọc. Âm lượng đọc (độ to nhỏ của giọng đọc) phải phù hợp,
khơng nhỏ q hoặc to q. Vì thế cần hướng dẫn học sinh điều chỉnh âm lượng
đọc ở từng từ ngữ, câu, đoạn, bài cho phù hợp với nội dung bài học và ẩn ý của
tác giả được gửi gắm sâu kín sau lớp vỏ ngơn từ.
Ví dụ :
Nơi cá đối vào đẻ trứng
Nơi tôm rảo đến búng càng
Cần câu uốn cong lưỡi sóng
Thuyền ai lấp lố đêm trăng.
Nơi con tàu chào mặt đất
Còi ngân lên khúc giã tờ
Cửa sông tiễn người ra biển
Mây trắng lành như phong thư.
(Cửa sông – Tiếng Việt 5, tập 2)
* Biện pháp 5: Thể hiện giọng đọc lên cao hay xuống thấp:
Để thực hiện được yêu cầu này, trong giờ tập đọc giáo viên không nên xem
nhẹ khâu nào ( từ đọc đúng- đọc hiểu- đọc diễn cảm ); thực chất cả ba q trình
đọc này có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với nhau để đạt đến cái đích
cuối cùng trong một giờ tập đọc.
Tuy vậy, để học sinh có giọng đọc ( ngữ điệu) phù hợp, chính xác cần phải
thực hiện tốt kĩ năng đọc hiểu như: hiểu nghĩa từ, tìm được “từ khố”, “câu
khố” trong bài, tóm tắt được nội dung của đoạn, bài; phát hiện ra những yếu tố
văn và giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Cần chú ý đến các biện
8
pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong văn thơ như: nhân hố, so sánh, điệp
từ, điệp ngữ,...
Ví dụ:
Chiếc xuồng cuối cùng được thả xuống. Ai đó kêu lên: “Còn chỗ cho
một đứa bé”. Hai đứa trẻ sực tỉnh, lao ra.
- Đứa nhỏ thôi ! Nặng lắm rồi. – Một người nói.
Nghe thế, Giu-li-ét-ta sững sờ, bng thõng hai tay, đôi mắt thẩn thờ
tuyệt vọng.
Một ý nghĩ vụt đến, Ma-ri-ơ hét to: “Giu-li-ét-ta, xuống đi ! Bạn cịn bố
mẹ…”
Nói rồi, cậu ôm ngang lưng Giu-li-ét-ta thả xuống nước. Người ta nắm tay cô
lôi lên xuồng.
Chiếc xuồng bơi ra xa. Giu-li-ét-ta bàng hồng nhìn Ma-ri-ơ đang đứng
bên mạn tàu, đầu ngẩng cao trước gió. Cơ bật khóc nức nở, tay giơ về phía cậu:
“Vĩnh biệt Ma-ri-ơ !”
(Một vụ đắm tàu – Tiếng Việt 5, tập 2)
* Biện pháp 6: Thể hiện sắc thái giọng đọc:
Thông qua giọng đọc, người đọc có thể biểu hiện được những sắc thái tình
cảm đa dạng của con người như: buồn, yêu, ghét, lo lắng, hờn giận, khinh bỉ,
hóm hỉnh, phẫn nộ... phù hợp với từng thể loại văn học, nhân vật trong tác phẩm
và dụng ý của tác giả được gửi gắm sâu kín sau lớp vỏ ngơn từ.
Ví dụ 1:
Cai : ( xẵng giọng ) // Chồng chị à?
Dì Năm : - Dạ , chồng tui.
Cai :
- Để coi.( Quay sang lính ) // Trói nó lại cho tao // (chỉ dì Năm ).
Cứ trói đi . Tao ra lịnh mà //( lính trói dì Năm lại ).
An:
- ( Ơm dì Năm, ồ khóc) Má ơi má!
Cán bộ: - ( Bng đũa đứng dậy) Vợ tơi...
Lính:
- Ngồi xuống! (Chĩa súng vào chú cán bộ) Rục rịch tao bắn.
Dì Năm: - Trời ơi! Tui có tội tình chi?
