A- MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Bậc Tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành nhân cách ở học sinh. Mục tiêu giáo dục Tiểu học là “ Hình thành
cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
trung học cơ sở” (Điều 23 luật Giáo dục).
Chính vì xuất phát từ mục tiêu đó, Nghị quyết hội nghị lần 2 - BCH TW
Đảng khoá VIII đã nêu rõ: “ Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học”.
Trong tổng số các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt chiếm thời gian và
thời lượng nhiều nhất trong tất cả các môn học. Nó đảm nhận nhiệm vụ hình thành
năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực ấy được thể hiện trong 4 dạng
hoạt động tương ứng với chúng là 4 kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Trong đó Tập đọc
là một phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng của chương trình Tiếng Việt. Nó đảm
nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc cho học sinh- một kỹ năng quan
trọng hàng đầu của học sinh ở những lớp đầu bậc Tiểu học.
Đọc là một chìa khoá giúp học sinh mở cửa, khám phá và tiếp thu kho
tàng kiến thức của loài người, tìm hiểu những kinh nghiệm của đời sống, những
thành tựu văn hoá, khoa học, những tư tưởng tình cảm của con người. Đây cũng
chính là hành trang giúp học sinh hoà nhập giao tiếp với cộng đồng, hình thành
một nhân cách toàn diện. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì biết
đọc lại càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng và xử lí các nguồn thông
tin tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Năng lực đọc được hình thành qua thực hành, nó được hình thành trong 2
hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm, trong đó đọc thành tiếng là hình
thức quan trọng hàng đầu, không thể thiếu trong quá trình luyện đọc.
Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học, là một trong những người đặt nền
móng tri thức cho các em, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ trong từng bài dạy, tiết dạy
“ Dạy như thế nào để đem lại cho các em nhiều lợi ích thiết thực trong nghe,
đọc, nói, viết”. Không những dạy cho các em biết nói những lời hay mà còn phải
dạy cho các em đọc đúng, hiểu đúng, viết đúng.
Kĩ năng đọc đựơc xem là một tiêu chuẩn đánh giá chất lượng học tập của
học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng. Vì vậy, tôi đã đi sâu
nghiên cứu một số biện pháp đổi mới trong việc dạy phân môn Tập đọc lớp 1 và
mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1”.
2, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Thông qua việc rèn đọc cho học sinh lớp 1, giúp các em học sinh lớp 1
hình thành kĩ năng đọc như: đọc đúng chính âm,đọc đúng tốc độ, đọc to rõ ràng,
1
đọc diễn cảm, ngắt nghỉ đúng, đọc thể hiện được giọng đọc của nhân vật,đọc
hiểu nội dung văn bản.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Học sinh lớp 1A Trường TH&THCS Thị Trấn Quan Sơn – Thanh Hóa.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp làm theo mẫu, phương pháp quan sát, phương pháp điều tra,
phương pháp kiểm tra, đánh giá.
2
B- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Môn Tiếng Việt là môn học có vị trí đặc biệt quan trọng, là công cụ để học
sinh học tốt các môn học khác, khi các em đã có vốn Tiếng Việt thì các em sẽ tự
tin và vững vàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức của các môn học và có những
kĩ năng sống cần thiết.
Dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ
bản đầu tiên đối với học sinh nói riêng và đối với mọi người nói chung.Đọc là
công cụ để học tập các môn học khác.
Chính vì vậy, Trường tiểu học có nhiệm vụ dạy đọc cho học sinh một cách
có kế hoạch và có hệ thống. Tập đọc với tư cách là một phân môn của môn
Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu này. Đó là hình thành và
phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Thông qua việc dạy đọc phải làm cho học sinh thích đọc và thấy rằng khả
năng đọc là có ích cho và giúp các em trong cuộc sống. Phải làm cho học sinh
thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống
trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Muốn đọc đúng, đọc diễn cảm thì trước hết giáo viên cần luyện phát âm
đúng cho học sinh. Phát âm chuẩn sẽ được nhiều cái lợi trước hết nó giúp học
sinh viết đúng chính tả sau đó còn giúp học sinh phát âm dễ dàng hơn khi học
ngoại ngữ và các môn học khác.
2.. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM:
1- Về phía nhà trường và giáo viên :
Trường TH&THCS Thị Trấn Quan Sơn, là một trường nằm ngay tại trung
tâm huyện Quan Sơn. Đây là một huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa, nên dân
cư chủ yếu là dân tộc Thái, Kinh, Mường,… Nên việc chăm lo đến việc học của
con em chưa được quan tâm chu đáo. Điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.
Qua việc dự giờ, tìm hiểu quả trình dạy Tập đọc của anh chị em đồng nghiệp,
và các trường bạn tôi nhận thấy nguyên nhân quan trọng nhất làm cho chất lượng
dạy Tập đọc chưa tốt và cũng chính là những hạn chế của giáo viên, đó là một số
giáo viên của chúng ta vẫn còn thiếu hụt các kỹ năng đọc, vì vậy không làm chủ
được các kỹ năng dạy Tập đọc, nhiều giáo viên đọc không đúng chính âm hoặc đọc
không hay, không diễn cảm, chưa thể hiện được giọng đọc của nhân vật, hiểu
không đúng những điều đã được đọc từ cấp độ câu, đoạn và cả nội dung, đích
thông báo của toàn văn bản. Giáo viên ít nhiều còn thiếu hụt các kỹ năng dạy học
Tập đọc, không làm chủ được các phương pháp, thủ pháp dạy Tập đọc ở tiểu học.
Một số giáo viên chưa biết chữa các lỗi phát âm cho học sinh, chưa có biện pháp
3
tốt nhất để luyện cho học sinh đọc to, đọc đúng tốc độ và đọc diễn cảm. Tất cả
những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến các giờ dạy Tập đọc.
