SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THANH PHỐ THANH HÓA
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4
Người thực hiện: Lê Thị Hường
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Điện Biên 2
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
THANH HÓA NĂM 2016
I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục Tiểu học là bậc học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu tiên để
giúp con người tồn tại và phát triển toàn diện về đức- trí- thể- mĩ. Đặc biệt là
môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các môn ở trường, nó hình thành
khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học
khác.
Tiếng Việt ở Tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Học thuộc lòng, Luyện
từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết...Mỗi môn đều có một
chức năng khi dạy Tiếng Việt cho học sinh, đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho
học sinh khi học văn.
Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn Luyện từ và câu có có nhiệm vụ cung
cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt
câu (nói - viết), kĩ năng đọc cho học sinh, cụ thể là:
+ Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết cơ bản
về từ và câu.
+ Rốn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.
+ Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có
ý thức sử dụng tiếng Việt trong văn hóa giao tiếp.
Phân môn Luyện từ và câu là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài
nhiệm vụ dạy học, môn học này còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng
Việt cho học sinh (về từ ngữ, câu văn...) kiến thức bước đầu về văn học, đời
sống và giáo dục tình cảm thẩm mĩ, giáo dục mĩ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung
cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn
chương...Môn học này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư
duy logic. Phân môn Luyện từ và câu ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học
sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, phát triển óc phân tích, học sinh còn
được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.
Phân môn Luyện từ và câu không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt
chẽ với chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ
được cái hay, cái đẹp, vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn
gàng sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Chính vì vậy,
nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của phân môn Luyện từ và câu nên tôi
mạnh dạn chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học
phân môn Luyện từ và câu lớp 4”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy muốn dạy tốt có hiệu quả các tiết
Luyện từ và câu ở lớp 4 người giáo viên phải nắm được mục đích, nội dung và
phương pháp dạy học để giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. Vì
vậy, người thầy rất quan trọng trong quá trình truyền thụ kiến thức và tìm những
2
biện pháp, phương pháp dạy học phù hợp để giờ học trở nên nhẹ nhàng, chất
lượng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Từ những thực tiễn áp dụng của bản
thân và kết quả đạt được nên tôi chọn đề tài "Một số kinh nghiệm đổi mới
phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4”.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh lớp 4A1 trường Tiểu học Điện Biên 2 –TP Thanh Hóa.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đọc và nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, sách giáo viên và các tài liệu có liên
quan của phân môn Luyện từ và câu.
Vận dụng một số phương pháp như: Phương pháp lí thuyết, phương pháp điều
tra, phương pháp phỏng vấn, phương pháp trực quan,...
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Phân môn Luyện từ và câu có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học sinh
Tiểu học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình dạy học, giáo viên đóng vai trò tổ chức hoạt động, học sinh là
chủ thể chủ động chiếm lĩnh kiến thức, mỗi học sinh đều được hoạt động, đều
được bộc lộ mình. Do đó, vấn đề dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân
môn Luyện từ và câu nói riêng hiện nay rất được chú trọng. Có nhiều chuyên đề,
phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng học tập của các em được nâng lên. Do
đó, với mong muốn làm thế nào để chất lượng của học sinh lớp 4 ngày càng
nâng cao thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học đó là
“mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt động học tập”.
2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4
Qua quá trình quan sát, dự giờ việc dạy và học của thầy trò, của các đồng
nghiệp trong thời gian trước đây tôi thấy có những nhận xét sau:
* Thuận lợi
- Về phía giáo viên: Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới: “Thầy
thiết kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi
nghiên cứu phương pháp giảng dạy phân môn Luyện từ và câu. Đặc biệt, nhà
trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy. Lớp học được trang bị đầy đủ
về cơ sở vật chất như: bàn ghế hợp quy chuẩn, bảng chống lóa, máy tính, máy
chiếu, thiết bị chiếu sáng đầy đủ,...phục vụ cho việc dạy và học được đảm bảo.
Giáo viên là người có tay nghề, có đầy đủ SGK, sách hướng dẫn, tài liệu chuẩn
kiến thức và được học về cách sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, ứng
dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy...
- Về phía học sinh:
- Học sinh đã làm quen với cách học từ lớp 1, 2, 3 nên các em đã biết cách
lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Hầu hết các em học sinh đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập lại được sự
quan tâm của phụ huynh, mua sắm cho con em các loại sách giáo khoa, sách
tham khảo, sách hướng dẫn tương đối đầy đủ cũng góp phần nâng cao chất
3
lượng của môn học Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói
riêng.