Cai:
- (Dỗ dành) Nếu chị nói thiệt, tôi thưởng. Bằng chị nhận anh này
là chồng, tôi bắn chị tức thì, đốt ln cái nhà này nữa.
Dì Năm: - Mấy cậu ...để tui...
Cai:
- Có thế chớ! Nào, nói lẹ đi!
Dì Năm: - ( Nghẹn ngào) An...( An “dạ”). Mầy qua bà Mười...dắt con heo
về..., rồi đội luôn năm giạ lúa. Rồi...cha con ráng đùm bọc lấy nhau.
( Lòng dân – Tiếng Việt 5, tập 1)
Khi đọc đoạn này cần hướng dẫn học sinh thể hiện đúng thái độ, tình cảm,
lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái độ, hành động của nhân vật trong
tình huống kịch:
+ Giọng cai và lính : hống hách, xấc xược; giọng hí hửng ở câu “ Có thế
chớ! Nào, nói lẹ đi!”
9
+ Giọng dì Năm và chú cán bộ ở đoạn đầu: tự nhiên, ở đoạn sau dì Năm
khéo giả vờ than vãn khi bị trói, nghẹn ngào nói lời trăng trối với con khi bị doạ
bắn chết.
+ Giọng An : giọng một đứa trẻ đang khóc. ( An tham gia rất tự nhiên vào
vở kịch do má em dàn dựng. trong tình huống nguy hiểm, em khóc vì thực sự lo
cho má).
Ví dụ 2 :
Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của tên sĩ quan, ơng già nói tiếp:
- Ngài thử xem Si-le đã dành những tác phẩm của mình cho ai nào? Nhà văn
đã viết Vin-hem Ten/ cho người Thuỵ Sĩ, Nàng dâu ở Mét-xi-na /cho người Ita-li-a, Cơ gái c-lê-ăng /cho người Pháp,…
Càng nghe nói, tên sĩ quan phát xít càng ngây mặt ra. Cuối cùng, hắn hỏi:
- Chẳng lẽ Si-le khơng viết gì cho chúng tơi hay sao?
Ơng già mỉm cười trả lời:
- Có chứ. Si-le đã dành cho các ngài vở/ Những tên cướp!
( Tác phẩm của Si-le và tên phát xít – Tiếng Việt 5, tập 1)
Đọc đoạn văn trên, cần thể hiện giọng đọc linh hoạt theo đúng tính cách
của từng nhân vật: giọng của ơng già điềm đạm thơng minh, hóm hỉnh; giọng
tên phát xít hống hách, hợm hĩnh nhưng dốt nát, ngờ nghệch. Ở câu cuối, nên hạ
giọng, dừng lại một chút trước từ “vở” và nhấn giọng cụm từ Những tên cướp
thể hiện rõ ngụ ý hóm hỉnh, sâu cay.
* Biện pháp 7: Thể hiện nét mặt, điệu bộ trong khi đọc:
Khi đọc nếu biết thể hiện nét mặt, điệu bộ một cách tự nhiên, phù hợp với
nội dung văn bản thì sẽ góp phần tạo nên sự truyền cảm đối với người nghe.
Ví dụ:
Hùng nói: “ Theo tớ, q nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai khơng ăn
mà sống được khơng?”
Q và Nam cho là có lí. Nhưng đi được mươi bước, Q vội reo lên:
“Bạn Hùng nói khơng đúng. Quý nhất phải là vàng. Mọi người chẳng thường
nói quý như vàng là gi? Có vàng là có tiền, có tiền sẽ mua được lúa gạo!”
Nam vội tiếp ngay: “ Q nhất là thì giờ.Thầy giáo thường nói thì giờ q
hơn vàng bạc. Có thì giờ mới làm ra được lúa gạo, vàng bạc!”
(Cái gì quý nhất? – Tiếng Việt lớp 5, tập 1)
Với đoạn văn này, tôi hướng dẫn học sinh đọc theo cách phân vai. Học
sinh cần thể hiện đúng giọng đọc của từng nhân vật Hùng, Quý, Nam kết hợp
với thể hiện nét mặt, điệu bộ khi tranh luận . Chú ý kéo dài giọng hoặc nhấn
giọng ở những từ quan trọng trong ý kiến của từng nhân vật để góp phần diễn tả
rõ nội dung và bộc lộ thái độ.