2- Về học sinh :
Năm học 2015-2016, tôi được phân công dạy lớp 1A. Sau khi học nhiệm
vụ năm học, tôi càng hiểu rõ hơn về nâng cao chất lượng đọc cho học sinh đặc
biệt là học sinh lớp 1. Bản thân tôi thấy rằng việc nâng cao chất lượng đọc cho
học sinh khối 1 giữ vai trò vô cùng quan trọng. Được sự chỉ đạo, hướng dẫn
giúp đỡ của Ban giám hiệu, chuyên môn nhà trường, tôi đã tiến hành nghiên
cứu, tìm hiểu và trực tiếp giúp học sinh thực hành luyện đọc thành tiếng, đọc lưu
loát, trôi chảy và đọc hay.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát để phân loại đối tượng học
sinh. Tôi đã cho kiểm tra tất cả học sinh lớp tôi phụ trách đọc lại bảng chữ cái
mà các em đã được học ở trường Mầm non.
Sau khi kiểm tra tôi thấy nhiều em đọc sai âm, nhầm lẫn giữa các âm, đọc
ấp úng, ê a ; còn có những học sinh chỉ thuộc 5 đến 7 âm trong bảng chữ cái.
Đây là thực tại mà giáo viên chúng tôi phải thông cảm với vùng miền núi, bởi
địa phương tôi dạy là một Thị Trấn của huyện miền núi Quan Sơn – Thanh Hóa.
Kinh tế nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhiều người phải đi làm xa để con cái
ở nhà với ông bà chăm sóc nên con trẻ rất thiệt thòi, rồi cũng có phụ huynh còn
khoán trắng cho nhà trường. Bên cạnh còn do đặc điểm ngôn ngữ vùng miền
dẫn tới nhiều em phát âm hay bị sai. Sự quan tâm của phụ huynh đến việc học
của con em họ còn hạn chế, về nhà các em không được nhắc nhở thường xuyên,
việc rèn kĩ năng đọc ở nhà hầu như không có, đặc điểm tâm sinh lí của trẻ thì
mau nhớ chóng quên. Do đó chất lượng đọc của học sinh không đạt yêu cầu như
giáo viên mong muốn. Sau khi khảo sát, kết quả rất đáng lo ngại như sau:
Tổng số
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
HS
28
SL
TL
SL
TL
16
57,2%
12
42,8%
Bảng 1: Bảng thống kê kết quả khảo sát của tổ chuyên môn ở lớp 1
( vào cuối tháng 9 )
Với thực trạng đã làm tôi băn khoăn, trăn trở, thôi thúc tôi cố gắng tự học,
tự tìm tòi, nghiên cứu tìm ra phương pháp dạy và hình thức dạy để rèn kĩ năng
đọc bằng nhiều cách, giúp cho học sinh đọc tốt hơn, hay hơn và tự tin hơn khi
đọc bài trước mọi người và đấy cũng chính là giúp cho các em có khả năng nói
và giao tiếp tốt hơn.
3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
4
Mục đích đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác các ký hiệu văn tự
thành ký hiệu âm thanh. Vì vậy chất lượng đọc thành tiếng được đo bằng 4 kĩ
năng: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát), đọc có ý thức (thông hiểu nội dung văn
bản) và đọc diễn cảm. Kĩ năng đọc rất phức tạp đòi hỏi phải có quá trình luyện
tập lâu dài. Vì vậy tôi đã lựa chọn các biện pháp sau:
Biện pháp 1: Đề cao sự gương mẫu của giáo viên trong quá trình dạy học.
Là giáo viên Tiểu học cần phải mẫu mực ở mọi lúc mọi nơi và ở trong bất
kỳ lĩnh vực nào. Chính vì vậy tôi luôn gương mẫu về mọi mặt: cách nói năng,
cách sống, cách ăn mặc, cách viết và trình bày bảng và đặc biệt là khi đọc bài
trước học sinh vì tôi nghĩ giáo viên có đọc hay thì mới thu hút được sự chú ý của
học sinh. Do đó để giúp cho mình có giọng đọc hay, chuẩn, chính xác cho học
sinh nghe tôi thường xuyên xem và nghe các chương trình truyền hình trên ti vi.
Đặc biệt tôi thường xem chương trình thời sự để học cách đọc cách nói của phát
thanh viên vì họ là những người có giọng đọc rất hay và chuẩn.
Bên cạnh đó, tôi thường xuyên đọc sách báo, truyện, thơ để luyện cách đọc của
mình bởi tôi luôn coi trọng việc đọc mẫu của giáo viên trong dạy Tập đọc, đó chính là
hình ảnh trực quan cho học sinh.
Trước khi lên lớp, tôi đọc lại tất cả các bài học ở sách giáo khoa, vở bài
tập mà mình sẽ dạy, đặc biệt là các bài dạy môn Học vần để hình thành cách
đọc, giọng đọc tốt nhất cho mình.
Tóm lại: Nhờ những cách luyện tập như vậy mà tôi cảm thấy rất tự tin về
giọng đọc của mình và tôi cũng đã khắc phục được nhiều nhược điểm, những
mặt còn hạn chế.
Biện pháp 2: Giúp học sinh có tâm thế khi đọc.
Để luyện cho học sinh đọc có hiệu quả trước tiên tôi giúp cho học sinh
chuẩn bị tư thế ngồi. Khi ngồi học sinh phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt
đến sách 25-30 cm, cổ và đầu thẳng, thở chậm, thở sâu để lấy hơi. Khi đứng lên
đọc, phải bình tĩnh, tự tin, đứng dậy không được hấp tấp đọc ngay mà phải để có
thời gian tạo tâm thế. Thỉnh thoảng, tôi gọi học sinh lên bảng đọc để đối diện với
tất cả các bạn, tạo cho học sinh sự tự tin đồng thời tôi sửa luôn tư thế đọc cho
học sinh, vừa đàng hoàng, thoải mái, sách mở rộng và cầm bằng hai tay có như
thế mới giúp cho quá trình đọc thành tiếng được tốt hơn.