* Khó khăn
- Ai cũng cho rằng dạy phân môn Luyện từ và câu thường khô khan, khó
truyền đạt được hết ý trong bài học, do đặc thù của môn học, nhất là trong cách
tìm từ, giải nghĩa từ hay dùng từ đặt câu...khiến cho học sinh cũng phải tiếp thu
bài một cách thụ động.
- Giáo viên đôi lúc còn giảng dạy theo phương pháp cũ, việc phân chia thời
lượng lên lớp ở môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt động của cô trò có lúc thiếu
nhịp nhàng, nặng tính hình thức.
- Bên cạnh đó có một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em
mình, còn có quan điểm “trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô giáo” cũng làm ảnh
hưởng đến chất lượng học tập của phân môn.
- Trong lớp, trình độ của các em không đồng đều, có nhiều học sinh chưa
thật sự chú trọng học môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Luyện từ và câu nói
riêng. Trong tư tưởng của các em và một số phụ huynh học sinh đều hướng cho
con em học môn Toán nhiều hơn mà chưa thật sự chú trọng học môn Tiếng Việt,
coi nhẹ môn Tiếng Việt, cho rằng các em chỉ cần đọc được, viết được là được.
Chính vì vậy nhiều học sinh không hứng thú với môn học, thờ ơ với môn học và
lệ thuộc vào các loại sách tham khảo, sách bồi dưỡng, sách bài tập có sẵn đáp
án, không chịu khó học, không chịu khó suy nghĩ hay chú tâm vào môn học,
nhất là đối với phân môn Luyện từ và câu, dẫn đến kết quả học tập các em chưa
cao, do các em chưa thật sự hứng thú với môn học này.
Qua khảo sát lần thứ nhất vào tuần 3 với bài Từ đơn và từ phức ở lớp 4A1,
tôi nhận thấy rằng trong bài làm của học sinh còn mắc nhiều lỗi, cách phân biệt
từ đơn, từ phức còn lúng túng, chưa rõ ràng, còn nhầm lẫn, chưa theo yêu cầu đề
bài. Chính vì vậy chất lượng phân môn Luyện từ và câu thấp dẫn đến chất lượng
các phân môn Tập đọc, Tập làm văn, Chính tả,...cũng thấp.
* Nguyên nhân của những tồn tại đó.
- Vì cho rằng phân môn Luyện từ và câu là môn học khô khan, không gây
được sự hứng thú với học sinh, bên cạnh đó sự tập trung của học sinh lại chưa
bền vững, khả năng tập trung chưa cao, hay nóng vội cũng làm ảnh hưởng đến
chất lượng môn học.
- Mặc dù học sinh có đủ sách vở học tập nhưng nhiều em không chịu học mà
phụ thuộc hoàn toàn vào sách có đáp án được in, bán sẵn.
- Cha mẹ học sinh không kịp thời khuyến khích, động viên con em học tập.
Đa số phụ huynh học sinh lại có nguyện vọng cho con học thiên về môn Toán
nhiều hơn.
- Bên cạnh đó còn một bộ phận học sinh do bị hổng kiến thức từ lớp dưới, do
khả năng tiếp thu bài hạn chế, nên không thể hoàn thành hệ thống bài tập trên
lớp.
Từ những tồn tại nêu trên tôi đã rất băn khoăn và trăn trở, luôn suy nghĩ để
tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng phân môn Luyện từ và câu. Mặc
4
dù trong giảng dạy phân môn Luyện từ và câu có nhiều thuận lợi nhưng cũng
không ít khó khăn. Song khó khăn nào cũng có hướng giải quyết, thuận lợi nào
đều có thể phát huy được. Vì vậy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và cùng trao đổi với
một số đồng nghiệp trong tổ, trong trường để đưa ra phương pháp dạy học thích
hợp tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học Luyện từ và câu. Được sự hỗ
trợ và giúp đỡ của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường, tôi mạnh dạn đưa ra
một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy phù hợp với nhận thức của học
sinh, nhằm giúp học sinh có hứng thú với môn học và nắm bắt bài một cách tốt
hơn để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4.
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* Các giải pháp thực hiện
a. Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng
của phân môn Luyện từ và câu.
Nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu gồm 62 tiết học, mỗi
tuần học 2 tiết. Học kì I là 32 tiết, gồm 5 chủ điểm. Học kì II là 30 tiết gồm 5
chủ điểm. Mỗi chủ điểm học sinh được học một chủ đề tương ứng với từng chủ
điểm đó.
b. Yêu cầu kiến thức
- Mở rộng và hệ thống hòa vốn từ : môn Tiếng Việt có 10 đơn vị học thì phân
môn Luyện từ và câu mở rộng và hệ thống hóa 10 chủ điểm đó.
- Trang bị kiến thức giảng dạy về từ và câu.
* Từ - Cấu tạo tiếng : - Cấu tạo từ : Từ đơn, từ ghép và từ láy.
- Từ loại : Danh từ, động từ, tính từ.
* Các kiểu câu : Câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến, câu cảm.
* Các dấu câu : Dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép,
dấu ngoặc đơn.
c. Yêu cầu kĩ năng về từ và câu
+ Từ:
- Nhận biết được cấu tạo của tiếng.
- Giải các câu đố liên quan đến cấu tạo của tiếng.
- Nhận biết từ loại.
- Đặt câu với từ đã cho.
- Xác định tình huống sử dụng Thành ngữ - Tục ngữ.
+ Câu:
- Nhận biết các kiểu câu.
- Đặt câu theo mẫu.
- Nhận biết các kiểu trạng ngữ.
- Thêm trạng ngữ cho câu.
- Tác dụng của dấu câu.
- Điền dấu câu thích hợp.
+ Dạy Tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp:
5
Thông qua nội dung dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4, bồi dưỡng cho
học sinh ý thức và thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng
tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa.
- Chữa lỗi dấu câu.
- Lựa chọn kiểu câu, kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần đạt được cũng như là
nhiệm vụ mà người giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy phân môn này.
d. Nắm vững quy trình dạy Luyện từ và câu ở lớp 4
Cách dạy theo 2 dạng bài lí thuyết và bài thực hành.
e. Vận dụng một số phương pháp dạy học khi dạy luyện từ và câu ở lớp 4.
+ Phương pháp vấn đáp
Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra
những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn cho học sinh tư duy từng bước
một để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học.
Phương pháp gợi mở vấn đáp nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ, tư duy
sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như
kinh nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi
kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn.
Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội
dung bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng, dễ dàng phù hợp với mọi đối tượng
học sinh
trong cùng một lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ sau đó cho
học sinh trả lời, các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này phù hợp với cả
hai loại bài lí thuyết và thực hành.
VD: Khi dạy bài Danh từ (tuần 5) mục đích của bài là học sinh phải nắm được Danh từ là gì?- Biết tìm danh từ trong đoạn văn và đặt câu với danh từ đó.
- Giáo viên đưa ra ví dụ:
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình.
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
+ H: Em hãy tìm những từ chỉ sự vật trong đoạn thơ?
Dòng 1: Truyện cổ
Dòng 5: Đời, cha ông
Dòng 2: Cuộc sống, tiếng xưa
Dòng 6: Con sông, chân trời
Dòng 3: Cơn nắng, cơn mưa
Dòng 7: Truyện cổ
Dòng 4: Con sông, rặng dừa
Dòng 8: Ông cha.
+ H: Hãy sắp xếp các từ vừa tìm được vào từng nhóm sau cho thích hợp:
- Từ chỉ người: Ông cha- Cha ông
- Từ chỉ vật: sông, dừa, chân trời.
- Từ chỉ hiện tượng: mưa, nắng
6
- Từ chỉ khái niệm : Cuộc sống, truyện cổ, tiếng xưa, đời.
- Từ chỉ đơn vị : Cơn, con, rặng.
+ H : Những từ đó thuộc loại từ gì? (Danh từ)
+ H: Vậy danh từ là gì? (Danh từ là những từ chỉ sự vật: người, vật, hiện tượng,
khái niệm hoặc đơn vị).
Như vậy, qua 4 câu hỏi gợi mở cho các em hình thành một khái niệm ngữ
pháp mà nội dung của bài đề ra.
Tóm lại phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả tiết học và
phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh.
+ Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là cách mà giáo viên đưa ra những tình
huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vần đề, tự giác hoạt động, trực
tiếp chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề thông qua đó mà kiến tạo tri thức,
rèn luyện kĩ năng.
Tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lí thuyết vào giải quyết vấn đề
của thực tiễn. Nâng cao kĩ năng phân tích và khái quát từ tình huống cụ thể và
khả năng độc lập cũng như khả năng hợp tác trong quá trình giải quyết vấn đề.
