Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sáng kiến một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.06 KB, 14 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:………………………………………….
1. Tên sáng kiến: "MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC
DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4"
2. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục Tiểu học
3. Mô tả sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
- Giáo dục bậc tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền
móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Đặc biệt là môn Tiếng
Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các môn học ở trường, nó hình thành khả
năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học
khác;
- Tiếng việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Học thuộc lòng,
Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết. Mỗi môn đều có
một chức năng, khi dạy Tiếng Việt cho học sinh đồng thời cũng chuẩn bị vốn
cho học sinh khi học văn. Tập đọc là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài
nhiệm vụ dạy học nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng việt cho học
sinh (về phát âm, từ ngữ, câu văn...), kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và
giáo dục tình cảm thẩm mĩ;
- Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng đặt ra một nhiệm
vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng học sinh biết đọc diễn cảm
bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học
đáng kể cho trẻ em. Cũng thông qua các bài văn học sinh học, các em được hiểu
thêm về các vùng miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân
dân đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý
báu của dân tộc; yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, trong xã
hội, trong văn chương. Môn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng



và cả tư duy logic. Giờ tập đọc bên cạnh việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh
tìm ý của đoạn, nội dung của bài để phát triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát
triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán
đoán, ghi nhớ;
- Môn tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với
chương trình Tiếng việt. Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ được
cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng
sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn;
- Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của phân môn tập đọc nói
chung và việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 nói riêng trong
giờ tập đọc, để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ và có phương
pháp giảng dạy phù hợp;
- Mặt khác, qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy tôi thấy:
+ Trong quá trình dạy tập đọc lớp 4, cũng như quá trình quan sát, dự giờ
việc dạy và học của thầy trò, của các đồng nghiệp trong thời gian trước đây tôi
nhận thấy chất lượng đọc diễn cảm của học sinh lớp 4 nói chung và của lớp tôi
nói riêng còn nhiều hạn chế;
+ Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi về
tri thức con người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ nói và viết là vô cùng cần
thiết cho mỗi người. Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được mà phải
trải qua một quá trình rèn luyện kiên trì ngay từ đầu. Để góp phần nâng cao chất
lượng đọc cho học sinh tôi mạnh dạn đề xuất một vài kinh nghiệm nhỏ của mình
về: “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4”.
* Ưu điểm:
Thực hiện tốt đề tài này, giúp học sinh:
- Rèn tốt kĩ năng đọc (đọc lưu loát, đọc diễn cảm, đọc tốt lời nhân vật,…);
- Học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ;
- Tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể
cho các em;

- Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn;
2


- Trong giờ học, học sinh biết đọc diễn cảm thì tiết học mới có hiệu quả
cao và mới thể hiện được tầm quan trọng của bộ môn;
- Học sinh tích cực tham gia thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong
lớp, trong trường vào những ngày sinh hoạt tập thể, kỷ niệm ngày lễ lớn;
- Trong các giờ tập đọc học sinh say mê học và lớp học sôi nổi, kỹ năng
đọc diễn cảm được nâng cao rõ rệt.
* Khuyết điểm:
- Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em chưa thể cảm nhận hết hoặc
có cảm nhận cũng không thể diễn đạt tốt vì vốn ngôn ngữ của các em còn quá
đơn giản, ít ỏi và chưa phong phú. Nên quá trình dạy Tập đọc để cho các em đọc
đúng đã là khó, để các em đọc diễn cảm được nội dung còn khó khăn gấp nhiều
lần;
- Trong quá trình giáo viên hướng dẫn nếu như giáo viên đọc mẫu chưa
tốt thì học sinh đọc cũng khó thành công;
- Nếu giáo viên thiếu kiên trì trong việc uốn nắn cho các em thì kết quả
đạt được cũng không cao.
3.2. Nội dung giải pháp
3.2.1. Mục đích của giải pháp
Ở bậc tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng phân môn tập đọc có 2 yêu
cầu:
- Rèn kĩ năng tập đọc;
- Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn.
+ Học môn tập đọc, việc đọc và cảm thụ là 2 khâu có quan hệ mật thiết
với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc diễn
cảm tốt. Ngược lại việc đọc diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu
sắc. Thật vậy học sinh có đọc thông thạo được và trên cơ sở đã hiểu nội dung

câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm xúc có
nghĩa là đã hiểu tường tận về nội dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài.
Điều đó khẳng định rằng trong tiết dạy tập đọc lớp 4, việc luyện rèn kĩ năng đọc
diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết;
3


+ Trong giờ học, học sinh biết đọc diễn cảm thì tiết học mới có hiệu quả
cao và mới thể hiện được tầm quan trọng của bộ môn;
+ So với lớp 1- 2- 3, học sinh lớp 4 có điều kiện và kĩ năng đọc diễn cảm
tốt hơn nhưng chỉ ở mức độ ban đầu (đọc diễn cảm một đoạn văn, khổ thơ). Học
sinh được thực hành luyện tập từng bước để có thể đáp ứng nhu cầu cao hơn ở
lớp 5 và các lớp trên.
3.2.2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
* Khách thể: Học sinh lớp Bốn
* Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp giúp học sinh đọc diễn cảm các
bài tập đọc lớp 4.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp thống kê phân loại;
- Phương pháp thử nghiệm sư phạm;
- Phương pháp thực hành;
- Phương pháp đối chứng.
Các phương pháp vận dụng phối hợp để bổ trợ cho nhau. Từ đó giúp
người giáo viên đạt được mong đợi mà đề tài đã đề ra.
3.2.3.Nội dung giải pháp
* Điểm mới của giải pháp
- Học sinh tự nghiên cứu trước cách đọc, cảm thụ bài đọc. Qua dặn dò,
hướng dẫn của giáo viên cuối mỗi tiết học. Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn,

đọc thầm đã được hình thành ở các lớp 1, 2, 3, tăng cường tốc độ đọc, biết đọc
lướt để chọn thông tin nhanh, nâng cao chất lượng đọc diễn cảm;
- Phát triển kĩ năng đọc hiểu lên mức cao hơn: Nắm và vận dụng được
một số khái niệm nhớ đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,…để hiểu ý nghĩa
của bài và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, thơ (yêu cầu
trọng tâm);

4


- Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần
hình thành nhân cách của con người mới;
- Giáo viên đọc (hoặc học sinh đọc) - học sinh tự phát hiện cách đọc;
- Giáo viên phải thực hiện xuyên suốt trong cả năm học;
Như vậy, để đạt được các yêu cầu trên và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
về nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đòi hỏi mỗi giáo viên
cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học sao cho “Nhẹ nhàng, chất lượng,
hiệu quả”.
* Điểm khác biệt với giải pháp cũ
- Về người dạy học: Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới “Thầy
thiết kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi
nghiên cứu để giảng dạy phân môn tập đọc. Tuy nhiên giáo viên chỉ coi trọng
một vấn đề đọc thành tiếng to, rõ hoặc có hướng dẫn đọc diễn cảm nhưng chỉ
lướt qua, rèn đọc diễn cảm cho học sinh còn ít;
- Về người học: Học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã để ý
và đọc đúng các phụ âm khó. Nhưng đọc hiểu nắm nội dung bài còn rất ít do vậy
chưa nêu được ý chính của bài mà phải nhờ sự gợi ý của giáo viên, đọc diễn cảm
toàn bài văn chưa tốt. Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm còn ngừng nghỉ chưa
hợp lí còn tùy hứng, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm, câu khiến;
- Chỉ hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm một đoạn;