* Biện pháp 8: Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm theo từng thể
loại văn:
+ Luyện đọc văn miêu tả và các bài văn xuôi:
Văn miêu tả là loại văn dùng để tả sự vật, hiện tượng hoặc con người một
cách cụ thể, sinh động như đang hiện lên trước mắt người đọc. Trong các bài tập
10
đọc ở lớp 5 có nhiều bài thuộc văn miêu tả như: Quang cảnh làng mạc ngày
mùa; Kì diệu rừng xanh; Đất Cà Mau, Phong cảnh Đền Hùng,….
Khi đọc văn miêu tả cần đọc nhấn giọng ở các từ ngữ nổi bật có tác dụng
miêu tả đường nét, màu sắc, hình ảnh, đặc điểm của sự vật. Trong văn miêu tả
(cũng như văn xi nói chung) dấu phẩy, dấu chấm chính là những dấu ngắt
nhịp khi đọc. Dấu phẩy ngắt một nhịp (/), dấu chấm ngắt hai nhịp (// ). Ngồi ra
trong câu có những vị trí tuy khơng có dấu câu song vẫn phải ngắt nhịp để ý
nghĩa đọc lên rành mạch hơn.
Ví dụ: “Tối đó,/ bố về.// Bố ôm Mơ chặt đến ngợp thở.// Cả bố và mẹ đều
rơm rớm nước mắt. //Chỉ có em bé nằm trong nôi là cười rất tươi.// Chắc là
em khen chị Mơ giỏi đấy.// Dì Hạnh nói/ giọng đầy tự hào: //“ Biết cháu tơi
chưa?/ Con gái như nó/ thì một trăm đứa con trai cũng không bằng.”//
(Con gái – Tiếng Việt 5, tập 2)
+ Luyện đọc thơ :
Ngoài các yêu cầu về kĩ thuật đọc đã được trình bày ở trên, thì cần chú ý đến
một số đặc trưng riêng của thơ ca như sau: Thơ ca là tiếng nói của tình cảm,
phản ánh hiện thực cuộc sống bằng ngơn từ một cách cơ đọng, súc tích, giàu
hình ảnh và giàu nhạc điệu.
Thơ ca có cấu trúc âm thanh, vần điệu tương đối chặt chẽ, theo một số quy
tắc riêng tạo thành các thể thơ như: thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ tự do,...
vì thế khi giảng dạy giáo viên cần nắm vững các thể thơ, để phân định rõ ranh
giới các nhịp thơ trong một bài thơ cụ thể. Ngắt một nhịp ( / ), ngắt 2 nhịp ( // ),
giọng đọc đi lên (
), giọng đọc đi xuống (
).
+ Luyện đọc văn bản kịch:
Chương trình phân mơn Tập đọc lớp 5 có các văn bản kịch như: Lịng
dân; Người cơng dân số Một. Văn bản kịch là văn bản chỉ có lời đối thoại của
các nhân vật. Do đó, khi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm, tôi giúp học sinh biết
ngắt giọng, đủ để phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật. Đọc đúng ngữ
điệu các câu kể, câu hỏi, câu khiến, câu cảm trong bài. Giọng đọc cần thay đổi
linh hoạt, phù hợp với tính cách từng nhân vật và tình huống căng thẳng, đầy
kịch tính của vở kịch.
+ Luyện đọc các bài truyện kể:
Văn kể chuyện là một loại văn dùng để kể lại một câu chuyện, một sự kiện,
một con người... trong đời sống thực tế xã hội hoặc trong trí tưởng tượng, qua sự
sắp xếp, nhào nặn, hư cấu của người viết. Vì thế khi luyện đọc diễn cảm văn kể
chuyện cần chú ý các điểm sau:
Cần có nhịp điệu và sắc thái giọng đọc khác nhau khi đọc lời kể của tác giả
và lời của nhân vật. Lời kể của tác giả có tác dụng dẫn dắt người đọc, người
nghe theo dõi diễn biến của câu chuyện. Giọng đọc lời của nhân vật phụ thuộc
vào tính cách của nhân vật và tuỳ theo từng ngữ cảnh cụ thể. Như truyện: Chuỗi
ngọc lam ( TV 5, tập 1), khi hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm cần thể
hiện giọng kể rãi, nhẹ nhàng, biết đọc phân biệt lời các nhân vật, thể hiện đúng
tính cách từng nhân vật: cô bé ngây thơ, hồn nhiên; chú Pi-e điềm đạm, nhân
11
hậu, tế nhị; chị cô bé lịch sự, ngay thẳng, thật thà. Cần phối hợp giọng đọc với
nét mặt, cử chỉ, điệu bộ trong khi đọc một cách nhịp nhàng.