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước câu hỏi sao cho
phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài học, đảm bảo tính sư phạm,
đáp ứng với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải
quyết vấn đề mà học sinh đưa ra.
VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ:“Đồ chơi - Trò chơi”(tuần 16). Giáo viên đưa
ra một số thành ngữ - tục ngữ sau: “Chơi với lửa”, “Ở chọn nơi, chơi chọn
bạn”, “Chơi diều đứt dây”, “Chơi dao có ngày đứt tay”, hãy chọn câu thành
ngữ, tục ngữ thích hợp để khuyên bạn:
a- Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi.
b- Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ
mình gan dạ.
- Với tình huống (a) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ: “Ở chọn nơi,
chơi chọn bạn”. Nhưng với tình huống (b) các em có thể chọn 1 hoặc 2 thành
ngữ tục ngữ như:“Chơi với lửa” hoặc “Chơi dao có ngày đứt tay” đều được.
*Tóm lại: Với phương pháp này người giáo viên cần hiểu rằng trong từng
tình huống cụ thể sẽ có nhiều cách giải quyết hay, thích hợp để học sinh có thể
ứng dụng vào trong học tập, trong cuộc sống.
+ Phương pháp trực quan.
Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên có sử
dụng các hình ảnh trực quan nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật
và thu nhận được kiến thức, rèn luyện kĩ năng theo nội dung bài học một cách
thuận lợi. Thu hút
sự chú ý và giúp học sinh hiểu bài, ghi nhớ bài tốt hơn, học sinh có thể khái quát
nội dung bài và phát hiện mối liên hệ của các đơn vị kiến thức.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo nội dung cần truyền đạt.
7
VD: Khi dạy bài “Mở rộng vốn từ:Đồ chơi – Trò chơi” (tuần 15) giáo viên
đưa ra 6 bức tranh trong SGK Tiếng Việt 4 tập 1 (trang 147) để tìm ra các từ ngữ
chỉ tên đồ chơi – trò chơi mà các em được mở rộng trong bài học.
Bức tranh 1: HS tìm từ chỉ đồ chơi: Diều – Trò chơi: thả diều.
Bức tranh 2: đồ chơi: đèn ông sao, trống cơm, đầu sư tử – trò chơi: múa
lân, rước đèn, đánh trống.
Bức tranh 3: đồ chơi: dây, nồi (xoong), bộ xếp hình, búp bê – trò chơi:
nhảy dây, nấu ăn, cho bé ăn bột…
Bức tranh 4: đồ chơi: máy tính, bộ xếp hình – trò chơi: điện tử, xếp hình.
Bức tranh 5: đồ chơi: dây thừng – trò chơi: kéo co.
Bức tranh 6: đồ chơi: khăn – trò chơi: bịt mắt bắt dê…
Qua bài học này các em cũng thấy được những trò chơi nào có lợi, những
trò chơi nào có hại, nên tránh.
*Tóm lại: Sử dụng phương pháp trực quan giảng giải khi dạy phân môn
Luyện từ và câu là rất quan trọng vì sẽ khai thác được triệt để các kênh hình của
bài học, nhờ đó mà giáo viên giúp học sinh nắm bài một cách tốt hơn.
+ Phương pháp rèn luyện theo mẫu.
Là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ thể qua đó hướng
dẫn học sinh tìm hiểu các đặc điểm của mẫu, cấu tạo mẫu và thực hiện theo mẫu.
Phương pháp rèn luyện theo mẫu giúp học sinh có điểm tựa để làm bài, đặc
biệt là với học sinh chưa ham học, còn đối với học sinh nắm được bài không bắt
buộc phải theo mẫu để học sinh có thể phát huy được tính tích cực chủ động.
+ Phương pháp phân tích.
Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn tổ chức
của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ đó rút
ra bài học. Giúp học sinh tìm tòi, huy động vốn kiến thức cũ của mình để tìm ra
kiến thức mới. Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung và
hình thức thể hiện).
VD: Khi dạy bài “Câu hỏi và dấu chấm hỏi” (tuần 13), tiến hành như sau:
Bước 1: Cho học sinh tìm ra các câu hỏi trong bài tập đọc “Người tìm đường lên các vì sao”. Các em sẽ tìm được 2 câu:
1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được?
2. Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như
thế?
Bước 2: Phân tích:
H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi- ôn- cốp - xki hỏi mình)
H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi- ôn- cốp- xki hỏi)
H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi? (Cuối câu có dấu chấm
hỏi)
Giáo viên nêu: Khi đọc câu hỏi phải nhấn mạnh vào ý cần để hỏi.
Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra được bài học:
1. Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết.
VD: - Có phải trái đất quay xung quanh mặt trời không?
8
- Bạn Hoa là lớp trưởng lớp 4A1 à?
2. Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác nhưng cũng có những câu để tự hỏi
mình.
VD: - Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ?
- Vì sao Trái Đất lại quay nhỉ?
3. Câu hỏi thường có các từ nghi vấn (có phải, không, phải không, à,…). Khi
viết cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?).
VD: - Bạn đã học bài rồi à?
- Chú bé đất trở thành chú Đất Nung phải không?
Tóm lại, trên đây là một số phương pháp dạy học mà tôi đã áp dụng trong
phân môn Luyện từ và câu, tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có một
phương pháp dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh mặt yếu của nó. Mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương pháp kia. Cho nên để tránh nhàm chán cần phối hợp nhiều phương pháp
giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, có như vậy tiết học mới đạt
kết quả tốt.
* CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để có thể thực hiện các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của phân môn Luyện
từ và câu theo chuẩn kiến thức và kĩ năng của bộ giáo dục, tôi mạnh dạn đề ra
một số biện pháp thực hiện dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 như sau:
Biện pháp thứ nhất: Phát huy ý thức học tập của học sinh từ đó bồi dưỡng
hứng thú học tập cho học sinh qua các bài học.
Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt, một trong những nhiệm vụ của
phân môn Luyện từ và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng Tiếng Việt
văn hoá. Để thực hiện nhiệm vụ đó giáo viên cần bồi dưỡng hứng thú học tập
cho học sinh, học sinh cần có ý thức học tập đúng đắn.
Trước hết, đó là cách làm giúp cho học sinh ý thức được ích lợi của việc học
để tạo động cơ học tập. Cho nên ở mỗi tiết dạy người giáo viên đều cần hướng
đến việc hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Dạy Luyện từ và câu
chính là dạy cho các em kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp nhưng giáo viên cần đưa ra một số thủ pháp dạy học, hình thức dạy học phù hợp với sở thích của các
em, đó chính là các trò thi đố, các trò chơi để gây hứng thú cho học sinh trong
giờ học, giảm bớt sự căng thẳng, nhàm chán.
Bên cạnh đó người giáo viên cần thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực
và tốt đẹp giữa cô và trò, giữa các trò với nhau cũng sẽ tạo được hứng thú học
tập cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn, cùng với một bầu không
khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo hứng thú cho cả cô và trò. Vì vậy, bên
cạnh việc giáo dục tính mục đích kỉ luật, ý thức về trách nhiệm v.v…cho học
sinh, với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy trong nhà trường phải là người tổ
chức thật hấp dẫn, tạo niềm vui, phải phấn đấu sao cho “Mỗi ngày các em đến
trường là một ngày vui”. Mỗi học sinh sẽ luôn mong muốn phải là người được
hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Bởi vậy, giáo viên phải thường xuyên tìm hiểu
học sinh muốn việc học diễn ra như thế nào? Cái gì làm các em thích? Cái gì
9
làm các em không thích? để có thể tổ chức quá trình dạy học như các em mong
đợi.
Trong quá trình dạy học người giáo viên cần chú trọng vào mặt thành công
của trẻ, nhìn nhận các em theo cách nhìn: em nào cũng ngoan, em nào cũng cố
gắng. Chỉ có em này ngoan cố gắng nhiều hơn, em kia ngoan cố gắng ít hơn mà
thôi. Bên cạnh đó giáo viên là người luôn nâng đỡ, khích lệ, thông cảm chú
trọng vào mặt thành công của các em, đề cao tính sáng tạo của các em. Đôi lúc
cô giáo cũng cần tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng, tôn trọng những sáng tạo của các
em dù là rất nhỏ, giúp các em tự phát hiện ra chân lí. Sau cùng là cách kiểm tra
đánh giá của cô giáo đối với các em. Việc đánh giá trong dạy học đòi hỏi phải
nghiêm khắc nhưng không có nghĩa là khắt khe và quá chặt chẽ khi đánh giá,
nhận xét. Có thể đặt ra câu hỏi ‘‘Cần đặt ra yêu cầu gì với các em để đánh giá,
nhận xét hợp lí, nhằm khuyến khích học sinh học tốt hơn ?’’. Thành quả mà các
em thấy được qua sự học tập của mình được thể hiện bằng lời cô khen. Chỉ có
đạt được thành công trong học tập mới thực sự tạo ra hứng thú và niềm say mê
cho các em. Chỉ có thành công, niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động
khi thành công mới là nguồn gốc thật sự của ham muốn học tập.