- Chỉ tập trung rèn cho những học sinh có năng khiếu đọc.
3.2.4. Biện pháp thực hiện
Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học tôi đều
thấy số lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít. Cụ thể điều
tra chất lượng đọc của học sinh lớp 4 của tôi đầu năm học 2015 -2016 như sau:
Sĩ số
Đọc nhỏ, ấp úng
Đọc to, rõ, lưu loát Đọc diễn cảm
21
7 - 33.3%
12 - 57.2%
2 - 9.5%
- Trước thực trạng trên, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình câu hỏi:
Phải làm gì? làm như thế nào? để khắc phục tình trạng đó và nâng cao chất
lượng đọc cho học sinh;
5


- Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu đó là: Phương pháp điều tra, phương pháp đối chứng
và phương pháp tổng quát. Phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra
thực trạng mà phải điều tra từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn
tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước và cuối
cùng đi đến tổng hợp số liệu và rút ra bài học kinh nghiệm;
- Từ yêu cầu thực tiễn của việc dạy tập đọc nói chung và rèn luyện kỹ
năng nói cho học sinh lớp 4, tôi đã tự đặt cho mình phải nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp rèn kĩ
năng đọc diễn cảm để đáp ứng với yêu cầu đề ra;
- Trong giảng dạy phân môn tập đọc, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích
cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức, đặc

biệt là việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh
đọc diễn cảm tốt, trước hết trong mọi giờ tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học
sinh cách phát âm chuẩn, đọc đúng đắn, có ý thức, trôi chảy, sau đó mới yêu cầu
học sinh đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy học những yêu cầu đó gọi là
chất lượng đọc được thể hiện đồng thời và chi phối lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ
nâng cao tốc độ đọc và cho phép đọc có ý thức hơn. Nếu không hiểu cái đang
đọc thì không thể đọc lưu loát và diễn cảm được;
- Đọc diễn cảm thể hiện ở kĩ năng dùng ngữ điệu, biết nghỉ hơi ở dấu
chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy, hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền các tiếng trong từ
ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra cần biết đọc đúng giọng câu kể, câu
hỏi, biết phân biệt giọng người dẫn chuyện với từng nhân vật có tính cách khác
nhau. Đọc diễn cảm là biểu hiện cao của đọc có ý thức và chỉ thực hiện đựơc
trên cơ sở đọc đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu
cầu phát âm đúng song cũng không nên quá nhấn mạnh ở các phụ âm: tr - ch; r gi; n - l; s - x; thanh hỏi - ngã làm giọng đọc mất tự nhiên.
Để đạt được những yêu cầu trên tôi đã tiến hành các biện pháp rèn đọc
diễn cảm cho học sinh như sau:
3.2.4.1. Biện pháp 1: Phân loại học sinh
6


Sau khi nhận lớp, tôi đã ổn định chung tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra
để nắm chắc đối tượng học sinh và lựa chọn, đặc biệt là về kĩ năng đọc và phân
loại học sinh theo ba đối tượng:
- Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm;
- Đối tượng 2: Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát;
- Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng, ngọng.
Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ cho học sinh những em đọc yếu ngồi cạnh
những em đọc khá, đọc tốt để đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công việc tiếp
theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn Tập đọc để các em nắm được các
chủ đề chính trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng,

yêu cầu cơ bản về việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ bài
văn, bài thơ của từng chủ đề. Hướng dẫn mỗi em có một quyển sổ để ghi những
câu, những đoạn văn, bài văn, bài thơ hay có giá trị về nội dung và nghệ thuật.
3.2.4.2. Biện pháp 2: Sự chuẩn bị của học sinh
Trước khi học bài tập đọc, tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi
chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa,
đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh.
3.2.4.3. Biện pháp 3: Tiến hành bài dạy
- Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt trước hết người giáo viên phải
có nghiệp vụ sư phạm tốt, đặc biệt đọc mẫu của giáo viên phải chuẩn, hay, có
sức cuốn hút học sinh vì trong khâu rèn đọc thì việc đọc mẫu của giáo viên có
ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh. Các em sẽ theo dõi lắng nghe giáo viên đọc
và coi đó là chuẩn mực để bắt chước, để so sánh đánh giá với giọng đọc của
mình. Chính vì vậy giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ giáo
viên đọc, nói đều phải chuẩn về ngữ âm. Sau phần tìm hiểu bài, tôi yêu cầu học
sinh đọc thật tốt từng đoạn nhằm “thăm dò” khả năng thể hiện sự cảm nhận nội
dung bằng giọng đọc của học sinh;
- Qua giọng đọc của học sinh, tôi dẫn dắt, gợi ý để các em phát huy ưu
điểm, khắc phục những hạn chế và tự tìm ra cách đọc hợp lí.
Ví dụ : Bài Tập đọc “Khúc hát ru những em bé lớn lên trên lưng mẹ”
7