Biện pháp 3: Hướng dẫn luyện đọc đúng :
3.1- Đọc đúng phụ âm :
Do tình hình đặc điểm của ngôn ngữ địa phương, tôi thấy học sinh lớp tôi hay
đọc sai phụ âm r, s, tr . Khi luyện đọc cho học sinh, trước khi lên lớp tôi thường đọc kĩ
bài đọc để dự tính lỗi học sinh hay mắc và đề ra phương án sửa lỗi. Đối với các âm
khó, tiếng khó, từ khó đọc, tôi giúp học sinh phân tích cấu tạo tiếng, tìm ra lỗi phát âm
5
sai ở âm hay vần hay thanh tôi sẽ đọc mẫu các tiếng này, từ này cho học sinh đọc theo,
nếu học sinh vẫn đọc sai, tôi sẽ mô phỏng cách phát âm.
Ví dụ :
+ Để đọc đúng các phụ âm r, tr cần chú ý: không bật hơi , đầu lưỡi cong
trong các tiếng: rễ, rổ rá, rô (cá rô) - (Bài 19 trang 40 Tiếng Việt 1, tập 1); tre
(tre ngà), trê (cá trê), trí (trí nhớ), trẻ (nhà trẻ) - (Bài 26 trang 54 TV 1, tập 1) .
+ Để đọc đúng âm s cần chú ý: không bật hơi , lưỡi cong trong các tiếng:
sẻ, su su, số (chữ số) - (Bài 19 trang 40 Tiếng Việt 1, tập 1)…
3.2- Đọc đúng nguyên âm :
Học sinh ở vùng miền núi thường đọc đúng các nguyên âm đôi, nhưng ở
địa bàn Thị Trấn dân cư có đầy đủ các dân ở huyện miền xuôi lên làm ăn, công
tác, đặc biệt các em thuộc các huyện miền xuôi của tỉnh Thanh Hóa, khi đọc các
nguyên âm đôi thì các em thường bỏ đi một âm và ngược lại khi đọc nguyên âm
đơn lại thêm vào 1 âm.
Ví dụ : “bó cỏ” thì đọc là “búa của” (Bài 9 trang 20 Tiếng Việt 1, tập 1)
tôi đã cho học sinh phát âm lại âm o, sau đó ghép thành tiếng và tôi nhắc học
sinh tròn miệng khi đọc, đọc đi đọc lại nhiều lần.
Ví dụ: “múi bưởi” thì đọc là”muối bửi” (Bài 35 trang 72 TV 1, tập 1).
“đèn điện” thì đọc là”đèn địn”…(Bài 49 trang 100 Tiếng Việt 1 tập 1)…
Vì vậy để giúp học sinh đọc đúng các âm chính tôi yêu cầu học sinh phải
có ý thức đọc phân biệt rõ các nguyên âm đôi. Song khi luyện đọc cho học sinh
các nguyên âm đôi này vẫn có những học sinh vẫn không sao đọc đúng được.
Tôi yêu cầu học sinh so sánh vần( in/iên; ui/ uôi; ưi/ươi…), đánh vần từng âm
một, đánh vần vần sau đó ghép thành tiếng và cho luyện đọc thường xuyên. Có
khi sửa cho học sinh cách đọc trong cả giờ Toán- khi đọc đề bài- mà có những
tiếng liên quan đến lỗi của các em.
3.3 - Đọc đúng dấu hỏi, ngã .
Học sinh lớp tôi nói riêng và học sinh các lớp trong toàn trường nói
chung, qua quá trình dạy, dạy thay tôi nhận thấy các em đều đọc sai dấu hỏi
thành dấu ngã, dấu ngã thành dấu hỏi.
Ví dụ: “ ủn à ủn ỉn” đọc thành “ũn à ũn ĩn” Bài 48 trang 99 TV1, tập 1)
Tôi hướng dẫn học sinh khi đọc các tiếng có thanh hỏi thì đọc thấp giọng,
còn những tiếng có thanh ngã thì phải hơi lên giọng. Nhưng có những từ có
thanh hỏi và thanh ngã liền kề nhau thì ngoài kĩ thuật trên tôi kèm thêm đọc mẫu
cho học sinh học tập như các từ: “ngõ nhỏ” (Bài 25, trang 52 TV1, tập ); “trỉa
đỗ”(Bài 31, trang 64 TV 1, tập 1)
6
Tóm lại: Những nhược điểm khi đọc học sinh hay mắc phải sau khi phân
tích và mô phỏng cách phát âm cho học sinh thì tôi thấy các em đã phát âm
chính xác hơn.
Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nghỉ câu phù hợp, đúng chỗ.
Để đọc đúng và hay một văn bản thì cần phải biết ngắt nghỉ đúng chỗ, phù
hợp với nội dung, cấu trúc của từng câu. Học sinh phải nhận biết được dấu hiệu
của câu để ngắt nghỉ, có khi dấu hiệu của câu là dấu câu nhưng cũng có khi nó
được thay bằng từ chỉ quan hệ. Vì thế, khi luyện đọc tôi giúp học sinh dựa vào
các dấu hiệu (dấu câu) để ngắt nghỉ hoặc sau một số cụm từ có nghĩa
(giáo viên đọc mẫu cho học sinh nghe và phát hiện chỗ cần ngắt nghỉ).
Ví dụ 1: “ Mùa thu, bầu trời như cao hơn. Trên giàn thiên lí, lũ chuồn
chuồn ngẩn ngơ bay lượn” (Bài 50 – trang 103 Tiếng Việt 1, tập 1 )
Ở ví dụ trên ngắt hơi ở dấu phẩy, ngắt hơi ở chủ ngữ và nghỉ hơi ở dấu chấm.
Đó là: “Mùa thu,/ bầu trời/ như cao hơn.// Trên giàn thiên lí,/ lũ chuồn
chuồn/ ngẩn ngơ bay lượn.”//
Vì vậy trước khi dạy một bài ứng dụng trong tiết Học vần cụ thể, tôi dự tính
những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định cách ngắt giọng đúng cho các em.
Với những câu dài không có dấu phẩy hay những câu văn tuy không dài
nhưng học sinh khó xác lập được các quan hệ ngữ pháp, cái đích thông báo .
Ví dụ 2: “Vầng trăng hiện lên sau rặng dừa cuối bãi. Sóng vỗ bờ rờ rào, rì rào.”