*Tóm lại, để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật
trong quá trình dạy học của người giáo viên. Tạo hứng thú cho học sinh trong
học tập cũng chính là làm cho các em thấy hạnh phúc trong học tập, bởi vì học
là hạnh phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại mà hạnh phúc còn nằm
ngay trong chính sự học từ đó mà các em nâng cao ý thức trong học tập.
Biện pháp thứ hai: Biện pháp về tài liệu, đồ dùng học tập.
Người giáo viên phải là người giúp học sinh biết cách lựa chọn và sử dụng
các tài liệu, đồ dùng học tập như thế nào cho phù hợp. Tài liệu nào các em có thể
sử dụng khi học ở trên lớp, khi học ở nhà, nguồn tài liệu nào phù hợp với các em
hay khi nào thì có thể sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, sách tham khảo.
Không chỉ sử dụng các thông tin có trong sách mà các em còn có thể tự tìm tòi,
tự làm lấy để trở thành đồ dùng học tập hữu ích. Từ đó học sinh sẽ chủ động hơn
khi sử dụng các loại tài liệu mà không còn phụ thuộc hay lệ thuộc vào sách tham
khảo. Làm được điều này cũng đồng nghĩa với việc học sinh sử dụng các loại
sách tham khảo, có sẵn đáp án chỉ là một tài liệu giúp các em dùng để so sánh
với kết quả bài làm của mình.
Biện pháp thứ ba: Biện pháp về phân chia đối tượng học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh, giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh, vì vậy có thể chia
nhóm học sinh để có phương pháp dạy thích hợp. Muốn phát huy được tính tích
cực chủ động của học sinh người giáo viên phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi
bài thật cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh. Cụ thể:
VD: Khi dạy bài “Câu kể Ai làm gì?” (tuần17)
Bài tập 1: Đọc đoạn văn sau:
10
“Trên nương, mỗi người một việc. Người lớn đánh trâu ra cày. Các cụ già
nhặt cỏ, đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm. Các bà mẹ tra ngô. Các em bé
ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả rừng.” (Theo Tô Hoài)
Tìm trong mỗi câu trên các từ ngữ:
a) Chỉ hoạt động.
b) Chỉ người hoặc vật hoạt động.
Thì học sinh có thể tìm được:
+ Từ chỉ hoạt động: đánh trâu ra cày, nhặt cỏ đốt lá, bắc bếp thổi cơm, tra ngô,
ngủ khì trên lưng mẹ, sủa om cả rừng.
+ Từ chỉ người hoặc vật hoạt động: người lớn, các cụ già, mấy chú bé,các bà
mẹ, các em bé, lũ chó.
Lúc này giáo viên gạch chân những từ ngữ mà các em đã tìm được. Sau đó tiến
hành hỏi: Em hãy đặt câu hỏi cho từng từ ngữ chỉ hoạt động?
Thì học sinh nêu: Người lớn làm gì? Các cụ già làm gì?...
Giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học để cho tất cả
các em đều được nói, đều được làm việc phù hợp với khả năng tư duy của các
em.
Biện pháp thứ tư: Biện pháp về phân bố thời gian học tập.
Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4, việc phân
bố thời gian học tập cho học sinh một cách hợp lí cũng là một yếu tố quan trọng
của sự thành công. Người giáo viên phải biết phối kết hợp nhịp nhàng các hoạt
động dạy
học và phân chia thời gian của từng hoạt động đó phù hợp trong mỗi tiết học,
mỗi bài học cụ thể. Tránh tình trạng hết tiết học mà không hết bài hoặc ngược lại
tạo cơ hội cho học sinh không làm việc. Điều này cũng giúp ích cho học sinh
trong việc tự phân bố thời gian học ở nhà hợp lí, mang lại hiệu quả cao.
*Về phía gia đình: Giáo viên cần gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh
cùng phối kết hợp để giúp đỡ, kèm cặp các em chưa ham học, chưa cố gắng
trong học tập. Vì vậy nhiệm vụ học tập của học sinh không thể tách rời khỏi yếu
tố gia đình, bởi đây chính là động lực cơ bản thúc đẩy các em phấn đấu cho sự
học của mình.