“....Em Cu tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan/ đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo/ mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng/ giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi/ má em nóng hổi
Vai mẹ gầy/ nhấp nhô làm gối”
Bài đọc nói lên tình yêu của người mẹ Tà ôi đối với con và đối với cách

mạng, khi đọc bài các con đọc với giọng như thế nào? Vậy để thể hiện tốt điều
này chúng ta cần nhấn giọng vào những từ ngữ nào?
Việc giáo viên đọc mẫu nhằm minh họa, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho
học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc;
Ví dụ : Bài “Tre Việt Nam”
Giáo viên đọc mẫu, yêu cầu học sinh: Nghe và phát hiện cách đọc của cô
(ngắt nhịp ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ
nào?...Vì sao khi đọc câu thơ có dấu chấm hỏi cô chỉ cần nhấn giọng ở các từ
“lũy, thành” mà không cần đọc cao giọng ở tiếng cuối câu hỏi ?....
...Thân gầy guộc, lá mong manh /
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi ?
Sau đó giáo viên cho học sinh thực hành luyện đọc diễn cảm (theo cặp,
theo nhóm) để các em tự rút kinh nghiệm cho mình, hình thành kĩ năng nhận xét
và tự nhận xét;
Tiếp theo tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau
và được giáo viên động viên, uốn nắn;
Tuy nhiên, trước khi dạy bài đọc tôi cần tìm hiểu kĩ bài dạy xem bài Tập
đọc đó là văn bản nghệ thuật hay là phi nghệ thuật.
- Đối với văn bản nghệ thuật: Tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
thông qua dẫn dắt, gợi mở giúp các em thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc
phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài ..., Cụ thể
là: + Học sinh bước đầu biết làm chủ giọng đọc, nhấn giọng những từ gợi tả,
gợi cảm, từ ngữ chìa khóa làm nổi bật ý chính trong câu;
8


Ví dụ : Bài Tập đọc “Con sẻ”
“Bỗng từ trên cây cao gần đó, một con sẻ già có bộ ức đen nhánh lao
xuống như hòn đá rơi trước mõm con chó. Lông sẻ già dựng ngược, miệng rít
lên tuyệt vọng và thảm thiết. Nó nhảy hai ba bước về phía cái mõm há rộng đầy