Qua thực tế dạy học, tôi nhận thấy rằng: Tập đọc là một phân môn thực hành;
nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng
lực đọc được tạo nên từ 4 kĩ năng bộ phận cũng là 4 yêu cầu về chất lượng của
“đọc” đó là: đọc đúng, đọc nhanh ( đọc lưu lốt, trơi chảy), đọc có ý thức ( thơng
hiểu được nội dung những điều mình đọc hay cịn gọi là đọc hiểu) và đọc
hay( mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm). Cũng cần phải hiểu kĩ năng đọc có
nhiều mức độ khác nhau, nhiều tầng bậc khác nhau.
( Sách, Các phương pháp dạy học Tiếng Việt của GS.TS. Lê Thị Phương
Nga. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm).
2.4. Hiệu quả sau khi áp dụng kinh nghiệm “ Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho
học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Tân Thành 1, Thường Xuân”:
Sau một thời gian ( từ đầu tháng 10 năm 2016 đến cuối tháng 3 năm 2017)
áp dụng “ Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 tại
trường Tiểu học Tân Thành1, Thường Xuân” như đã trình bày ở trên, tơi nhận
thấy hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt
động tích cực hơn. Các em mạnh dạn, tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc còn sai
lỗi giảm, số học sinh đọc lưu loát, đọc diễn cảm được nâng lên rõ rệt. kết quả
thực hiện được thể hiện ở bảng sau:
Tổng Thời điểm
số
đánh giá
HS
25
Đầu tháng
10/ 2016
25 Cuối tháng
3/ 2017
Đọc cịn sai
lỗi
SL
TL
Đọc đúng
Đọc lưu lốt
SL
TL
SL
TL
Đọc diễn
cảm
SL
TL
6
24%
11
44%
6
24%
2
8%
2
8%
3
12%
8
32%
12
48%
Việc đánh giá mức độ đọc diễn cảm nêu trên ( Bảng số liệu) là kết quả
cộng hưởng của cả ba quá trình rèn đọc ở học sinh: Đọc đúng- nhanh, đọc hiểu
và đọc diễn cảm. Bởi cả ba quá trình này có sự tác động tương hỗ với nhau,
khơng thể tách rời, đó là q trình chuyển từ thấp đến cao về “chất” trong một
giờ tập đọc. Chính vì vậy, việc đánh giá khả năng đọc diễn cảm của các em
không thể tách rời các kĩ năng bộ phận trên.
So sánh kết quả học tập của học sinh như trên tôi nhận thấy rằng: Việc áp
dụng một số biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 đã
mang lại cho tôi một kết quả khả quan - khả năng đọc (đặc biệt là đọc diễn cảm)
của học sinh lớp tơi có tiến bộ rõ rệt. Tơi thiết nghĩ, giáo viên áp dụng các biện
pháp dạy học này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng đọc
diễn cảm của các em sẽ được nâng lên. Tuy kết quả thu được từ lớp học của tơi
chưa phải là cao nhưng phần nào đã nói lên tính hiệu quả của sáng kiến kinh
nghiệm này.
12
3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận:
+ Đối với giáo viên:
Dạy học tiếng Việt nói chung (dạy phân mơn tập đọc, phần luyện đọc diễn
cảm nói riêng), thầy cơ giáo khơng cịn đóng vai người truyền thụ kiến thức cho
học sinh chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải để học sinh thụ động
nghe và ghi nhớ như trước đây mà trở thành người tổ chức, điều khiển quá trình
dạy học để học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức mới. Do
đó, để rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh đạt kết quả tốt giáo viên cần
phải:
- Hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học (đi từ tư duy cụ thể
đến tư duy trừu tượng) để tác động, truyền thụ kiến thức khoa học các môn học
đến các em một cách phù hợp nhất, hiệu quả nhất.