*Về phía bạn bè: Giáo viên cũng cần tranh thủ sự trao đổi thông tin, học
hỏi
lẫn nhau giữa học sinh với học sinh. Đôi khi qua cách nói nôm na của bạn bè lại
giúp cho học sinh thấy đơn giản và dễ hiểu hơn, bởi “Học thầy không tày học
bạn”. Xây dựng nhóm “Đôi bạn cùng tiến”, cùng nhau tham gia các hoạt động
ngoài giờ lên lớp như các giờ chơi, giờ chào cờ, các cuộc tọa đàm, trao đổi, sinh
hoạt, các em sẽ thấy thích thú và tự giác tích luỹ được vốn từ, vốn kiến thức cho
mình.
VD : Qua bài Mở rộng vốn từ Đồ chơi – Trò chơi các em cũng thấy được
những trò chơi nào có lợi, những trò chơi nào có hại, nên tránh.
Thông qua các cuộc tọa đàm trao đổi đó, các em sẽ học được ở bạn bè để đặt
câu hỏi một cách lịch sự, tránh hỏi trống không hoặc những câu hỏi tò mò thiếu
11
tế nhị. Biết giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị với mọi người xung
quanh.
*Về phương tiện, thiết bị: Giáo viên cần tận dụng và sử dụng một cách
triệt để các đồ dùng và trang thiết bị dạy học không chỉ trong quá trình dạy học
mà còn đóng góp một phần không nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh. Với đối tượng học sinh khả năng tư duy trừu tượng thấp do đó cần tăng cường, hỗ trợ các
em về khả năng tư duy bằng hình ảnh, bằng âm thanh… bằng trực quan sinh
động sẽ giúp các em tiếp thu bài tốt hơn, hiệu quả hơn.
Biện pháp thứ năm: Biện pháp về lập kế hoạch bài học.
Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và
những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài
học mà xây dựng kế hoạch bài giảng cho phù hợp. Song, cho dù thế nào cũng
cần có đầy đủ các hoạt động lớp và tổ chức các hoạt động đó một cách phong
phú, phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung
của bài dạy và chủ điểm của bài đó.
Có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy.
Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây
hứng thú cho học sinh, tránh nhàm chán đơn điệu.
VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: Ước mơ (tuần 9)
Bài tập 2: Học sinh thảo luận nhóm đôi
Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ước mơ”
- HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ ước”: ước muốn, ước mong, ước ao,…
- HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ ước, mơ mộng, mơ tưởng,...
Bài tập 3: Nêu yêu cầu viết thêm những từ : đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn, nho
nhỏ, kì quặc, dại dột, chính đáng... vào sau từ ước mơ thể hiện sự đánh giá :
+ HS thảo luận nhóm 4.
- Đánh giá cao: ước mơ đẹp, ước mơ chính đáng, ước mơ cao cả, ước mơ
lớn, ước mơ đẹp đẽ.
- Đánh giá không cao: ước mơ nho nhỏ.
- Đánh giá thấp: ước mơ kì quặc, ước mơ dại dột, ước mơ viển vông.
Bài tập 4: Nêu VD về 1 loại ước mơ nói trên.
+ Bài này cho học sinh làm việc cá nhân.
VD: +Ước mơ được đánh giá cao: Đó là những ước mơ vơn lên làm những việc
có ích cho mọi người như: - Ước mơ học giỏi để trở thành bác sĩ/ kĩ sư…
- Ước mơ chinh phục vũ trụ…
+ Ước mơ được đánh giá không cao: Đó là những ước mơ giản dị, thiết thực, có
thể thực hiện được không cần nỗ lực lớn: ước mơ có truyện đọc/ có xe đạp/ có
một đồ chơi…
+ Ước mơ bị đánh giá thấp: Đó là những ước mơ phi lí, không thể thực hiện được hoặc là những ước mơ ích kỉ, có lợi cho bản thân nhưng gây hại cho người
khác:
- Ước mơ được xem ti vi suốt ngày/ ước không phải học mà vẫn đạt kết quả
cao…
12
- Ước mơ thể hiện lòng tham không đáy của vợ ông lão đánh cá.