răng của con chó. Sẻ già lao đến cứu con, lấy thân mình phủ kín sẻ con. Giọng
nó yếu ớt nhưng hung dữ và khản đặc ...”
+ Khi đọc đoạn 2, đoạn 3, Tôi gợi ý HS “Hình ảnh sẻ mẹ lao xuống lấy
thân mình che chở cho con” được tác giả miêu tả rất sinh động, khi đọc đoạn
này các em cần nhấn giọng vào những từ ngữ nào? (Học sinh biết nhấn giọng
vào những từ gợi tả hành động, dáng vẻ của sẻ già khi lao xuống cứu con).
+ Học sinh biết thể hiện ngữ điệu, sự thay đổi tốc độ, cao độ, cường độ,
trường độ ...phù hợp với từng loại câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến;
Ví dụ: Bài Tập đọc “Ga- vrốt ngoài chiến lũy”
Khi đọc đoạn miêu tả chi tiết thể hiện lòng dũng cảm của Ga- vrốt, giáo
viên lưu ý học sinh sự thay đổi giọng đọc như sau:
- Cậu làm trò gì đấy? - Cuốc – phây - rắc hỏi. (Câu hỏi thể hiện sự ngạc
nhiên);
- Em nhặt cho đầy giỏ đây! (Câu cảm thể hiện sự bình tĩnh);
- Cậu không thấy đạn réo à? (Câu hỏi như nhắc nhở Ga- vrốt không được
liều mình);
Ga - vrốt trả lời :
- Có chứ nó rơi như mưa ấy. Nhưng làm sao nào? (Khi đọc lên giọng ở
câu hỏi thể hiện sự hồn nhiên)
Cuốc- phây- rắc thét lên:
- Vào ngay! (Câu khiến thể hiện sự đề nghị, mệnh lệnh kèm sự lo lắng)
- Tí ti thôi! - Ga - vrốt nói (thể hiện sự tinh nghịch)
Trong đoạn đọc diễn cảm tôi cũng lưu ý học sinh: Đối với bài văn xuôi
ngoài việc đọc tốt các câu chúng ta còn phải biết ngắt hơi ở chỗ không có dấu
câu nhưng chỗ đó là chỗ tách ý;
Ví dụ : Bài tập đọc “Con sẻ”
9


HS ngắt câu dài “Chợt / nó dừng chân và bắt đầu bò, tuồng như đánh hơi

thấy vật gì.” hoặc câu “Bỗng / từ trên cây cao gần đó, một con sẻ già có bộ ức
đen nhánh lao xuống như hòn đá / rơi trước mõm con chó”.
+ Tôi hướng dẫn học sinh đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật.
Đọc phân biệt lời của các nhân vật sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi
và tính cách của từng nhân vật (người già, trẻ em, người tốt, người xấu ...);
Ví dụ : Bài Tập đọc : “Khuất phục tên cướp biển”
Trong bài đọc có 2 nhân vật chính: Bác sĩ Ly - một người nhân hậu, điềm
đạm nhưng nghiêm nghị, cương quyết và tên cướp biển - chúa tàu hung hãn, dữ
tợn;
Trước khi học sinh đọc diễn cảm, tôi yêu cầu các em cần tìm hiểu bài thật
kĩ. Khi đó học sinh đọc lời nhân vật sẽ phân biệt được giọng đọc dựa vào tính
cách nhân vật (người tốt, người xấu); Trong bài cùng là câu hỏi nhưng trong
đoạn đối thoại sau, tính cách của hai nhân vật thể hiện khác nhau hoàn toàn.
Chúa tàu trừng mắt nhìn Bác sĩ, quát:
- Có câm mồm không? (đọc giọng thể hiện sự hung hãn của tên cướp khi
đập tay xuống bàn quát Bác sĩ Ly);
Bác sĩ điềm tĩnh hỏi:
- Anh bảo tôi phải không? (giọng tự tin, điềm tĩnh nhưng hết sức nghiêm
nghị).
Khi tên chúa tàu cục cằn bảo “phải”, bác sĩ nói:
- Anh cứ uống rượu mãi như thế thì đến phải tống anh đi nơi khác.
- Cơn giận của tên cướp thật dữ dội. Hắn đứng phắt dậy, rút soạt dao ra,
lăm lăm chực đâm. Bác sĩ Ly vẫn dõng dạc và quả quyết:
- Nếu anh không cất dao, tôi quyết làm cho anh bị treo cổ trong phiên tòa
sắp tới. (giọng đọc bình tĩnh, cương quyết bảo vệ lẽ phải);
+ Ngoài ra tôi giúp học sinh thể hiện ngữ điệu phù hợp tình huống miêu tả
hay thái độ cảm xúc của tác giả (vui, buồn, nghiêm trang, giận giữ ...);
Ví dụ: Bài Tập đọc “Con sẻ”
Khi đọc đoạn cuối miêu tả tình cảm của tác giả đối với con chim sẻ bé
10