- Hiểu thấu đáo nội dung, chương trình sách giáo khoa, phương pháp học
dạy đặc thù của các môn học, yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của môn học cụ
thể (ở đây là phân môn tập đọc, phần luyện đọc diễn cảm), để giảng dạy và đánh
giá việc học tập của học sinh.
- Phân loại các bài tập đọc trong chương trình theo từng thể loại để hướng
dẫn học sinh đọc.
- Giáo viên đọc mẫu chuẩn tất cả các bài đọc trong chương trình, nghiên cứu
kĩ nội dung từng bài đọc để tìm ra cách đọc hay nhất.
- Biết nắm vững và phối hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp, hình thức
dạy học tích cực để giờ dạy có hiệu quả thiết thực (phương pháp đặc trưng của
môn học, bài học, phần học là gì?. Hình thức dạy học nào có hiệu quả nhất? Nên
sử dụng vào lúc nào?...).
- Để học sinh học tốt phần luyện đọc diễn cảm trong một giờ tập đọc, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh luyện đọc tốt phần đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu
loát, trơi chảy) và phần đọc có ý thức (đọc hiểu).
- Soạn bài kĩ, lượng hoá cụ thể từng nhiệm vụ của từng phần học; từ, ngữ,
câu, đoạn nào trong bài cần được đọc diễn cảm: thời gian từng phần học là bao
nhiêu, dùng phương pháp và hình thức dạy học nào cho thích hợp với từng thể
loại văn, thơ, truyện...
- Tổ chức phối hợp các hình thức luyện đọc diễn cảm phong phú, đa dạng tạo
được sự thi đua học tập ở học sinh.
- Sử dụng đầy đủ, chính xác, hợp lý, mô phạm các đồ dùng trực quan để bổ
trợ tốt cho phần tập đọc. Quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp,
tạo cho các em một tâm thế tốt, một niềm tin vào việc học, khơng ngại khó trong
học tập.
+ Đối với học sinh:
Để rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm đạt kết quả tốt học sinh cần phải:
- Cần học bài trước ở nhà theo hướng dẫn của giáo viên (chú trọng phần đọc
đúng, đọc nhanh).
13
- Phải có đồ dùng dạy học đầy đủ, đặc biệt là bút chì dùng để gạch chân nhẹ
những chỗ cần đọc đúng, cần nhấn giọng và đánh dấu nhịp thơ, câu văn cần đọc
diễn cảm theo hướng dẫn của giáo viên.
- Biết cách phối hợp cùng nhau trong giờ học (học nhóm), để bổ trợ cho
nhau trong q trình học tập chiếm lĩnh kiến thức mới.
- Tạo thói quen và dần ham thích đọc sách, đọc nhiều loại văn bản khoa học
khác nhau để có cách đọc, cách cảm, cách nghĩ đa dạng và phong phú về những
gì được đọc. Giúp các em đọc đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm. Biết giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt và thêm yêu quý tiếng mẹ đẻ của mình.
- Kiến nghị
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học phần luyện đọc diễn cảm trong
phân mơn Tập đọc nói riêng, mơn Tiếng Việt Tiểu học nói chung, tơi mạnh dạn
đề xuất một số ý kiến như sau:
+ Để tạo ra động lực và thói quen thường xuyên luyện đọc cho cả giáo
viên và học sinh, hằng năm Ngành giáo dục nên tổ chức cuộc thi: “ Đọc diễn
cảm” cho giáo viên và học sinh.
+ Với sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn
cảm cho học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Tân Thành 1, Thường Xuân”.