(Bài 53 Tiếng việt 1, tập 1, trang 109)
Ở bài ứng dụng này, khi dạy tôi sẽ hướng dẫn học sinh ngắt giọng dựa vào
ý nghĩa của câu, chủ thể của câu để làm nổi bật nội dung thông báo của câu .
Đó là :Vầng trăng/ hiện lên/ sau rặng dừa cuối bãi.// Sóng vỗ bờ/ rì rào,/ rì rào.//
Ví dụ 3 : “Mẹ gà mừng rỡ “tục, tục” dắt bầy con quây quanh vũng nước đọng
trong vườn ” (Bài “Sau cơn mưa”- Theo Vũ Tú Nam , TV1, tập 2, trang 124)
Để làm nổi bật nội dung thông báo của câu văn, tôi hướng dẫn học sinh ngắt
giọng như sau:
“Mẹ gà mừng rỡ “tục,/ tục” / dắt bầy con/ quây quanh vũng nước đọng trong
vườn //.”
Khi đọc thơ, việc ngắt giọng trong khi đọc không chỉ phụ thuộc bởi dấu
câu (ngắt giọng lôgíc) mà còn căn cứ vào tình tiết, nhịp điệu của thơ ca. Học
sinh đọc hay mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp
lực của nhạc thơ. Dường như học sinh sẽ ngắt nhịp tạo ra sự cân đối về mặt âm
thanh đọc từng câu thơ. Với thơ chuyển tiếp, tôi sẽ hướng dẫn các em ngắt theo
nhịp 2/ 2, với thơ 5 tiếng ngắt nhịp 2/ 3 hoặc 3/ 2, với thơ 7 tiếng các em sẽ ngắt
nhịp 3/ 4, 4/ 3 hoặc 2/ 2/ 3. Thơ lục bát ngắt theo nhịp chẵn 2/ 2/ 2; 4/4. Gặp
7
những trường hợp này tôi phải hướng dẫn học sinh thật cụ thể cách ngắt nhịp
.Tôi hướng dẫn học sinh cách ngắt nghỉ các ví dụ sau:
Ví dụ 1:
“ Mẹ, mẹ ơi/ cô dạy
Phải/ giữ sạch đôi tay
Bàn tay/ mà dây bẩn
Sách, áo/ cũng bẩn ngay.//”
(Bài 81 – trang 165 Tiếng Việt 1 tập 1)
Ví dụ 2:
“Tôi/ là chim chích
Nhà/ ở cành chanh
Tìm sâu/ tôi bắt
Cho chanh/ quả nhiều
Ri rích,/ ri rích
Có ích,/ có ích.”
(Bài 82 – trang 167 Tiếng Việt 1, tập 1)
Còn nếu để học sinh tự đọc, một số học sinh sẽ đọc sai theo cảm giác của
nhạc thơ và cứ đọc theo nhịp 2/3; 2/2. Ví dụ: “Tôi là/ chim chích
Nhà ở/ cành chanh”
Trong các giờ Học vần, Tập đọc, tôi đều để học sinh tự tìm cách ngắt
giọng của các câu thơ, câu văn dài. Nếu gặp những câu khó, tôi sẽ đọc mẫu cho
học sinh nghe và học sinh khá giỏi tự phát hiện chỗ ngắt nghỉ đúng trong các
cây này. Sau đó học sinh sẽ luyện đọc cá nhân, đọc theo bàn, đọc theo tổ, đọc
đồng thanh từng câu. Cuối cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh cả bài.
Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh đọc có ngữ điệu phù hợp.
Ngữ điệu đọc bao gồm những dấu hiệu biến đổi về ngữ âm trong khi đọc
như: tiết tấu của giọng đọc (kĩ thuật ngắt giọng đã nói ở trên), nhịp điệu đọc
(dồn dập hay chậm rãi), cường độ đọc (to hay nhỏ, nhấn giọng hay lướt qua),
cao độ đọc (giọng đọc trầm hay bổng, lên cao hay xuống thấp), sắc thái giọng
đọc (thông qua giọng đọc thể hiện những sắc thái tình cảm khác nhau của con
người như: buồn, vui…)
5.1 - Đọc đúng kiểu câu :
Song song với việc luyện ngắt nghỉ để đọc đúng câu, tôi còn giúp học sinh
luyện đọc đúng ngữ điệu câu. Lên giọng ở câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể thay
đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu.
8
Ví dụ1: “Mẹ có yêu không nào? ” (Bài 64, trang 131 TV1, tập 1)
Ở câu này, tôi hướng dẫn học sinh lên giọng ở tiếng ”nào” để biểu lộ sự
nũng nịu của bé và sự âu yếm của mẹ.
Ví dụ 2: “- Cắt đuôi? Ấy chết...!
Tôi đi học thôi! ”
(“Mèo con đi học”- Theo P.Vô- rôn- cô, trang 103TV1, tập 2)
Đây là những câu thơ cuối của bài liên tiếp ba kiểu câu- câu cảm, câu khiến, câu
hỏi. Để diễn tả đầy đủ ý nghĩa giáo dục của bài thơ, tôi hướng dẫn học sinh đọc nhấn
giong ở tiếng”đuôi”, thấp giọng và hơi kéo dài tiếng”chết” đúng với tâm trạng của chú
mèo: chưa chăm học, ngây ngô tìm cớ cái đuôi của mình bị ốm để nghỉ học nhưng đã bị
Cừu điều trị bằng cách “cắt đuôi” khiến chú đã đi học trở lại.
Tuy nhiên tôi cũng lưu ý học sinh không nên cường điệu khi thể hiện ngữ
điệu đọc (đọc quá mạnh, quá yếu, quá cao hay quá thấp) gây ra những chỗ gấp
khúc, gãy về đường nét âm thanh sẽ lệch không tự nhiên, không hợp với cảm xúc.
Như vậy, luyện đọc đúng câu là một điều kiện để học sinh tiến tới đọc diễn cảm .
5.2- Đọc đúng giọng nhân vật:
Những tiết học vần có hoạt động kể chuyện, học sinh thường chăm chú
say sưa dõi theo cô giáo kể chuyện, các em thích thú khi cô giáo thể hiện lời
nhân vật như các em đang gặp nhân vật. Được ngắm nhìn những gương mặt
đáng yêu lúc đó đã thôi thúc tôi thường xuyên tổ chức cho các em kể chuyện
theo hình thức phân vai.