nhỏ: “Vâng, lòng tôi đầy thán phục, xin bạn đừng cười. Tôi kính cẩn
nghiêng mình trước con chim sẻ bé bỏng dũng cảm kia, trước tình yêu của nó”.
+ Học sinh đọc đoạn với giọng vui, nhấn giọng một số từ ngữ gạch chân
thể hiện sự trân trọng, kính phục của tác giả đối với tình yêu của sẻ mẹ đối với
sẻ con;
+ Tuy nhiên học sinh đọc diễn cảm như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm
nhận riêng của từng em. Tôi không áp đặt cho các em một cách đọc theo khuôn
mẫu.
- Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định được ngữ điệu đọc sao cho phù
hợp với mục đích thông báo, làm rõ những thông tin cơ bản, giúp người nghe
tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản. Điều này
giúp cho học sinh khắc phục được những cách đọc thiên về hình thức hoặc diễn
cảm tùy tiện.
Ví dụ : Bài Tập đọc “Vẽ về cuộc sống an toàn”
Học sinh biết đọc đúng bản tin (thông báo tin vui) đọc rõ ràng, rành mạch,
với tốc độ khá nhanh, lưu ý ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, nghỉ hơi tự
nhiên, tách các cụm từ trong những câu khá dài;
“UNICEF Việt Nam và báo Thiếu niên Tiền phong / vừa tổng kết cuộc thi
vẽ tranh của thiếu nhi với chủ đề / “Em muốn sống an toàn”.
+ Để học sinh lớp 4 từng bước hình thành kĩ năng đọc diễn cảm thì vai trò
của người thầy đặc biệt quan trọng bởi người thầy luôn là tấm gương sáng, mẫu
mực trong cách đọc diễn cảm để học sinh bắt chước, giáo viên đọc mẫu- đây là
việc làm quan trọng để giúp các em đọc diễn cảm tốt; giúp các em luyện tập thể
hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài qua giọng đọc;
Muốn rèn luyện cho học sinh đọc diễn cảm tốt, ngoài việc thống nhất
cách đọc chung, mỗi học sinh có cảm thụ riêng, từ đó có cách dọc diễn cảm bộc
lộ sự sáng tạo. Để phát huy tính sáng tạo của học sinh khi đọc diễn cảm cách tốt

nhất là giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập “tự bộc lộ” (trên cơ sở đọc mẫu
của giáo viên và kết quả tìm hiểu bài), qua đó giáo viên điều chỉnh cách đọc cho
11


học sinh, tránh phân tích quá chi tiết về cách đọc. (Ví dụ: Xác định chỗ ngắt hơi,
cao giọng, thấp giọng ...) rồi sau đó mới chuyển sang luyện đọc và đọc theo một
cách giống hệt nhau;
Khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được trong lớp một không khí
thoải mái để học sinh dễ cảm nhận với bài văn, có tâm trạng chờ đợi và chú ý
nghe giáo viên đọc và cũng từ đó các em có thể học tập và rèn luyện;
Trong khi rèn đọc diễn cảm tôi thường xuyên chú ý đến những học sinh
rụt rè nhút nhát, tôi thường xuyên khuyến khích, không gắt gỏng để các em
không lo lắng, bị áp lực;
Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý đến tiết
học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp;
Đối với học sinh đọc yếu, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ,
cụm từ, với câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề ra yêu cầu rèn đọc ở nhà,
kiểm tra lại những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được tiến
hành thường xuyên không được ngắt quãng;
Cuối mỗi tiết học tôi thường tổ chức thi đọc diễn cảm để các em thi nhau
thể hiện giọng đọc của mình. Qua đó học sinh được đánh giá, nhận xét cách đọc,
giọng đọc của bạn để rút kinh nghiệm cho bản thân.
Tóm lại, sau mỗi giờ tập đọc tôi thường kiểm tra chất lượng đọc của học
sinh thông qua đọc thành tiếng (cả 3 đối tượng Giỏi - Khá - Trung bình) xem các
em đã đọc diễn cảm chưa và nhắc nhở các em về nhà tiếp tục luyện đọc.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Thực hiện tốt một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là
việc làm rất cần thiết cho mỗi giáo viên. Những biện pháp nêu trên ta nhận thấy
đó là sự quan tâm và tâm huyết của mỗi giáo viên đối với học sinh. Khi dạy