Bằng sự nghiên cứu, học hỏi cộng với hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình dạy- học, tơi đã nêu ra, phân tích và làm sáng tỏ tầm quan trọng
của việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 nói riêng và học sinh
bậc Tiểu học nói chung. Trong vấn đề này, học sinh là người chủ động chiếm
lĩnh kiến thức khoa học có định hướng, có khoa học sư phạm từ phía giáo viên
với những phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả nhất. Nhưng trong khuôn
khổ của một sáng kiến kinh nghiệm, cịn mang đậm tính cá nhân, áp dụng trong
thực tế dạy - học chưa được lâu... nên không tránh khỏi những hạn định cần
được bổ sung, cần được làm sáng tỏ thêm. Vì vậy, bản thân kính mong được Hội
đồng khoa học và các bạn đồng nghiệp trao đổi, đóng góp ý kiến để sáng kiến
kinh nghiệm của tơi hồn thiện hơn, mang lại hiệu quả thiết thực hơn, góp phần
nhỏ bé của mình đưa sự nghiệp giáo dục phát triển.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 22 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác
Nguyễn Thị Hà
14
MỤC LỤC
Phần
Nội dung
Trang
1.
Mở đầu
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
1
1.3
Đối tượng nghiên cứu
1
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
2.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
2
5
2.4
Các biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5.
Hiệu quả sau khi áp dụng kinh nghiệm “ Rèn kĩ năng đọc
diễn cảm cho học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Tân Thành 1
12
3.
Kết luận, kiến nghị
12
- Kết luận
12
- Kiến nghị
14
2.2
2.3
3
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
Tên tài liệu
1
Sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 5( Học kì 1). Nhà xuất bản Giáo
dục
2
Sách giáo khoa mơn Tiếng Việt lớp 5( Học kì 2).Nhà xuất bản Giáo
dục
3
Sách giáo viên môn Tiếng Việt lớp 5 (Học kì 1).Nhà xuất bản Giáo dục
4
Sách giáo viên mơn Tiếng Việt lớp 5 ( Học kì 2).Nhà xuất bản Giáo
dục
5
Sách Các phương pháp dạy học Tiếng Việt của GS.TS. Lê Thị Phương
Nga. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
16
17
Các giải pháp, biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
- Các giải pháp thực hiện:
Đứng trước thực trạng đó, tơi ln ln trăn trở, khơng ngừng tìm tịi,
học hỏi, tham khảo các tài liệu, kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp và mạnh
dạn đưa ra các giải pháp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả đọc diễn cảm cho
học sinh lớp 5 như sau:
+ Nắm bắt khả năng đọc của từng học sinh, cũng như hồn cảnh gia
đình của từng học sinh để có biện pháp phối hợp trong quá trình dạy học:
Việc biết được khả năng đọc của từng học sinh, thường xuyên liên lạc,
trao đổi với phụ huynh học sinh về kết quả học tập của các em giúp giáo viên có
được thơng tin ngược để điều chỉnh q trình dạy học cho phù hợp và có hiệu
quả hơn. Đồng thời, biết thơng cảm và chia sẻ với những học sinh có hồn cảnh
khó khăn, giúp các em xố bỏ được mặc cảm và biết vươn lên trong học tập.
+ Giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, mạnh dạn đổi mới
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với từng đối tượng
học sinh.
Trước khi lên lớp, giáo viên phải đọc bài nhiều lần để đọc mẫu chuẩn cho
học sinh và hiểu thấu đáo nội dung bài đọc.
Căn cứ vào đối tượng học sinh của lớp mình, giáo viên phải lường trước
các từ khó, các từ phát âm dễ lẫn để hướng dẫn cho học sinh khi đọc(những
tiếng khó, những chỗ ngắt nhịp ở các câu dài, những từ ngữ cần nhấn giọng ...).
Đồng thời sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học thích hợp nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động luyện đọc.
+ Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học cần thiết cho tiết học.
Đây là bước quan trọng phục vụ cho giờ dạy mà lâu nay giáo viên thường
bỏ qua, chỉ chú trọng thực hiện khi có người đến dự giờ, thăm lớp.
+ Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách sáng tạo
Thực hiện đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh theo thông tư
22. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một việc làm nhằm
điều chỉnh các phương pháp, biện pháp dạy học cho phù hợp và có hiệu quả hơn,
nhất là với phân môn Tập đọc.
+ Một số biện pháp tổ chức thực hiện:
Để nâng cao chất lượng dạy học phần luyện đọc diễn cảm - phân môn Tập
đọc cho học sinh lớp 5, tôi đã áp dụng những biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc
diễn cảm cho học sinh như sau:
18