Với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 1, các em rất thích bắt chước
và bắt chước rất nhanh nên với hình thức tổ chức này cho hiệu quả cao.
Ví dụ: Kể câu chuyện“ Khỉ và Rùa” (Bài 31 Tiếng Việt 1, tập 1)
Sau khi tôi kể xong câu chuyện ( kể 2 lần kết hợp chỉ tranh) tôi cho học
sinh làm các việc sau:
- Xác định số lượng nhân vật: 3 nhân vật: Rùa, Khỉ, vợ Khỉ.
- Xác định giọng của nhân vật:
+ Khỉ: nói to, giọng sung sướng đắc thắng “ Bác Rùa ơi, vợ tôi mới sinh
con!”; “Bác cứ ngậm chặt vào cái đuôi của tôi. Tôi đi đến đâu thì bác cũng đi tới đó”.
+ Vợ Khỉ: giọng vui vẻ, thân thiện “Chào bác Rùa, quý hoá quá. Bác là
khách đầu tiên của vợ chồng em đấy. Bác gái ở nhà có khoẻ không? Dạo này bác
làm ăn thế nào? ”.
+ Rùa: giọng rên rỉ vì đau đớn “Ối…đau quá!”
- GV tổ chức cho học sinh kể theo nhóm 4 (vì có người dẫn chuyện).
9
- Tổ chức thi kể giữa các nhóm.
Nhìn chung, với hình thức phân vai thì học sinh rất thích thú, các em có cơ hội
trao đổi và thể hiện năng lực sáng tạo bản thân, không còn ngại kể chuyện nữa.
5.3- Hướng dẫn học sinh biểu hiện nét mặt, điệu bộ trong khi đọc.
Tư thế, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt của người đọc là những yếu tố
kèm ngữ điệu, được sử dụng kết hợp với giọng đọc, tạo nên sự giao cảm giữa
người đọc với người nghe, tạo nên hiệu quả tiếp nhận tốt hơn ở người nghe.
Khi đọc những văn bản vui, tôi dặn học sinh cần nhoẻn miệng cười trước
khi đọc và khi đọc thì mắt nhìn về phía người nghe, có khi tôi làm mẫu cho học
sinh quan sát nhận xét thấy rõ hiệu quả của việc làm để các em thực hành.
Ví dụ 1:
“ Ai trồng cây
Người đó có tiếng hát
Trên vòm cây
Chim hót lời mê say.”
(Bài 68 TV1 tập 1, trang 139)
Với khổ thơ này, khi đọc tôi hướng dẫn các em rạng ngời nét mặt, ánh mắt
tươi vui sẽ lôi cuốn người nghe có nhu cầu muốn trồng cây.
Ví dụ 2:
“ Vì bây giờ mẹ mới về ”
Cậu bé cắt bánh bị đứt tay nhưng không khóc. Mẹ về, cậu mới khóc òa
lên. Mẹ cậu hoảng hốt:
- Con làm sao thế?
- Con bị đứt tay.
- Đứt khi nào thế?
- Lúc nãy ạ.
- Sao đến bây giờ con mới khóc?
- Vì bây giờ mẹ mới về.
(TV1, tập 2, trang 88)
Đây là một câu chuyện về một cậu bé cũng như độ tuổi của học sinh, gần
gũi với đời sống thực của các em. Tôi đã tổ chức đọc phân vai, tạo điều kiện cho
các em biểu lộ nét mặt, điệu bộ lúc đọc: vai người con thì mếu máo, vai người
mẹ thì mắt mở to nhìn chằm chằm vì lo lắng rồi chuyển sang vui vẻ trìu mến
khi hiểu được con của mình “Sao bây giờ con mới khóc”.
Đặc biệt trong hoạt động kể chuyện, tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ
lời nói, cử chỉ để các em nhập vai tốt hơn.
10
Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh về tốc độ và âm lượng đọc khi đọc thành
tiếng.
6.1-Tốc độ đọc:
Đọc chậm quá, đọc ấp a ấp úng hoặc ngược lại đọc liến thoắng, đọc nhanh
quá đều làm cho người nghe khó theo dõi, không hiểu đúng và đầy đủ nội dung
của bài học. Muốn đọc nhanh thì yêu cầu học sinh phải có đôi mắt lướt nhanh
câu chữ khi đọc, phải đọc lưu loát trôi chảy. Chính vì vậy tôi luôn nhắc nhở học
sinh phải đọc bài trước khi ở nhà, đọc đi đọc lại cho nhiều lần bằng nhiều hình
thức đọc thành tiếng, đọc bằng mắt có như vậy thì khi đọc bài trước lớp các em
mới đọc không bị vấp, bị ê a ngắc ngứ. Bên cạnh đó tôi còn yêu cầu các em bấm
đồng hồ để tập đọc cho đúng tốc độ với yêu cầu, tối thiểu 20 tiếng/ 1 phút (cuối
kì I), 30 tiếng/ 1 phút (cuối kì II). Luyện như thế nhiều lần học sinh sẽ có thói
quen đọc đúng tốc độ cần đạt.
6.2-Âm lượng đọc:
Âm lượng đọc (độ to nhỏ của giọng đọc) phải đủ nghe .Đọc nhỏ quá (đọc lí nhí,
âm thanh không thoát ra miệng) hoặc to quá (như gào lên) sẽ làm cho người nghe theo
dõi một cách mệt mỏi, khó chịu. Tuỳ theo số lượng người nghe (một người, một nhóm,
cả lớp hoặc đám đông) người đọc cần điều chỉnh âm lượng cho phù hợp.
Chính vì thế, khi hướng dẫn học sinh đọc tôi thường nhắc các em đọc to,
rõ ràng nhưng không đươc hét sẽ gây ra âm thanh chói tai, đọc để cho cả lớp đủ
nghe. Còn khi học sinh bị lỗi đọc nhỏ quá, tôi thường nhắc các em nâng cao
giọng đọc, mở rộng vòm họng, mở to miệng khi đọc. Nếu chưa thực hiện được,
tôi tập cho các em đọc to khi nào bạn ở xa nhất lớp nghe được mới thôi.