phân môn Tập đọc giáo viên cần thường xuyên theo dõi, nhắc nhở, làm gương
giúp các em hứng thú học tập và nâng cao chất lượng đọc diễn cảm cho học
sinh;
Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã vận dụng cho lớp mình
trong quá trình giảng dạy và nó đã góp phần đem lại kết quả cao. Ngoài ra sáng
12


kiến này được triển khai trong đơn vị, được sự tham gia của tổ chuyên môn khối
4, 5 cùng một số trường bạn tham gia thực hiện giải pháp. Giúp cho các em học
sinh tích cực trong học tập, kĩ năng đọc diễn cảm được nâng cao.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được
Đề tài trên đã được khảo sát và áp dụng cho học sinh lớp 4 tôi chủ nhiệm.
Qua quá trình giảng dạy, nhờ đã kiên trì bên bỉ áp dụng những biện pháp
rèn đọc như đã nêu trên. Tôi đã tiến hành khảo sát lớp 4 và có số liệu như sau:
Sĩ số
21

Giai đoạn
Đầu năm
Cuối kì I
Giữa kì II

Đọc nhỏ, ấp úng
7 - 33.3%
5 - 23.8%
2 - 9.5%

Đọc to, rõ, lưu loát
12 - 57.2%

9 - 42.9%
7 - 33.3%

Đọc diễn cảm
2 - 9.5%
7 - 33.3%
12 - 57.2%

- Qua kết quả khảo sát và số liệu ghi chép tôi rất phấn khởi thấy trong các
giờ tập đọc học sinh say mê học và lớp học sôi nổi, kỹ năng đọc diễn cảm được
nâng cao rõ rệt;
`

- Có nhiều em đầu năm học đọc nhỏ, chưa trôi chảy, đến giữa học kì II các

em đã đọc to, rõ ràng, lưu loát hơn. Những em học trung bình khá trở lên đã đọc
diễn cảm bài văn theo đúng yêu cầu đề ra. Tuy kết quả chưa được mỹ mãn như ý
nhưng đó cũng là thành công bước đầu nghiên cứu, đầu tư, suy nghĩ tìm ra biện
pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình.
Để đạt được kết quả cao nhất cho việc vận dụng đề tài nầy người giáo
viên cần:
- Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt trước hết người giáo viên phải
có nghiệp vụ sư phạm tốt, đặc biệt đọc mẫu của giáo viên phải chuẩn, hay, có
sức cuốn hút học sinh;
- Giáo viên phải nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy
học đạt kết quả cao nhất nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức
điều khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi kích thích hứng thú học tập và
nâng cao ý thức tự giác của học sinh;
- Nắm vững nội dung từng bài đọc, hiểu ý đồ của người biên soạn là quan


13


trọng song vẫn đòi hỏi đến vai trò chủ động sáng tạo và ứng xử linh hoạt
đối với từng đối tượng học sinh khác nhau mới đem lại hiệu quả cao;
- Giáo viên giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong
phương pháp soạn giảng, phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa cách phát âm cho học
sinh thật tận tình, chu đáo. Luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em có
tiến bộ.
3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu.
Sáng kiến được triển khai trong đơn vị. Được sự tham gia của tổ chuyên
môn khối 4 và khối 5 tổ. Một số trường bạn cùng tham gia thực hiện giải pháp./.
…………., ngày 04 tháng 4 năm 2016
Người viết

…………………………

14



×