- Ước mơ tầm thường – ước được ăn dồi chó – Ba điều ước.v.v…
Tóm lại, vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi
nổi, gây hứng thú cho học sinh, sẽ giúp học sinh tiếp thu bài học một cách tốt
hơn, nắm vững nội dung của bài học. Bên cạnh đó giáo viên cần phải có dự kiến
về các câu trả lời của học sinh và các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong
mỗi hoạt động, từ đó có biện pháp giải quyết, điều chỉnh kịp thời. Việc tổ chức
các hoạt động học tập có tác dụng rất lớn đến việc giảng dạy phân môn Luyện từ
và câu, giúp học sinh biết quý trọng và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt từ
đó hình thành cho các em nhân cách sống và kĩ năng sống. Do đó, để có kết quả
cao trong tiết dạy Luyện từ và câu giáo viên cần lập kế hoạch bài học chu đáo,
cẩn thận, chuẩn bị về mọi mặt cho tiết dạy một cách tốt nhất. Việc làm này phải
diễn ra trước khi thi công bài dạy trên lớp học.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Với quan điểm nhìn nhận đúng đắn đồng thời vận dụng các biện pháp để đổi
mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh trong các
giờ Luyện từ và câu tôi đó thu được một số kết quả sau :
- Giờ học Luyện từ và câu thực sự đem lại sự hứng thú học tập cho các em,
các em chăm chú nghe giảng, hăng hái tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài,
không còn tình trạng học sinh chán nản, ngại học. Tiết học thực sự đem lại niềm
vui cho cả cô và trò. Qua đó, tôi nhận thấy đổi mới phương pháp dạy học góp
phần làm cho tiết học nhẹ nhàng và đem lại hiệu quả cao, làm cho các em bớt
căng thẳng và tạo được niềm vui trong học tập cho các em.
- Qua quá trình vừa nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy vừa áp dụng vào
thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng những phương pháp dạy học mà tôi áp dụng
đã có những kết quả đáng vui mừng và phấn khởi.
Sau khi khảo sát lần 2 vào cuối học kì I (tuần 18) với bài tập Tìm danh từ,
động từ, tính từ trong đoạn văn. Kết quả khảo sát cho thấy chất lượng học tập
phân môn Luyện từ và câu Lớp 4A1 đã được nâng lên trông thấy. Cụ thể, trong
bài làm các em đã thể hiện được, đó là các em hiểu và phân biệt được từ loại
một cách rõ ràng, biết sử dụng từ loại trong đặt câu và viết văn. Kết quả trên đã
minh chứng cho cách làm như đã nêu là hiệu quả và đi đúng theo sự chỉ đạo của
nhà trường và của ngành đề ra. Cho đến nay tôi vẫn tiếp tục thực hiện và phát
huy những mặt đạt được, khắc phục những mặt còn tồn tại để năng cao chất lượng dạy học hơn nữa.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu tôi xin rút ra một số kết luận sau :
- Trước hết giáo viên phải là người nắm vững chương trình, kiến thức, kĩ năng
tiếng Việt, có vốn sống phong phú.
- Thực sự yêu nghề, có tâm huyết với nghề.
13
- Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, nghiên cứu tài liệu, sách báo... giao
lưu học hỏi đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm để ngày càng làm phong phú
thêm vốn kiến thức, kĩ năng cho mình.
- Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, thiết kế bài học một cách khoa
học, sáng tạo và linh hoạt.
- Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc
làm, thái độ, cử chỉ thân thiện. Có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi
theo.
- Giáo viên là người khơi dậy niềm say mê hứng thú cho học sinh với phân
môn Luyện từ và câu nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung, luôn phối hợp với gia
đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học tập.
2. KIẾN NGHỊ
Trong quá trình thực hiện đề tài: "Một số kinh nghiệm đổi mới phương
pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4” tôi đã tham khảo các tài liệu
dạy học của phân môn cũng như học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè đồng nghiệp, đề
tài đã hoàn thành và đã dạy thực nghiệm ở lớp 4A1 năm học 2015 – 2016. Trong
thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, bí quyết nghề nghiệp
riêng của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo cũng
như bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi có tính khả thi hơn. Rất mong sự góp ý
tận tình của đồng nghiệp và cấp trên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 21 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Lê Thị Hường
14
* TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 (Tập 1, 2)
- Sách giáo viên Tiếng Việt 4
- Sách thiết kế bài dạy Tiếng Việt 4
- Các phương pháp dạy học Tiếng Việt 4
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng Tiếng Việt lớp 4
- Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên các môn học lớp 4
- Tạp chí Giáo dục Tiểu học
15
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trang
1
1
2
2
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng của việc dạy Luyện từ và câu lớp 4
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2
2
4
12
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
12
13
*TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
16