Khi luyện đọc tôi cho học sinh nhận xét giọng đọc của bạn, giải thích vì
sao đọc như thế là hay? là chưa hay? Tôi tổ chức cho học sinh thi đọc theo tổ
và cho học sinh nhận xét tìm ra giọng đọc đúng và hay nhất. Cứ như vậy, dần
dần học sinh lớp tôi học tốt hơn.
Để giúp học sinh luyện đọc thành tiếng đạt hiệu quả cao, tôi nghĩ người
giáo viên còn phải thật chú ý quan sát cách đọc của học sinh, có như vậy, cô
giáo mới phát hiện ra chỗ nào học sinh đọc đúng, chỗ nào đọc sai để tìm ra cách
sửa chữa. Giáo viên không nên nhận xét chung mà phải nhận xét cụ thể giọng
đọc của từng học sinh. Làm được như vậy thì kết quả luyện đọc cho học sinh
mới đạt kết quả cao.
Luyện đọc thành tiếng yêu cầu phải có thời gian thực hiện luyện tập lâu
dài và kiên trì. Vì thế tôi không chỉ tập luyện đọc thành tiếng cho học sinh trong
các giờ Học vần, Tập đọc mà tôi còn lồng ghép dạy vào tất cả các môn học.
Ví dụ: Khi dạy Toán, tôi gọi học sinh đọc đề toàn và yêu cầu các em phải
đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ đúng thì người đọc và người nghe mới hiểu được yêu
cầu của đề. Hay đọc yêu cầu của bài tập trong các môn khác như môn Đạo đức,
11
Tự nhiên Xã hội… Tôi luôn hướng cho học sinh muốn trình bày một ý kiến thì
phải có thói quen chững chạc, tự tin, nói to, dõng dạc để cả lớp cùng nghe. Như
vậy nên tất cả học sinh lớp tôi đều có kỹ năng luyện đọc thành tiếng rất tốt.
Tóm lại, khi học sinh biết thực hiện tốt các hướng dẫn trên của giáo viên
thì tôi tin rằng các em đã biết đọc diễn cảm, học tốt môn Tiếng Việt nói riêng và
còn học tốt các môn học khác, làm nền tảng cho chất lượng mũi nhọn, là hạt
nhân của nhà trường.
Biện pháp 7: Sử dụng phương pháp dạy học theo kiểu phân hóa các
đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh.
Trong lớp có nhiều đối tượng học sinh: biết đọc diễn cảm, đọc rõ ràng lưu
loát, đọc đúng, đọc còn bị lỗi (sai phụ âm, sai nguyên âm, sai dấu thanh, đọc
nhỏ…) nên tôi đã thực hiện các cách sau:
- Sắp xếp học sinh ngồi theo nhóm cùng đối tượng để có điều kiện giúp
đỡ sửa lỗi cho các em.
- Tăng cường làm việc tay đôi với học sinh, nhất là những học sinh yếu.
- Thường xuyên phụ đạo riêng cho các em đọc yếu vào 15 phút đầu giờ
hay lúc ra chơi.
- Phân công các em đọc tốt kèm học sinh đọc yếu những khi cô giáo bận
hoặc không có trên lớp (ngoài giờ học).
- Với đối tượng học sinh đọc tốt, tôi thường xuyên động viên các em đọc truyện,
báo cho bạn nghe để khơi dậy ở các em ý thức cố gắng vươn lên đọc được như bạn.
Trong lớp học sinh luôn phân công phù hợp với khả năng của từng học
sinh. Đối với học sinh khá, giỏi, tôi thường giao cho các em đọc mẫu đoạn văn,
câu văn, hoặc vai một nhân vật nào đó. Đồng thời khuyến khích các em biết
sáng tạo trong cách đọc. Đối với học sinh yếu kém tôi không yêu cầu các em
luyện đọc nhiều mà chỉ cần các em đọc đúng một câu hoặc một từ khó. Cứ mỗi
ngày một ít dần dần các em sẽ tiến bộ. Riêng với học sinh yếu kém tôi thường
xuyên gần gũi chỉ bảo phương pháp đọc sao cho đúng. Tôi nghĩ như vậy, sẽ
không làm cho các em cảm thấy chán học hoặc nghĩ mình bị cô và bạn bỏ rơi
không quan tâm và chắc chắn các em sẽ phát huy được thế mạnh của mình và
khắc phục được những nhược điểm của mình.
Biện pháp 8: Khích lệ niềm say mê đọc sách của học sinh.
“ Mỗi tuần đọc một cuốn sách” đó là câu khẩu hiệu mà tôi đã phát động
trong lớp ngay từ đầu năm. Do đặc điểm tình hình và kinh tế của gia đình học
sinh, nhiều em có hoàn cảnh khó khăn nhưng có nhiều em có điều kiện thuận lợi
do có bố mẹ là giáo viên hoặc công chức nhà nước, nên tôi đã tổ chức phân
nhóm theo nơi ở, theo điều kiện kinh tế để các em trong cùng một đội, một vùng
sẽ hỗ trợ cho nhau. Trong nhóm tôi thường giao cho em giỏi kèm em yếu và tôi
12
đã động viên học sinh nên tìm tòi, sưu tầm các cuốn sách, báo, truyện phù hợp
với lứa tuổi để đọc và tìm hiểu thêm. Cuối tuần vào tiết sinh hoạt lớp các nhóm
sẽ báo cáo kết quả trong tuần nhóm đã đọc được bài nào. Đại diện nhóm sẽ thi
đọc với nhau và tôi thường có những phần thưởng nhỏ để thưởng kịp thời cho
nhóm có kết quả tốt nhất.
Bên cạnh đấy, tôi cũng thường xuyên sưu tầm thêm sách báo truyện thiếu
nhi và mượn ở thư viện nhà trường để cho các em đọc vào các tiết sinh hoạt 15
phút, giờ sinh hoạt ngoại khóa, ra chơi. Cũng chính nhờ những việc làm nhỏ
này, mà tôi đã khích lệ được tinh thần luyện đọc trong toàn lớp.
Biện pháp 9:Tổchức trò chơi để luyện đọc và mở rộng vốn từ cho học sinh.
Đây là một hình thức mà tôi thường xuyên áp dụng vào các tiết dạy Học
vần, Tập đọc vì tôi thấy mỗi lần tổ chức các trò chơi thì không khí lớp học sôi
nổi hẳn lên, các em trở nên rất hào hứng với tiết học. Cụ thể tôi thường tổ chức
các trò chơi bằng các hình thức sau:
Cuối tiết 1 của bài Học vần tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
“Tìm nhanh tiếng mới?” với nội dung: tìm tiếng (từ) mang âm (vần) đã học. Sau đó
cho đọc các từ vừa tìm được, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của từ. Trò chơi này
giúp học sinh mở rộng vốn từ và củng cố âm (vần) các em vừa học.
Bài 80: iêc- ươc
Ví dụ:
Tôi nêu tên trò chơi “ Tìm nhanh từ mới có vần iêc- ươc”, phổ biến luật chơi,
tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: học sinh nêu từ , giáo viên ghi bảng (từ học sinh
vừa nêu kèm theo tên học sinh bên cạnh), tổng hợp xem ai tìm được nhiều từ đúng
thì bạn đó chiến thắng. Tôi ghi bảng như sau:
iêc
ươc
xanh biêng biếc ( ...)
mơ ước( ...)
tiếc nuối (...)
bắt chước (...)
liếc nhìn (...)
hoa thược dược(...)
việc tốt (…)
bước đi (…)
...
...
Tiếp theo tôi cho học sinh đọc các từ mà các em vừa tìm được, giáo viên có thể
giải nghĩa một vài từ khó hiểu cho các em, dặn các em về nhà tìm thêm từ và luyện đọc.
Đối với bài ứng dụng là thơ thì tôi tổ chức thi đọc nối tiếp câu. Nếu em
nào không đọc được thì sẽ phải hát hoặc làm trò trước cả lớp.
Đọc đối đáp cũng gây hứng thú luyện đọc cho các em. Ngoài luyện đọc
cho các em, đó còn là cách đọc luyện sự tập trung chú ý, nhanh thuộc bài.
Ví dụ:
“ Kể cho bé nghe ”
13
(trích)
Học sinh A:
Hay nói ầm ĩ
Học sinh B:
Là con vịt bầu.
…….
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện.
Hay chăng dây điện
Là con nhện con.
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa.
Mồm thở ra gió
Là cái quạt hòm.
Không thèm cỏ non
Là con trâu sắt.
Rồng phun nước bạc
Là chiếc máy bơm.
Dùng miệng nấu cơm
Là cua, là cáy....
Trần Đăng Khoa
(TV 1, tập 2-trang 112)
Khi học bài này, đến hoạt động luyện đọc lại , tôi tổ chức cho học sinh
đọc đối đáp: người này đọc câu chỉ hoạt động “ Hay nói ầm ĩ” xong thì người
kia đọc câu chỉ chủ thể “Là con vịt bầu” tiếp tục cho hết bài. Đọc đối đáp theo
nhóm đôi, theo tổ, bên nào thua thì phải làm trò theo yêu cầu của bên thắng.
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho học sinh thi làm hướng dẫn viên du lịch ở
hoạt động luyện nói (Bài 69 trang 141, bài 82 tr167 TV1, tập 1) hoặc đối với
dạng bài là truyện thì tôi cho học sinh thi đọc phân vai để tái hiện lại câu chuyện
một cách sinh động nhất.
Tóm lại: Các hình thức này rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh Tiểu
học, nó giúp các em thêm yêu thích được học, được đến trường và quan trọng
hơn nó sẽ tạo cho các em một không khí thoải mái, thi đua học tập.
Biện pháp 10: Công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và tạo
môi trường học tập tốt cho học sinh.
14
Các em học sinh Tiểu học đang còn ở lứa tuổi nhỏ nên các em rất cần
được sự gần gũi, quan tâm và đặc biệt là thái độ nhẹ nhàng, khéo léo của cô giáo
giúp cho các em thêm tự tin, tin tưởng ở cô. Chính vì thế khi dạy các em luyện
đọc nhất là đối với học sinh đọc còn yếu tôi thường xuyên gọi các em đọc trong
các tiết học. Khi các em đọc chưa đúng tôi đến bên cạnh chỉ bảo nhẹ nhàng, có
những học sinh tôi phải kiên trì hướng dẫn đọc đi đọc lại chỉ một từ cho đến khi
em đọc đúng mới thôi, nhưng không vì nóng vội mà tôi cáu gắt, hoặc gây áp lực
để cho các em hoảng sợ, vì tôi biết nếu làm như thế thì mọi cố gắng của tôi sẽ
thành con số không, bởi vì các em khi đọc yếu thường thiếu đi sự tự tin, lo sợ
khi bị cô giáo gọi đọc. Tôi luôn khen ngợi kịp thời những học sinh đọc tốt, có
tiến bộ khéo léo động viên những học sinh đọc chưa tốt để các em có niềm tin,
chí hướng vươn lên.
Đặc biệt vào lớp học tôi thường xuyên chú ý đến ánh sáng sao cho các em
có đủ ánh sáng cho việc học bằng việc bật bóng điện, mở rộng tất cả cửa phòng
học, học sinh có khuyết tật về mắt thì tôi cho ngồi bàn đầu, học sinh nhỏ thì ngồi
trên, học sinh lớn thì ngồi bàn dưới.
Đối với việc phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường:
- Ngay từ đầu năm học, trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã thông
qua chất lượng khảo sát đọc của học sinh để phụ huynh nắm được trình độ đọc
của con em mình
- Tôi hướng dẫn học sinh cách giúp cho các em đọc đúng và lưu ý phụ
huynh cần chú ý cách đọc đúng các âm, vần, dấu thanh.
- Tôi thường xuyên thông báo sự tiến bộ hoặc chưa tiến bộ cuả từng em thông
qua sổ liên lạc, qua họp phụ huynh các kỳ, hoặc gặp gỡ trao đối với phụ huynh
- Tôi động viên phụ huynh nên mua thêm các sách, báo truyện thiếu nhi
để các em đọc thêm ở nhà.
- Ngoài ra tôi còn vận động những phụ huynh có điều kiện tài trợ vật chất
để mua vở tặng học sinh đọc tốt, đọc có tiến bộ sau mỗi đợt kiểm tra.
Nhờ công tác phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường và việc tạo
môi trường thuận lợi mà quá trình rèn đọc cho học sinh của tôi gặp rất nhiều
thuận lợi và nhiều em có tiến bộ rõ rệt.
4. HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua một năm học thực hiện các biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1.
Tôi nhận thấy việc rèn đọc cho học sinh phải được thực hiện một cách thường
xuyên, liên tục. Với những biện pháp cụ thể nêu trên, tôi đã nỗ lực cố gắng
trong suốt năm học vừa qua, kết quả thật đáng phấn khởi không phụ lòng
mong đợi của tôi cũng như Ban giám hiệu nhà trường và các bậc phụ huynh
học sinh. Qua kiểm tra chất lượng thực của Ban giám hiệu nhà trường, lớp tôi
có kết quả như sau:
15
Tổng số
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
HS
28
SL
TL
SL
TL
27
96,4%
1
3,6%
Bảng 2: Bảng thống kê kết quả khảo sát của tổ chuyên môn ở lớp 1
( vào cuối tháng 3)
\
16
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Qua một năm học, với sự nỗ lực của mình và sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường,
tổ chuyên môn , sự kết hợp chặt chẽ của phụ huynh tôi đã thu được kết quả rất đáng khích lệ.
Sau khi nghiên cứu và thực hành trên lớp dạy của mình, tôi đã rút ra những bài học kinh
nghiệm để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh Tiểu học như sau :
- Một là: Giáo viên phải có giọng đọc mẫu chuẩn vì đó là một trong những biện pháp
dạy học có tác dụng tốt nhất.
- Hai là: Biết quan sát cách đọc của học sinh, biết tái hiện lời đọc của học sinh đối chiếu
với lời đọc mẫu để tìm ra lỗi và sửa lỗi cho học sinh.
- Ba là: Trước khi lên lớp giáo viên phải dự tính trước các lỗi mà học sinh hay mắc để
từ đó đưa ra phương án đúng để chữa các lỗi.
- Bốn là: Tạo cho giờ học nhẹ nhàng, thoải mái, gần gũi học sinh. Nhận xét giọng đọc
của học sinh chính xác. Tuyệt đối không phê phán gay gắt những học sinh đọc sai, khen chê
đúng lúc, kịp thời giúp học sinh tự tin, thoải mái khi luyện đọc.
- Năm là: Lồng luyện đọc cho học sinh trong tất cả các môn học, trong giao tiếp hằng
ngày.
2. KIẾN NGHỊ:
2.1. Về giáo viên:
- Phải thực sự tâm huyết với nghề. Luôn tìm tòi, học hỏi trau dồi kiến thức, chuyên môn. Phải
biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học. Giáo viên cần kiên trì, nhẫn nại,
thường xuyên học hỏi kinh nghiệm. Nắm vững quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy
học.
2.2. Về chuyên môn:
Thường xuyên thăm lớp dự giờ để rút kinh nghiệm cho giáo viên, nâng cao chất lượng
giáo dục. Tạo điều kiện phát huy những năng lực, sáng tạo của giáo viên.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình dạy luyện đọc cho học
sinh nhằm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp mình. Kính mong sự giúp đỡ, tạo điều
kiện của các cấp lãnh đạo, của anh chị em đồng nghiệp để tôi có kết quả tốt hơn trong quá
trình giáo dục học sinh, nhất là học sinh lớp 1 – những chủ nhân tương lai của đất nước.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Quan Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
17
Lò Thị Diệp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Tiếng Việt 1 ( Tập 1). Tác giả: Đặng Thị Lanh ( chủ biên) – Hoàng
Hòa Bình – Hoàng Cao Cương – Trần Thị Minh Phương – Nguyễn Trí.
Nhà xuất bản Giáo Dục.
18
2. SGK Tiếng Việt 1 ( Tập 2). Tác giả: Đặng Thị Lanh ( chủ biên) – Hoàng
Hòa Bình – Hoàng Cao Cương – Trần Thị Minh Phương – Nguyễn Trí.
Nhà xuất bản Giáo Dục.
3. SGV Tiếng Việt 1 ( Tập 1). Tác giả: Đặng Thị Lanh ( chủ biên) – Hoàng
Hòa Bình – Hoàng Cao Cương – Trần Thị Minh Phương – Nguyễn Trí.
Nhà xuất bản Giáo Dục
4. SGV Tiếng Việt 1 ( Tập 2). Tác giả: Đặng Thị Lanh ( chủ biên) – Hoàng
Hòa Bình – Hoàng Cao Cương – Trần Thị Minh Phương – Nguyễn Trí.
Nhà xuất bản Giáo Dục.
STT
Nội dung
Trang
19
1
A. Mở đầu
1
2
1. Lí do chọn đề tài
1
3
2.Mục đích nghiên cứu
1
4
3. Đối tượng nghiên cứu
2
5
4. Phương pháp nghiên cứu
2
6
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
7
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
8
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
9
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
10
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
15
11
C. Kết luận, kiến nghị
17
MỤC LỤC
20
STT
Nội dung
Trang
1
A. Mở đầu
1
2
1. Lí do chọn đề tài
1
3
2.Mục đích nghiên cứu
1
4
3. Đối tượng nghiên cứu
2
5
4. Phương pháp nghiên cứu
2
6
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
7
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
8
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
9
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
10
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
15
11
C. Kết luận, kiến nghị
17
21
MỤC LỤC
22
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
trang 1
trang 2
I. Thực trạng hiện nay
trang 2
1. Về giáo viên
trang 2
2. Về học sinh
trang 2
II. Các biện pháp thực hiện
trang 3
III. Kết quả
trang 15
C. Kết luận
trang 17
23